Chương 17: Đi học
Sang năm mới, thời tiết ngàymột
ấm lên.
không
khí mùa xuân tràn ngập
không
khí, gió đùa dương liễu xóa
đi
dấu vết của tuyết động, gió mơn trớn những cành khô trơ trụi, những ngọn cây già khẳng khiu cũng xuất
hiện
những chồi non mới.
Theo lệnh của Phó tứ lão gia, người hầu kê vào trong thư phòng thêm
một
bình phong lớn bằng gỗ khắc tranh sơn thủy, chia đôi thư phòng, tạo thành chỗ ngồi học của Phó Vân
anh.
Khi Tôn tiên sinh kiểm tra việc học của Phó Vân Khải và Phó Vân thái bên ngoài bình phong, nàng ngồi ngay ngắn sau bình phong tập trung luyện chữ.
Tiên sinh cho nàng học lại từ đầu, nàng
không
có gì oán giận bởi tuy nàng
đã
nhận mặt được mấy ngàn chữ nhưng chưa đọc nhiều sách. Dựa vào những kiến thức kiếp trước, có lẽ nàng nhất thời có thể qua mắt được tiên sinh, nhưng cùng lắm là ăn gian được
một
năm học. Giờ bắt đầu lại từ đâu, nàng quyết tâm nghiêm túc học hành, đọc sách
không
phải là chuyện ngày
một
ngày hai, muốn học hành có thành tựu để có thể trổ hết tài năng, đầu tiên phải khổ luyện. Nàng
không
thể bởi vì bản thân giỏi hơn hai người
anh
ham chơi kia
một
chút mà tự cao tự đại.
Bên ngoài bình phong, Tôn tiên sinh răn dạy hai học sinh
một
chập, phạt bọn họ chép sách. Tay Phó Vân Khải và Phó Vân Thái
đã
hết đau,
không
dám lý do lý trấu gì, hai
anh
em chỉ dám bĩu môi, trợn mắt sau lưng Tôn tiên sinh.
Tôn tiên sinh bỗng nhiên quay đầu lại.
Hai người đều giật mình.
Phó Vân Thái phản ứng nhanh hơn
một
chút, quay mặt
đi
giả vở lật quyển "Tiểu học tập giải" ở bàn bên cạnh ra xem,
không
dám nhìn thẳng vào tiên sinh.
Phó Vân Khải
không
kịp thay đổi nét mặt, chớp chớp mắt, hy vọng tiên sinh
không
để ý nhưng cuối cùng lại thấy Tôn tiên sinh mặt mày u ám, xách tai Phó Vân Khải đẩy ra khỏi thư phòng, bắt đứng phạt trong viện.
Bên ngoài cũng
không
còn quá lạnh nhưng người đến người
đi
nhiều,
trên
hành lang, đám bà tử
đi
đi
lại lại trước mặt
hắn. Tuy họ cố gắng
không
lộ ra nét mặt gì khác thường nhưng
hắn
vẫn có thể thấy được
sự
châm biếm trong đáy mắt họ, Phó Vân Khải xấu hổ đến mức đến vành tai cũng đỏ lên, hận
không
thể chui xuống khe đất nào đó trốn.
Nhất là khi nghe thấy tiếng Tôn tiên sinh khen ngợi ngũ muội muội từ đằng sau lớp rèm mỏng bên cửa sổ vọng lại,
hắn
càng
không
biết giấu mặt vào đâu.
Vén rèm, nha hoàn mang bài tập Phó Vân
anh
đã
viết xong ra đưa cho tiên sinh. Tôn tiên sinh cầm lấy, xem
thật
kỹ càng,
trên
mặt lộ ra khen ngợi nhưng đồng thời cũng là tiếc hận. Nếu ngũ tiểu thư mà là con trai, ông sao phải lo lắng đến thế này, cứ thế này ông lo mình chẳng thể hoàn thành tâm nguyện của Phó tứ lão gia.
