Ngày kỉ mùi tháng giêng, Quyền sai Tống làm bài văn chúc tế tổ tiên mà không dùng lời văn bình thường, Tống vâng lệnh, liền viết bài, ý tứ sáng sủa. Quyền nói: "Làm thêm hai bài nữa cho đủ ba bài".
Tống lại làm tiếp, lời văn đều mới, mọi người đều khen hay. Năm Xích Ô thứ ba, chuyển làm Tuyển tào Thượng thư. Năm thứ năm, làm Thái tử Thiếu phó, lĩnh chức Tuyền tào như cũ.
Ngô thư viết: Sau đó Quyền ban túi thao đỏ cho Tống, Tống nói là màu đỏ không phải là thứ mà mình nên mặc, Quyền nói: "Thái tử nhỏ tuổi mà học đạo lại kém, ông nên dùng văn để dạy dỗ, lấy lễ để ràng buộc, được mặc áo của Vương hầu, không phải ông thì ai"? Bấy giờ Tống vì có tiếng là nhà Nho nổi tiếng mà làm thầy dạy, lại lĩnh cả việc kén chọn, rất được kính trọng.
Mùa xuân năm thứ sáu thì chết. Viết thơ, phú, sớ luận cả thảy có mấy vạn chữ, đặt tên là Tư tái, soạn Ngũ tông đồ thuật, Nhị kinh giải, đều truyền cho đời.
Con là Hủ, làm đến Uy nam Tướng quân, đánh Giao Chỉ về, trên đường bệnh chết.
Hán Tấn Xuân thu viết: Vào thời Tôn Hưu, Hủ làm Ngũ quan Trung lang tướng, được sai đến nước Thục xin ngựa. Lúc về, Hưu hỏi cái được mất của chính trị nước Thục, đáp nói: "Vua u tối lại không biết lỗi của mình, bầy tôi giữ thân để mong tránh tội, vào triều đình không nghe được lời nói đúng đắn, qua đồng ruộng thấy vẻ mặt người dân nhợt nhạt. Thần nghe rằng chim én làm tổ ở trong nhà, mẹ con nhà chim cùng vui, tự cho là yên ổn, bỗng chốc cột chống gãy đổ mà chim én vẫn ung dung không biết họa sắp đến, là nói về việc ấy chăng"!
Em Hủ là Oánh, tự Đạo Ngôn, lúc đầu làm Bí phủ Trung thư lang. Tôn Hưu lên ngôi, làm Tán kị Thường thị. Được mấy năm, mắc bệnh mà bỏ chức. Đầu thời Tôn Hạo, làm Tá chấp pháp, chuyển làm Tuyển tào Thượng thư. Lúc lập Thái tử, lại lĩnh chức Thiếu phó. Năm Kiến Hành thứ ba, Hạo nghĩ xét lời văn để lại của cha Oánh là Tống, lại sai Oánh tiếp nối. Oánh dâng thư rằng:
"Tổ tiên của thần, trước giúp nhà Hán, Thời thế miên man, làm nơi đài quán. Cha thần là Tống, gặp phải thời loạn, Kỉ cương gãy đổ, nhà nước vỡ tan. Chọn đất yên lành, giữ gìn dòng dõi, Trời giúp người tốt, về miền đông nam, Mới đầu nương dựa, khốn ở cõi rợ. Đại Đế mở nền, ân đức vươn xa,
Vâng theo chiếu lệnh, rũ xóa bụi bặm. Vứt bỏ áo thô, nhận chức chẻ phù, Ra giữ Hợp Phố, ở tại góc biển.
Rồi về kinh đô, bước vào triều đình, Hèn mà lại quý, dứt mà lại nối.
Tối lại được sáng, không phải do gốc, Cũng vì được sủng, ý lòng vừa thỏa. Văn Đế tôn quý, lập hiệu Đông cung, Bèn làm Thiếu phó, vinh hiển thêm lừng. Thái tử sáng suốt, đức cao khiêm nhường, Gồm cả lễ nghĩa, đầy đủ thấm nhuần.
