Chiếc Xe Đạp Màu Xanh

Quyển 1 - Chương 19

Nôel năm 1940, một trong những lễ Nôel buồn bã nhất của người Môngtiac. Ba tuần nữa trước, họ vừa mai táng ông đờ Acgila chết trong khi ngủ, sau một căn bệnh mà không một người thân nào của ông cho là nghiêm trọng. Ông qua đời mà không được gặp lại con trai, như ông đã tiên đoán. Được tin người bạn tốt nhất mất, Pie sững sờ hết mấy ngày. Lêa phải lo những thủ tục cần thiết. Nàng viết thư báo tin buồn cho Lôrăng và hỏi anh cần làm gì về vấn đề trang trại. Nàng đã cãi vã kịch liệt với Phrăngxoadow, trách cô ta không giúp ích gì cho công việc quản lý gia đình mà chỉ nghĩ tới bệnh viện, trong lúc gia đình cần tới cô ta.

- Tôi cũng lo toan có khác gì cô đâu. Ai mang thịt về nào, trong khi không tìm thấy được ở đau cả? Còn dầu rán ư? Đường và hai mươi túi than ư? Cô đấy chắc? Nếu tôi cũng hùng hục như cô ở đây thì có lẽ cả nhà chẳng có gì tọng vào mồm đâu.

Đúng thế, Phrăngxoado nói có lý. Giá không có chị ấy thì chắc hẳn cả nhà đành ăn củ cải, khoai tây và hạt dẻ mà Lêa, Lorơ và bà Ruýt đi nhặt trong rừng gần La Rêôn. Nhưng chị ấy làm gì? Nhất là chị ấy không bao giừo hói đến tiền bạc, bảo rằng tiền lương y tá là đủ tiêu rồi. Lêa không tin như vậy vì ngoài các nhu yếu phẩm, Phrăngxoado thỉnh thoảng vẫn mua váy, áo, khăn quàng và cả giày dép nữa. Chị đã hứa tìm cách mua cho cô một đôi ở hợp tác xã của bệnh viện.

Đã rất nhiều lần, Lêa cố làm cho Phrăngxoado quan tâm đến số phận của Môngtiac, hỏi ý kiến của chị về cách quản lý trang trại trong lúc chờ đợi ông bố vượt qua nỗi sầu muộn. Nhưng trước sau, chỉ có một câu trả lời hờ hững.

- Tất cả những việc cô làm đều tốt, cô em gái của chị ạ.

- Nhưng công việc liên quan tới chị, vì là đất đai của chúng ta, ngôi nhà nơi chúng ta chào đời, ngôi nhà mà mẹ mến yêu trang hoàng.

- Tôi chẳng bao giờ hiểu vì sao tất cả các người lại gắn bó với túp nhà cũ kỹ và nhất là vùng thôn dã buồn bã đến muốn chết này được.

Lêa im lặng trước lời chê bai ấy và cũng như thời thơ ấu, nhảy xô và đnhá chị gái. Cô chị né tránh được và chạy trốn vào buồng. từ ấy, quan hệ giữa hai chi em ngày thêm căng thẳng.

Cũng như mọi năm, mặc dù có tiếng bom về phía Boócđô, bà già Ruýt vần cắm cây thông truyền thống trong phòng khách và tô điểm nó với những vòng hoa và những viên thuỷ tinh mà Idaben cất giữ kỹ lưỡng trong hộp đựng giày dép từ khi cô con gái đầu lòng ra đời. Đây là lần đầu tiên bà không đặt vào trong máng cỏ bức tượng Giêsu lúc bé bằng sáp ong. Cami làm cái công việc có ý nghĩa tượng trưng ấy.

Về bữa ăn trưa, Exten và bà Phaya cố hết sức mình: một con gà tây đồ sộ - dĩ nhiên của Phrăngxoadơ, cải bắp hầm nhừ với nước luộc gà, mứt lật và một chiếc bánh sôcôla, tuyệt phẩm Exten. Lại thêm mấy chai vang nhà làm lấy.

Trời rét đậm. Họ không đi dự lễ Misa nửa đêm, và ăn khuya trước giờ. Tuy đang chịu tang, tất cả mọi người đều cố gắng ăn mặc tử tế: khăn quàng, vòng cổ và một bông hoa nổi lên trên trang phục màu đen. Chú bé Saclơ nở những nụ cười đầu tiên.

Ăn xong, cả gia đình bước sang phòng khách ấm áp và sáng rực nhờ những cây nến trên cây Nôel và ngọn lửa trong lò sưởi. Cami tặng Lêa một vòng hạt trai lộng lẫy xưa kia của mẹ chị.

- Cami, đẹp quá! Tôi không thể nhận được đâu.

- Tôi van chị, chị thân yêu, chị nhận cho tôi vui lòng.

Còn Lêa thì xấu hổ vì món quà quá đơn sơ của mình: bức vẽ chân dung bé Saclơ, mà Cami ấp ủ trong lòng.

- Không có gì có thể làm tôi vui thích hơn. Chị có cho phép tôi gửi cho Lôrăng không?

