(11) Lục, Toàn: chỉ Lục Tốn và Toàn Tông.
(12) Lỗ Hoành giang: chỉ Lỗ Túc, tự Tử Kính, từng được bái làm Hoành giang tướng quân, cho nên gọi là Lỗ Hoành giang.
(13) Thúc Tự: chỉ Trương Hưu tự Thúc Tự, là con thứ của Trương Chiêu.
(14) Sái Văn Chí: tức Sái Khoản, tự Văn Đức, người quận Bành Thành, xem Bùi Tùng Chi chú Trương Chiêu truyện có dẫn Ngô lục chép về người này.
NGÔ THƯ QUYỂN 8 - Trương Nghiêm Trình Hám Tiết truyện
Trương Hoành, Nghiêm Tuấn, Trình Bỉnh, Hám Trạch, Tiết Tống
TIẾT TỐNG TRUYỆN
Tiết Tống tự Kính Văn, người huyện Trúc Ấp nước Bái.
Ngô lục viết: Tổ tiên là Mạnh Thường Quân (1) được phong ở ấp Tiết. Tần diệt sáu nước thì mất lộc tự, con cháu tản mát. Hán Cao Tổ định thiên hạ, qua đất Tề, tìm dòng dõi của Mạnh Thường Quân, tìm được hai người cháu là Lăng, Quốc, muốn phong tước cho họ. Anh em Lăng, Quốc nhường nhau, chẳng ai chịu nhận, bèn bỏ đến huyện Trúc Ấp, nhân đó làm nhà ở đấy, đặt họ là Tiết. Từ đời Quốc đến đời Tống, nối nhau làm quan trong châu quận, là một họ lớn. Tống thủa nhỏ hiểu rõ kinh truyện, giỏi viết văn, có tài năng.
Thủa trẻ nương dựa người trong họ tránh loạn đến Giao Châu, theo học Lưu Hi. (2) Sĩ Tiếp đã dựa theo Tôn Quyền, gọi Tống đến làm Ngũ quan Trung lang, bái làm Hợp Phố, Nam Hải Thái thú. Bấy giờ Giao Châu mới mở, Thứ sử Lữ Đại đem quân đánh dẹp, Tống cùng đi theo, vượt biển xuống phía nam, kịp đến Cửu Chân. Xong việc về kinh, làm Yết giả Bộc xạ. Sứ giả miền tây (3) là Trương Phụng ở trước mặt Quyền giải họ tên của Hám Trạch để cợt Trạch, Trạch không đáp được. Tống đến uống rượu, nhân đó mời rượu, nói: "Chữ "thục" là gì? Có "chó" là "độc", không có "chó" là "thục", "mắt" ngang "thân" uốn, "trùng" vào trong bụng". (4)
Thần là Tùng Chi thấy các sách vốn chép là "cẩu thân" hoặc "câu thân", cho rằng đã "mắt ngang" thì nên chép là "câu thân".
Phụng nói: "Không nên giải chữ "ngô" của ông chăng"? Tống đối đáp rằng: "Không "miệng" là "trời", có
miệng là "ngô", (5) vua trị vạn nước, đô của Thiên tử". Do đó mọi người ngồi đều cười vui, mà Phụng không đáp được. Cái nhanh nhẹn quyết đoán của Tống đều đại loại như thế.
Giang Biểu truyện viết: Phí Y đi sứ Ngô, lên thềm gặp, các công khanh cận thần đều đang ngồi. Lúc uống rượu, Y và Gia Cát Khác giễu cợt lẫn nhau, nói đến chữ "ngô", "thục". Y hỏi nói: "Chữ "thục" giải thế nào"? Khác nói: "Có "nước" thì "đυ.c", không "nước thì" thục". "Mắt" ngang "thân" uốn, "trùng" vào trong bụng". Y lại hỏi rằng: "Chữ "ngô" giải thế nào"? Khác nói: "Không "miệng" là "trời", có miệng là "ngô", lan man biển lớn, đô của Thiên tử". So với truyện gốc không giống.
