Ngô thư chép: Nước Tấn có viên Đại phu tên là Dương được ban thực ấp ở đất Bộ, dòng dõi có người tên là Bộ Thúc, cùng bảy mươi mốt người khác theo học Trọng Ni. (1) Vào thời nhà Tần, nhà Hán có người làm Tướng quân, xét công phong làm Hoài Âm Hầu, Chất là dòng dõi của người ấy vậy.
Thời loạn, tránh nạn đến Giang Đông, một thân khốn khó, thân thiện với kẻ cùng tuổi người quận Quảng Lăng là Vệ Tinh, cùng lấy việc trồng dưa mà tự sinh sống, ngày thì chăm chỉ chân tay, đêm thì xem đọc kinh truyện.
Ngô thư chép: Chất xét rộng đạo thuật, chẳng gì không xem qua, tính nhã nhặn thâm trầm, biết ẩn chí nhẫn nhịn.
Người quận Cối Kê là Tiêu Chinh Khương, là hào tộc trong quận,
Ngô thư chép: Chinh Khương tên là Kiểu, từng làm Chinh Khương Lệnh.
mặc cho tân khách phóng túng. Vào lúc Chất và Tinh xin được sinh sống ở đất ấy, sợ bị họ xâm lấn, bèn hái dưa để đưa tặng cho Chinh Khương, lúc ấy Chinh Khương đang nằm ở trong nhà, bèn đứng ngoài rồi đi vào, Tinh muốn bỏ đi, Chất ngăn lại nói: "Ta đến đây là vì sợ thế mạnh của hắn vậy. Nếu nay bỏ đi để muốn giữ chí cao thì chỉ kết oán thôi". Hồi lâu, Chinh Khương mở cửa sổ gọi vào gặp, thân náu trong màn ngồi trên ghế, bày chiếu dưới đất mời Chất, còn Tinh ở ngoài cửa sổ, càng cho là thẹn nhưng Chất tỏ vẻ như thường. Chinh Khương mời ăn, thân ngồi chỗ bàn lớn, món ngon xếp đầy, lấy bàn ăn nhỏ cho Chất, Tinh, chỉ có rau nhạt mà thôi. Tinh không ăn được, Chất ăn đến no bụng rồi từ biệt đi ra. Tinh giận Chất nói: "Sao lại nhẫn nhịn như thế"? Chất nói: "Bọn ta nghèo hèn, cho nên chủ nhà lấy lễ nghèo hèn để đãi bọn ta, đấy là phải rồi, có chỗ nào thẹn"?
Ngô lục chép: Vệ Tinh tự Tử Kì, làm đến chức Thượng thư.
Tôn Quyền làm Thảo lỗ tướng quân, gọi Chất làm Chủ kí,
Ngô thư chép: Hơn một năm, Chất vì bệnh mà bỏ quan, cùng với người quận Lang Nha là Gia Cát Cẩn, người quận Bành Thành là Nghiêm Tuấn đi vào miền Ngô Trung, đều nổi rõ danh tiếng, là bậc anh tuấn thời ấy.
bái làm Hải Giám Trưởng, gọi về làm Xa kị tướng quân Đông tào duyện.
Ngô thư chép: Quyền làm Từ Châu Mục, lấy Chất làm Trị trung tòng sự, cử mậu tài.
Năm Kiến An thứ mười lăm, ra làm Bà Dương Thái thú. Trong năm đó, chuyển làm Giao Châu Thứ sử, Lập vũ trung lang tướng, đem hơn nghìn quân Vũ xạ lại (2) tiện đường đi xuống phía nam. Năm sau, bái thêm chức Sứ trì tiết, Chinh nam Trung lang tướng; quan Thương Ngô Thái thú Ngô Cự mà Lưu Biểu sắp đặt ngầm mang lòng khác, ngoài thì theo mà trong thì phản. Chất nhún ý vỗ về, xin được gặp nhau, nhân đó chém đầu để thị chúng, do đó oai danh lừng lẫy. Anh em Sĩ Tiếp dắt nhau vâng lệnh, miền nam thần phục bắt đầu từ đấy vậy. Hào tộc ở quận Ích Châu là bọn Ung Khải gϊếŧ quan Thái thú Chính Ngang mà nước Thục sắp đặt, truyền tin với Tiếp, xin được nương dựa, Chất nhân đấy thừa lệnh sai sứ giả ban ân thu nạp, do đó được bái thêm chức Bình Khương tướng quân, phong Quảng Tín Hầu.