Coi trọng bầy tôi, ghi nhớ lòng trung, Ân lớn chưa đền, cuối đời đã mất. Ôi thần hèn kém, nghĩ đến anh em,
May được sinh dưỡng, dựa tiếng của Tống. Vào triều được bảo, ngu dốt khó hiểu, Chẳng nối nghiệp cha, chí muốn cày bừa. Nào biết triều đình, nhân đức tràn trề,
Ghi nhớ tôi cũ, tiếc việc không thành. Do đó giúp đỡ, trao cho vinh hiển, Hủ ở nơi xa, đi đánh miền nam.
Phất cờ sắm giáp, diễu oai quân mạnh, Như thần thô lậu, thực là yếu kém.
Đi theo vết cũ, học theo người hiền, Lại giúp Đông cung, nối tiếp vinh hoa. Tài chẳng bằng cha, làm nhục làm trái. Đức cao tài rộng, văn chương hay đẹp, Xét nghĩ tôi cũ, mong truyền đời sau. Cớ sao dòng dõi, há chẳng giống thế! Xem nghĩ ân cũ, ngoảnh xét tài ngu,
Ai bớt thẹn được, thần thực như thế. Ngày đêm trằn trọc, nhọc lòng tự xét, Cha con anh em, nối đợi chịu ân,
Chết cũng báo đáp, sống thề quên thên. Dẫu thân tan nát, cũng chẳng đền hết".
Năm đó, Hà Định bàn kế đào kênh Thánh Khê để thông vào miền Giang Hoài, Hạo sai Oánh đem vạn người đến, nhưng vì nhiều đá tảng mà khó làm, bỏ về, ra làm Vũ Xương Tả bộ đốc. Sau đó Định bị gϊếŧ, Hạo xét lại việc kênh Thánh Khê, bắt Oánh vào ngục, đày đi Quảng Châu. Hữu quốc sử Hoa Hạch dâng sớ nói: "Thần nghe rằng Tam vương Ngũ đế đều đặt quan chép sử, ghi chép việc hay, xét sâu mọi việc. Thời Hán có Tư Mã Thiên, Ban Cố (12) đều tài lớn hơn đời, soạn sử hay đẹp, cùng truyền với lục kinh. Đại Ngô ta vâng mệnh, lập nước ở miền nam, cuối thời Đại Hoàng Đế, sai Thái sử lệnh Đinh Phu, Lang trung Hạng Tuấn bắt đầu soạn Ngô thư. Phu, Tuấn không có tài chép sử, việc mà họ chép không đáng để ghi lại. Đến thời Thiếu Đế, lại sai Vi Diệu, Chu Chiêu, Lương Quảng cùng năm người bọn thần, tìm xét việc xưa, cùng nhau soạn chép, đều có gốc ngọn. Chiêu, Quảng chết sớm, Diệu phụ ân mắc tội, Oánh ra làm tướng, lại bị đi đày, sách sử ấy bèn dồn đọng, đến nay chưa soạn xong. Thần ngu muội nông cạn, chỉ hợp giúp bọn Oánh ghi chép thôi, nếu sai cùng soạn chép, tất thay được việc cũ của Phu, Tuấn. Sợ rằng rụng cái công lớn của Đại Hoàng Đế, tổn cái đẹp đẽ của thời nay, Oánh tài học đã rộng, văn chương rõ ràng, trong bọn quan lại, Oánh đứng hàng đầu. Ngày nay quan lại học rộng dẫu nhiều, nhưng tài ghi chép như Oánh lại ít, cho nên lo lắng vì nước mà tiếc cho Oánh. Thần thực là muốn lập công sắp thành, ghi tên vào cuối sách sử trước. Sau khi tấu lên, lui về vùi vào hang rãnh cũng không hối tiếc". Hạo bèn gọi Oánh về, giúp nước chép sử. Chốc lát, quan Tuyển tào Thượng thư người cùng quận là Mậu Y vì giữ chí không đổi, bị bọn tiểu nhân ghen ghét, đuổi ra làm Hành Dương Thái thú. Đã nhận chức, lại vì việc quan mà bị xét hỏi, viết thư bái tạ. Nhân đó qua chỗ Oánh, lại bị người khác báo lên, nói là Y không sợ bị tội, đem nhiều tân khác tụ hội ở nhà Oánh, rồi bắt Y vào ngục, đày đi Quế Dương. Oánh cũng bị đày về Quảng Châu, chưa đến, lại gọi Oánh về, trao lại chức. Bấy giờ chính trị nhiều lỗi, chọn cử rối bời, Oánh hễ dâng biểu bày mưu đều xin giảm hình phạt bớt lao dịch để giúp đỡ trăm họ, có việc được làm. Chuyển làm Quang lộc huân.