- Nó là của cô, cô muón làm gì tuỳ cô.

Phrăngxoadơ và Lôrơ, mỗi người được một chiếc xuyến vàng; bà Ruýt một chiếc trâm đính ngọc; Lida một vành đăng ten; Becnađet và Exten mỗi người một khăn quàng lụa. Cami tặng Pie một hộp xì gà mà ông rất thích.

Bà già Ruýt và Becnađet thì tặng găng tay, khăn quàng, tất và săng đây do họ đan vào các buổi tối. Ai nấy đều tìm cách làm người khác vui lòng trong phạm vi khả năng của mình. Hai bà già độc thân Môngplâynet tặng mấy cô cháu gái họ một tấm vải titxuy. Trong niềm hân hoan có phần mệt mỏi thường gắn liền với việc trao tặng quà Nôen, mọi người quên đi trong một lúc những nỗi lo âu, sợ hãi và chiến tranh, lắng nghe Phrăngxoado chơi một bản hành khúc của Bach.

Lần đầu tiên Lêa nghĩ tới Idaben một cách bình tĩnh. Một bàn tay nắm lấy tay nàng. Nàng không rụt tay lại tuy nhận biết những ngón tay gầy gộc của Cami. Phrăngxoadơ thôi chơi đàn. Có tiếng vỗ tay vang lên ngoài cửa, trước khi cử toạ chưa kịp hoan hô. Mọi người quy lại. Ôttô và Phrêđêric Hăngcơ đứng trong tiền sảnh, Phrăngxoadơ đứng dậy, tiến về phía họ. Lát sau, họ bước vào phòng khách.

- Cô con gái ông khẩn khoản bảo bạn tôi và tôi vào. - Trung uý Crame lên tiếng - Chúng tôi đã mạn phép xuống nhà đứng nghe bản nhạc của Bach. - Anh ta ngoảnh sang nói thêm với Pie Đenmax - Mẹ tôi là một nhạc sĩ xuất sắc, bà rất thích Bach. Cho phép tôi chúc các vị một ngày lễ Nôel tốt lành, mặc dù chiến tranh.

Hắn đập gót và bước ra cửa.

Hết sức bất ngờ, Cami đề nghị.

- Trong ngày Nôel này, chúng ta hãy quên đi chúng ta là kẻ thù của nhau. Mời các ông dùng một cốc rượu với chúng tôi.

- Cảm ơn bà Cami - Phrêđêric Hăngcơ đáp.

- Héilige weinacht! - nàng nói.

- Một ngày Nôel vui vẻ! - Hai người Đức đáp lại bằng tiếng Pháp.

- Ông trung uý, ông bảo thân mẫu ông là nhạc sĩ. Thế bản thân ông có phải là nhạc sĩ không? - bà Lida vừa lấy điệu bộ vừa hỏi.

- Anh ấy là một trong những tay dương cầm có nhất nước Đức đấy - bạn hắn bảo.

- Bà chớ tin, bạn tôi nói quá đấy.

- Nhưng, thưa trung uý...

- Im đi, Phređêric.

- Ông trung uý. - Phrăngxoadơ năn nỉ - ông cho chúng tôi nghe một bài.

Mọi con mắt đổ dồn về phái cô ta. Cô gái thẹn cúi đầu. Ai cũng biết Phrăngxoadơ say mê âm nhạc. Cô không bỏ sót một buổi hoà nhạc nào ở Boócđô. Cô chẳng đi nghe bản Xăxoong và Đalila và bản Bôlêrô của Raven mặc dù bà già Ruýt và các bà la rầy đó sao?...Nhưng yêu cầu một sĩ quan Đức chơi nhạc thì quá lắm...!

- Thưa cô, nếu cụ thân sinh cô cho phép thì tôi rất sung sướиɠ làm vui lòng cô.

- Thưa ngài sĩ quan, xin mời ngài, nhà tôi vốn yêu nhạc - Pie Đenmax vừa nói vừa rít hơi thuốc, bọ mặt xung huyết và ánh mắt xa vắng.

Ôttô ngồi vào dương cầm.

- Chị sẽ thấy là hắn chơi nhạc của Vance cho mà xem - Lêa nói nhỏ vào tai Cami.

Với một sự tinh tế làm mọi người xúc động, hắn chơi một cách kỳ tài mấy bản nhạc Đơbuyxy soạn cho Piano. Nốt cuối cùng chấm dứt. Một vài giây im lặng, rồi tiếng vỗ tay nổi lên rào rào. Niềm sung sướиɠ và kiêu hãnh làm rạng rỡ khuôn mặt xinh đẹp của Phrăngxoadơ, chỉ riêng một mình Cami nhận thấy.