Lữ Đại từ Giao Châu được gọi về, Tống lo không có ai thay được Đại, dâng sớ nói: "Ngày xưa vua Thuấn đi tuần phía nam, chết ở quận Thương Ngô. Nhà Tần đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận, vậy thì bốn quân ấy đã nối thuộc rồi, truyền đến ngày nay. Triệu Đà nổi dậy ở Phiên Ngu, (6) vỗ về quân trưởng của người Bách Việt ở tại phía nam quận Châu Quan (7) vậy. Vũ Đế của nhà Hán gϊếŧ Lữ Gia, lập chín quận, đặt quan Giao Chỉ Thứ sử để trông coi chỗ ấy. Sông sâu núi cao, phong tục không lành, tiếng nói đều khác, phiên dịch mới hiểu, dân như cầm thú, già trẻ không chia, tóc búi chân trần, đầu quấn cúc trái, (8) dẫu đặt quan lại, dẫu có như không. Từ đấy đến nay, có dời tội nhân Trung Quốc đến ở lẫn chỗ ấy, dần dần đọc sách, biết qua tiếng nói, xe ngựa qua lại, hiểu biết lễ nghĩa. Sau đó Tích Quang làm Giao Chỉ Thái thú, Nhậm Diêm làm Cửu Chân Thái thú, bèn dạy dân ấy cày bừa, đội mũ đi giày, sắp đặt mai mối, mới biết cưới hỏi, dựng lập trường học, giảng dạy kinh truyện. Do đó chịu phục, hơn bốn trăm năm, có phần chuyển hóa. Từ thời trước thần làm khách đến đấy, người quận Châu Nhai bỏ phép cưới hỏi của châu huyện, đều hẹn đến tháng tám thì mở cửa, vào lúc người dân tụ tập, trai gái tự kén chọn nhau, nếu vừa ý thì làm vợ chồng, cha mẹ không cấm được. Ở hai huyện Mi Linh quận Giao Chỉ, huyện Đô Lung quận Cửu Chân, có tục anh chết thì em lấy chị dâu, nhiều đời cho đấy là thói thường, quan lại nghe biết cũng không ngăn được. Trai gái quận Nhật Nam cởi trần, không cho là thẹn. Do đó mà nói, có thể ví như sâu bọ có tai mắt mặt mũi vậy. Vậy nhưng đất rộng người đông, hiểm trở độc hại, dễ gây phản loạn, khó đến đánh dẹp. Quan lại chỉ ràng buộc, diễu oai vỗ về mà thôi, còn như tô thuế của ruộng nhà, chuyển chở cung cấp,chỉ thích các đồ ngọc trai, thuốc thơm, ngà voi, sừng tê, đồi mồi, san hô, ngọc sáng, chim vẹt, phỉ thúy, khổng tước, vật lạ, vật báu chất đầy, không chỉ có tô thuế để làm giàu cho Trung Quốc vậy. Lại ở ngoài chín điện, phép chọn quan lại không được kĩ càng. Phép tắc thời Hán rộng lượng, nhiều chỗ nới lỏng, cho nên nhiều lần làm trái phép cấm. Phế quận Châu Nhai là do quan lại ở đấy thấy tóc đẹp thì cắt tóc của dân để làm tóc giả. Lúc thần đến đấy, người quận Nam Hải là Hoàng Cái làm Nhật Nam Thái thú, xuống xe mà người hầu đỡ không đủ, liền đánh chết quan Chủ bạ, nhưng rồi cũng bị xua đuổi. Cửu Chân Thái thú Đam Manh giúp cha vợ là Chu Kinh bày hội tiệc, cùng mời các quan lại đến, rót rượu hát nhạc, quan Công tào Phan Hâm đứng dậy mời Kinh múa cùng, Kinh không chịu đứng dậy, Hâm vẫn ép buộc, do đó Manh giận đánh chết Hâm ở trong quận. Em Hâm là Miêu đem quân đánh phủ, lấy tên độc bắn Manh, Manh cũng bị chết. Giao Chỉ Thái thú Sĩ Tiếp sai quân đến đánh, rút cuộc chẳng thắng được. Lại nữa quan Thứ sử ngày trước người quận Cối Kê là Chu Phù nhiều lần dùng người cùng quê là bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn chia nhau làm trưởng lại, xâm lấn trăm họ, đánh thuế nặng với dân, một con cá vàng dài một trượng mà thu một hộc lúa, do đó trăm họ oán giận mà làm phản, bọn giặc núi cùng kéo ra, đánh châu phá quận. Phù chạy vào biển, trôi nổi chết chìm. Sau đó người quận Nam Dương là Trương Tân, vốn có hiềm khích với Kinh Châu Mục là Lưu Biểu, quân yếu địch mạnh mà vẫn hằng năm phát binh, các tướng lo sợ, bỏ trốn hết cả. Tân nắm quyền trông coi nhưng uy vũ không đủ, bị kẻ dưới lấn lướt, bèn bị gϊếŧ chết. Sau lại có người quận Linh Lăng là Lại Cung, nhân hậu cẩn thận nhưng không hiểu thời thế, Biểu lại sau người quận Trường Sa là Ngô Cự làm Thường Ngô Thái thú. Cự là kẻ vũ dũng cứng khỏe, không chịu
kính phục, do đó oán giận nhau, xua đuổi Cung, xin cứu với Bộ Chất. Bấy giờ tướng cũ của Tân là bọn Di Liệu, Tiền Bác còn nhiều, do đó Chất đến sửa trị, lập lại phép tắc, vừa lúc lại gọi về. Rồi đó Lữ Đại đến, có cuộc biến của họ Sĩ, đem quân đánh phía nam, đến ngày dẹp xong, đặt lại quan lại, nêu rõ kỉ cương, diễu oai vạn dặm, lớn nhỏ cúi phục. Do đó mà nói, vỗ về biên giới, thực là người ấy. Làm quan ở phương xa phải nên trong sạch, ở ngoài cõi hoang phục thì họa phúc rất lắm. Ngày nay Giao Châu dẫu mới định nhưng ở huyện Cao Lương còn có giặc ẩn nấp; bốn quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Quan vẫn chưa yên, dựa vào đó mà cướp bóc, trở thành nơi ẩn nấp của bọn phản loạn trốn tránh. Nếu Lữ Đại không còn ở phương nam, quan Thứ sử mới đến phải cẩn thận, trông coi tám quận, mưu lược phải rõ ràng mới dần dần dẹp được giặc ở Cao Lương, phải dựa vào oai sủng, cậy vào hình thế, noi theo phép tắc của Đại mới mong sửa sang được. Nếu chỉ dùng người tầm thường, chọn lấy phép tắc sơ qua, không có mưu hay kế lạ thì bọn giặc càng thêm đông, lâu ngày gây hại. Cho nên sự an nguy của nhà nước trông chờ vào việc dùng người, không thể không xét kĩ vậy. Thần lo triều đình coi thường việc kén chọn, cho nên dám bày tỏ ý ngu để nêu rõ đức thánh".