Năm Thiên Kỉ thứ tư, quân Tấn đánh Hạo, Hạo gửi thư đến chỗ Tư Mã Trụ, Vương Hồn, Vương Tuấn xin hàng, lời thư là do Oánh viết vậy. Oánh đã đến Lạc Dương, được đãi hậu trước, làm Tán kị Thường thị, đối đáp đúng phải, đều có đạo lí.
Tấn kỉ của Can Bảo viết: Vũ Đế ung dung hỏi Oánh rằng: "Tôn Hạo vì sao lại bị mất nước vậy"? Oánh đáp nói: "Quy Mệnh Hầu Hạo là vua Ngô vậy, nhưng lại gần gũi kẻ tiểu nhân, hình pháp bừa bãi, đại thần đại tướng đều chẳng ai thân cận, người người lo sợ, đều tự giữ mình, cái nạn nguy vong, thực là do đấy". Đế lại hỏi về sự hiền ngu của kẻ sĩ nước Ngô, Oánh đều tùy người mà đối đáp.
Năm Thái Khang thứ ba thì chết. Soạn sách có tám chương, đặt tên là Tân nghị.
Tấn thư của Vương Ẩn viết: Con Oánh là Kiêm, tự Lệnh Trưởng, trong sạch có tài năng, có phong độ như người Trung Quốc, không như người Ngô. Làm qua Thặng tướng Trưởng sử của hai cung. Nguyên Đế lên ngôi, chuyển làm Đan Dương Doãn, Thượng thư, lại làm Thái tử Thiếu phó. Từ đời Tống đến đời Kiêm là ba đời, đều dạy Thái tử.
Chú thích
(1) Mạnh Thường Quân: tên là Điền Văn (田文), người nước Tề thời Chiến quốc, nối tước cha là Điền Anhđược phong ở ấp Tiết, đặt hiệu là Mạnh Thường Quân, tính hào hiệp rộng rãi, trong nhà nuôi mấy nghìn tân khách, nổi tiếng chư hầu.
(2) Lưu Hi: Lưu Hi tự Thành Quốc, người quận Bắc Hải, giữa những năm Kiến An thời Hiến Đế
của nhà Hán tránh nạn đến Giao Châu, viết sách Thích danh, Mạnh Tử chú
(3) Miền tây: tức nước Thục ở phía tây.
(4) Có "chó" là "độc", không có "chó" là "thục", "mắt" ngang "thân" uốn, "trùng" vào trong bụng": chữ thục (蜀) là tên nước Thục, gồm chữ mục (罒) nằm ngang và chữ trùng (虫) ở trong chữ bao (勹) . Thêm chữ khuyển (犭) thì thành chữ độc (獨) nghĩa là một loài vượn lớn.
(5) Không "miệng" là "trời", có miệng là "ngô": chữ ngô (吴) là tên nước Ngô, gồm chữ khẩu (口) ở
trên và chữ thiên (天) ở dưới. Bỏ chữ khẩu thì thành chữ thiên (天) nghĩa là là trời vậy. Còn viết là ngô (吳) gồm chữ khẩu (口) ở trên và chữ thỉ (矢) ở dưới.
(6) Triệu Đà nổi dậy ở Phiên Ngu: Triệu Đà là người huyện Chân Định, thời Tần làm Nam Hải Úy. Lúc nhà Tần diệt, liền đem quân đánh chiếm cả quận Quế Lâm, Tượng quận, tự lập làm Nam Việt Vương, đóng đô ở Phiên Ngu, truyền nước năm đời chín mươi ba năm thì bị Vũ Đế của nhà Hán đánh diệt, chia nước lập ra chín quận.