Chính sau đêm Nôel, Lôrăng đờ Acgila cùng với một người bạn bỏ trốn trại tập trung Oexphalenhop. Hai người lợi dụng một chuyến đi lấy củi ở ngoài trại và được sự đồng loã của hai người bạn: hai người này sau khí khai ốm, rời khỏi bệnh xá và trà trộn vào đám người đi lao dịch sau lúc bọn lính gác đếm người. Vào đến rừng, Lôrăng và anh bạn nấp dưới đám lá cây um tùm. Trời rét đậm, tuyết rơi, bầu trời âm u. Bọn lính gác rút ngắn thời gian lao dịch, đếm số người tù: đủ số. Nhóm người trở về trại.

Sung sướиɠ đến cực độ, Lôrăng và người bạn đứng vụt dậy, băng mình đi tìm tự do. Tuyết rơi dày đặc. Nửa tiếng sau, họ phải đứng lại lấy hơi và cởi bỏ quần áo tù binh. Trong thời gian bị giam, Lôrăng đã chữa một chiếc áo giáp của một tay hiến binh Hà Lan thành một chiếc áo ngoài màu đen cài khuy chéo, bên trong mặc hai áo săng đay len Cami gửi tới. Anh đi găng ra lót lông thú, đi giày của Phrăngxoado mua cho và đội một chiếc mũ kiểu người bán than. Ba lô mang trên lưng đựng thực phẩm và đệm lông. Hai người đi về hướng nhà ga Gianxtrrop, cách bốn chục cây số.

Đêm đầu tiên, họ ngủ bên vệ đường, trong túp lều của phu sửa đường. Chiều hôm sau, họ vượt qua làng Gianxtrop. Trên đường vẫn còn những thứ trang trí trong dịp Nôel và từng cặp trai gái ôm nhau đi khiêu vũ. Qua cánh cửa hé mở của một hãng đại lý rượu vang, bay ra mùi rượu và mùi thuốc ấm áp, kèm theo điệu nhạc đàn gió...Họ vội vã ra ga, may ra có một chuyến tàu cứu mạng. Nhưng tất cả các chuyến tàu đều chạy theo hướng ngược lại. Rét cóng, họ nấp vào một toa tàu đỗ trên đường. Tuy có đệm lông, họ khổ sở vì rét cho đến tận sáng.

Qua một đêm dằng dặc, sáng hôm sau, họ lên một chuyến tàu đi Sanhđơmun tuy không có vé. Trong sáu ngày liền, họ đi lậu vé trên những toa chở khoai tây, súc vật hoặc đá. Thỉnh thoảng, họ lên một chuyến tàu khách, vẫn không có vé, tìm cách trà trộn vào đám đông. Vì Lôrăng biết tiếng Đức nên mấy lần họ thoát, không bị bắt. Và lần lượt họ tới Phrăngpho xuya lôdơ, Côtbuyx, Laidich, Halơ, Caxen, Phrăngpho xuya lơ Manh. Khi vượt qua sông Ranh ở Măyngxon, họ trốn trong chòi của những người gác ghi.

Cuộc hành trình của họ kết thúc ở Bingienbruc trước biển ghi giờ tàu khi anh bạn của Lôrăng bị một tên cảnh sát gọi và không thoát thân được vì không biết tiếng Đức. Chúng không bắt anh ngay lúc đó vì nghĩ phải có đồng loã. Thấy anh đằng xa, ngồi điềm tĩnh, Lôrăng bước tới. Bỗng anh bạn đứng vụt dậy và chạy đến một chiếc tàu hàng đang lăn bánh. Hai người leo lên được một toa không mui trong lúc bọn cảnh sát vừa chạy vừa kêu trên sân ga. Chẳng may tàu đỗ lại và lính Đức súng lục lăm lăm trong tay, tóm cổ họ, dẫn vào đồn cảnh sát nhà ga. Bầu không khí thay đổi khi Lôrăng trả lời những câu hỏi của chúng bằng thứ tiếng Đức hoàn hảo. Người ta cho họ súp nóng và thịt, và tỏ lời khen ngợi về "thành tích vừa đạt được". Sau đó giam họ vào nhà lao thành phố và ngày hôm sau, đưa về lại trại Oexphalenhop, dưới sự canh giữ chặt chẽ của ba tên lính.

Họ bị một viên sĩ quan tình báo xét hỏi, viên này thừa nhận là lẽ ra họ có thể thành công. Họ bị phạt ba mươi ngày xà lim. Chín ngày trôi qua từ khi họ bỏ trốn

Hết hạn xà lim, họ bị đại tá X, người cao tuổi nhất trong số tù binh ở trại II Đ, la rầy về những hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra, nếu không có sự rộng lượng của viên chỉ huy trại giam. Ông ta khuyên họ ngẫm nghĩ về ý thức bổn phận hiện tại của mình: làm những người tù binh đúng đắn góp phần hữu hiệu nhất vào đường lối của thống chế, đường lối này đảm bảo cho sự tức vị nay mai của một "nước Pháp châu âu".

Họ lại trở về trại tập trung. Nhưng không được lâu vì, để đảm bảo an toàn, người ta đưa họ đến một trại khác.

Một ngày hè, trên một bãi biển nước Pháp. Hơn bảy tháng trôi qua từ khi họ bị bắt.