Năm Diên Khang thứ nhất, Quyền sai Lữ Đại thay Chất, Chất đem vạn nghĩa sĩ ở Giao Châu lên quận Trường Sa. Gặp lúc Lưu Bị sang miền đông, người Man Di ở quận Vũ Lăng lại quấy rối, Quyền bèn sai Chất đến huyện Ích Dương. Sau khi Bị đã thua vỡ, mà các người ở quận Linh Lăng, Quế Dương vẫn kèn cựa nhau, các chỗ đều ngầm dấy binh; Chất bèn đi khắp đánh dẹp, đều bình được. Năm Hoàng Vũ thứ hai, chuyển làm Hữu tướng quân Tả hộ quân, đổi phong Lâm Tương Hầu. Năm thứ năm, ban Giả tiết, chuyển đóng đồn ở Ẩu Khẩu.
斋 菀
Quyền xưng tôn hiệu, bái Phiếu kị tướng quân, lĩnh chức Kí Châu Mục. Năm đó, trông coi việc quân ở Tây Lăng, thay Lục Tốn vỗ về hai miền, (3) chốc lát vì Kí Châu chia vào nướcThục, bèn bỏ chức Châu mục. Bấy giờ Thái tử Đăng của Quyền trú ở Vũ Xương, thương người ưa thiện, gửi thư cho Chất rằng: "Bậc quân tử hiền tài là người nêu bày giáo hóa, giúp đỡ việc đời vậy. Tính ta vốn ngu tối, không thông đạo số, dẫu là nhỏ nhoi nhưng vẫn muốn dốc lòng để đạt đức sáng, noi theo bậc quân tử; đến như kẻ sĩ gần xa, người nào nên dùng trước sau thì còn vướng mắc, chưa được rõ ràng. Kinh truyện có chép: "Ta yêu người mà không dốc sức giúp người được sao? Ta trung với người mà không khuyên bảo người được sao"? Nghĩa của câu này há chẳng phải là trông mong vào bậc quân tử ư"! Do đó Chất bày kể những người làm việc ở Kinh Châu thời ấy là mười người bọn Gia Cát Cẩn, Lục Tốn, Chu Nhiên, Trình Phổ, Phan Tuấn, Bùi Huyền, Hạ Hầu Thặng, Vệ Tinh, Lí Túc,
Ngô thư chép: Túc tực Vĩ Cung, người quận Nam Dương. Thủa trẻ vì có tài mà nổi tiếng, giỏi bàn luận, việc tốt xấu đều đúng, soi xét người tài, kể rõ mà tiến cử, nêu bật cái hay của từng người đều trôi chảy, do đó mọi người chịu phục. Quyền chọn làm Tuyển tào Thượng thư, gọi người được cử chọn là "đắc tài". Xin ra ngoài làm quan, bái Quế Dương Thái thú, quan dân vui mừng. Lại gọi về làm khanh. Lúc chết, kẻ biết hay không biết đều thương tiếc.
Chu Điều, Thạch Cán, phân biệt hành trạng từng người, rồi nhân đó dâng sớ khuyên bảo rằng: "Thần nghe nói vua không tự làm việc nhỏ mà để cho trăm quan chức trách đều lo làm đúng chức phận của mình. Cho nên vua Thuấn sai chín người hiền (4) làm việc thì không có gì bận lòng, chỉ gảy đàn năm dây, ngâm bài thơ "Nam phong", không phải ra khỏi miếu đường mà thiên hạ được yên vậy. Ngày xưa Tề Hoàn Công dùng Quản Trọng, tự búi tóc ngồi xe mà nước Tề được trị lại còn tụ họp chư hầu. Gần đây Hán Cao Tổ dùng ba người tài để dựng nghiệp đế, Tây Sở (5) bỏ người hùng tuấn mới làm mất công lao. Cấp Ảm ở tại triều đình thì Hoài Nam (6) dẹp mưu phản; Chất Đô (7) giữ biên giới thì người Hung Nô rút chân. Cho nên người hiền ở đâu thì nơi đó được giữ gìn khắp vùng vạn dặm, thật là binh khí sắc bén của nhà nước, là gốc của sự suy vậy. Ngày nay giáo hóa của nước ta chưa trùm miền bắc sông Hán, ở miền Hà Lạc còn có kẻ xấu tiếm nghịch, đây là lúc nên chọn người anh hùng dùng bậc hiền tài vậy. Mong Thái tử soi xét ý mọn này thì thiên hạ may lắm".