Năm Hoàng Long thứ ba, Kiến Xương Hầu là Lự làm Trấn quân Đại tướng quân, đóng đồn ở Bán Châu, lấy Tống làm Trưởng sử, ngoài xét việc quân, trong coi sách vở. Lự chết, vào làm Tặc tào Thượng thư, chuyển làm Thượng thư Bộc xạ. Bấy giờ Công Tôn Uyên hàng rồi lại phản, Quyền cả giận, muốn tự đi đánh. Tống dâng sớ can ngăn rằng: "Đế vương là bậc đứng đầu vạn nước, có quan hệ đến vận mệnh của thiên hạ vậy. Cho nên ở trong chỗ nhiều vòng tường canh gác để đề phòng việc không may, đức thì phải trong sạch thẳng thắn để dưỡng oai nghiêm, đại khái là để giữ cái phúc lành trọn vẹn, vỗ về lòng dạ của người bốn cõi vậy. Ngày xưa Khổng Tử mắc bệnh, mượn lời nói về việc cưỡi bè vượt biển, Quý Do dẫu vui nhưng không biết lấy gỗ ở đâu làm làm bè (9) Nguyên Đế của nhà Hán muốn ngồi thuyền lầu, Tiết Quảng Đức xin được cắt cổ để lấy máu nhuộm xe. (10) Vì sao? Cái hiểm của nước lửa thì rất lắm, không phải là chỗ mà Đế Vương nên bơi lội vậy. Ngạn ngữ nói: "Đứa con ngàn vàng không ngồi gần vách". (11) Huống chi là vua của nước vạn cỗ xe đây? Ngày nay người Nhung, Mạch ở Liêu Đông là rợ nhỏ, không có cái vững của thành ao, không biết phép chống giữ, khí giới cùn nhụt, chẳng đâm được chó dê, nếu đến tất thắng được, đấy là điều rõ ràng. Nhưng đất đai cằn cỗi, chẳng trồng được lúa gạo, dân quen với yên ngựa, dời chuyển vô thường. Nếu nghe tin đại quân ta đến, tự biết khó địch, tất dáo dát kinh hoàng, ruổi chạy trốn nấp, dẫu mỗi người một ngựa cũng không thấy được. Dẫu chiếm được đất trống nhưng giữ chẳng ích gì, đấy là một điều không nên vậy. Lại nữa dòng nước sâu thẳm, có cái hiểm của núi Thành Sơn, đi biển khôn lường, khó tránh sóng gió, trong chốn trôi nổi, thuyền người khác thế. Dẫu có cái đức trí của Nghiêu, Thuấn cũng chẳng đánh được, dẫu có sức khỏe của Bôn, Dục cũng không làm được, đấy là hai điều không nên vậy. Thêm có nắng nóng sương mù ở trên, nước sôi sục ở dưới, dễ gây ra bệnh tật, lây nhiễm lẫn nhau, hễ là người đi biển, ít ai không lo cái nạn ấy, đấy là ba điều không nên vậy. Trời sinh thần thánh, tỏ rõ điềm lành, nhân đó mà dẹp loạn, vỗ yên vạn vật; việc lành hẹn đến, trong nước bình định, giặc ác hung nghịch, diệt vong sớm thôi. Một khi Trung Quốc thống nhất thì Liêu Đông tự vỡ, chỉ cần nắm tay ngồi đợi vậy. Nếu ngày nay làm trái phép thường, đi đến chỗ nguy nan, bỏ cái vững của chín châu, phát cái giận một sớm thì không phải là kế lớn của xã tắc, lại là việc từ khi mở nước đến nay chưa từng có vậy, đấy là điều mà trăm quan lo lắng trằn trọc, ăn không ngon, ngủ không yên giấc vậy. Mong Bệ hạ nén bỏ cái giận đùng đùng, giảm bớt cái oai sấm sét, men theo cái yên của cầu xe, rời xa cái hiểm của nước sâu, vậy thì bọn thần được phúc, thiên hạ may lắm". Bấy giờ nhiều bầy tôi can ngăn, Quyền rút cuộc không đi.