Sau đó Trung thư Lữ Nhất làm Điển hiệu văn thư, bị nhiều người hạch tội, Chất cũng dâng sớ nói: "Thần được nghe các quan Điển hiệu chỉ xét nét nhỏ nhặt, bới lông tìm vết, trọng việc gièm pha, lại muốn hãm người ta để ra oai tác phúc; kẻ vô tội vô vạ mà bị xử tội nặng, cho nên dân chúng kêu trời than đất, ai chẳng run sợ? Như quan coi ngục thời xưa thì chỉ có người hiền mới được làm chức ấy, cho nên Cao Dao làm quan coi ngục, Lữ Hầu (8) bày ra phép chuộc tội, Trương, Vu (9) làm Đình úy thì dân chẳng bị oan uổng, thực là do đó mà thiên hạ yên ổn. Những viên quan nhỏ ngày nay làm việc khác với người xưa, ở tù ngục lấy việc hối lộ mà xét xử, coi rẻ mạng người, đổi lỗi cho người trên, khiến cho dân chúng oán giận nhà nước. Nếu có một người kêu than thì phép vua có chỗ xấu, rất đáng ghét bỏ rồi. Tu đức giảm phạt là phép hay của người sáng suốt, là điều mà sách truyện xưa khen ngợi vậy. Từ nay xét ngục, ở kinh đô thì nên hỏi Cố Ung, ở Vũ Xương thì hỏi Lục Tốn, Phan Tuấn, như thế mới yên lòng dốc ý, các việc được đúng sự tình. Chất noi theo thần minh, dẫu bị tội cũng há giận"? Lại nói: "Thiên tử coi trời đất như cha mẹ, cho nên cung thất trăm quan đều phải đặt theo thứ bậc. Nêu ban bố chiếu lệnh thì phải kính theo lễ tiết, làm theo chức phận thì âm dương điều hòa, thất tinh đúng quỹ. Còn như ngày nay, quan lại nhiều lỗi, dẫu có đại thần nhưng lại không được tin dùng, như thế trời đất chẳng biến đổi sao được? Do đó những năm gần đây trời khô hạn là ứng việc quá cứng bạo vậy. Lại nữa vào ngày mười bốn tháng năm năm Gia Hòa thứ sáu, ngày mùng một và ngày hai mươi bảy tháng giêng năm Xích Ô thứ hai, mặt đất đều chấn động; đất thuộc khí âm, là tượng trưng cho bầy tôi, khí âm mạnh thì sinh động đất, là do bầy tôi chuyên quyền vậy. Trời đất xuất lộ hiện tượng lạ là để cảnh báo cho nhà vua, không đáng không xét kĩ ý ấy sao"! Lại nói: "Thừa tướng Cố Ung, Thượng đại tướng quân Lục Tốn, Thái thường Phan Tuấn lo nghĩ việc công, ý chí thành thật, ngày đêm suy tính, ăn ngủ không yên, chỉ muốn giúp nước yên dân, bày kế lâu dài, có thể nói là người tim bụng đùi tay, là tôi thần chủ chốt của xã tắc vậy. Nên đều chọn dùng họ, không cần sai các quan khác xem xét việc mà họ làm, chỉ cần đòi hỏi công lao của họ, xét xem việc tốt của họ thôi. Ba vị tôi thần ấy lo nghĩ đến cùng mới thôi, há dám tự ý ra oai tác phúc mà làm trái cái tính trời của mình sao"? Lại nói: "Treo thưởng để nêu việc hay, đặt phạt để ngừa kẻ gian, sai dùng người hiền tài, xét rõ ở phép tắc thì công nào mà chẳng lập, việc nào mà chẳng xong, tiếng nào mà chẳng nghe, hình nào mà chẳng rõ? Nếu ngày nay các quận huyện ở nơi trăm dặm mà đều có những người ấy, cùng nhau coi việc, thì dân chúng há chẳng yên vui sao? Trộm nghe các huyện đều đặt sẵn quan lại, mà quan lại phần nhiều nhũng nhiễu dân chúng, do đó mà phong tục xấu kém. Là vì kẻ xấu nhân được trao lệnh mà không lo làm việc công, chỉ ra oai tác phúc, những kẻ đó không có ích cho chính trị, lại gây hại cho dân. Kẻ ngu này cho rằng nên bãi bỏ hết thảy họ đi". Quyền cũng hiểu ra, bèn gϊếŧ Lữ Nhất. Chất trước sau bày kể các việc còn vướng mắc, cởi bỏ hoạn nạn, hơn mười lần dâng sớ lên. Quyền dẫu không thu nạp hết nhưng vẫn chọn nghe lời, do đó mà được nhờ cậy.