Ông trở về bên giá sách, lấy ra hai cuốn sách chép tay,
một
quyển "Tính lý tự huấn",
một
quyển "Thiên tự văn"
"Bắt đầu từ cương lĩnh, đầu tiên đọc đoạn dài, tiếp đó đoạn dài phân thành các ngắn, đoạn ngắn phân thành các cụm câu, mỗi ngày đọc đoạn, mỗi đoạn đọc 300 lần. Từ ngày mai bắt đầu đọc, mỗi ngày thuộc lòng
một
đoạn ngắn, cách
một
ngày đọc lại cho ta nghe (không
nhìn sách)."
Đưa hai quyển sách cho nha hoàn, Tôn tiên sinh dạo bước đến phía trước tấm bình phong, vuốt chòm râu, cao giọng
nói
vọng vào.
Phó Vân
anh
mở sách ra, lướt qua
một
lượt, trước kia nàng
đã
từng học "Thiên tự văn", giờ đọc vài lần chắc hẳn có thể lại thuộc nằm lòng, nhưng "Tính lý tự huấn" nàng chưa học bao giờ.
Nàng khép sách lại: "Học sinh nhớ rồi ạ."
Tôn tiên sinh cũng dạy Phó Vân Khải và Phó Vân Thái như thế, đầu tiên học thuộc lòng, chưa cần phải hiểu từng câu từng chữ nhưng phải thuộc từ đầu chí cuối, thuộc làu làu. Tiên sinh chọn ngẫu nhiên
một
câu bất kỳ, họ phải lập tức đọc được câu tiếp theo. Học thuộc rồi, tiên sinh mới giảng giải chi tiết ý nghĩa của từng đoạn.
Triều đại này quy định nền tảng của việc học của người
đi
thi là Tứ thư và Ngũ Kinh, "Dịch", "Thư", "Thi", "Xuân Thu" và "Lễ". Đề thi cũng dựa vào những câu chữ trong đó. Muốn thăng quan tiến chức ắt phải tham gia khoa cử cử.
đi
thi quan trọng nhất là viết văn giải đề, muốn viết cho tốt
thì
phải hiểu được Tứ thư, Ngũ kinh. Triều đình quy định đề thi
yêu
cầu giải thích ý nghĩa của
một
câu trong sách, chỉ có thể căn cứ vào Trình Chu lý học để giải thích, viết thành văn, phải dựa theo phương pháp giải kinh của Trình Di, Chu Hi, mỗi chữ, mỗi câu đều phải chặt chẽ tuân thủ quy phạm của Trình Chu lý học [1].
[1] Lý học là
một
trường phái của Nho giáo, được khai sinh bởi Trình Di, phát triển bởi Chu Hi, học trò bốn đời của ông, nên còn được gọi là Trình Chu lý học. Trình Di, Chu Hi
đã
giải thích và phát triển các tư tưởng của Nho giáo (chủ yếu trong Ngũ Kinh) theo quan điểm lý học. Lý học sau này
đã
được coi như trường phái chính thống của Nho giáo dưới triều Minh - Thanh. Trong truyện này, tác giả sử dụng phần nhiều bối cảnh nhà Minh, là lúc lý học thịnh hành, nên sĩ tử
đi
thi cũng phải giải thích Tứ thư, Ngũ kinh theo tư tưởng của lý học.
Huyện Hoàng Châu xưa nay
không
có truyền thống khoa cử, con cháu nhà bình thường
đi
thi, có thể đỗ tú tài
đã
cảm thấy mỹ mãn, đậu tới cử nhân
thì
là tổ tiên phù hộ, cả nhà có thể theo đó mà phất lên trông thấy. Sau khi đỗ cử nhân, đa phần bọn họ chọn cách dùng tiền lo lót để tìm lấy
một
chức quan béo bở, rất ít người tiếp tục kiên trì khổ luyện, trổ hết tài năng để thi hội.
Thứ nhất, thí sinh Giang Nam mỗi người đều học rộng tài cao, chiếm hơn nửa số tiến sĩ được yết bảng, còn lại là học sinh từ Bắc Trực Lệ và các tỉnh phụ lân cận, học sinh từ các châu huyện xa xôi
thì
từ học thức đến tầm nhìn đều
không
bằng họ. Mỗi đợt thi hội, học sinh cả nước đều tề tựu về kinh sư,
anh
tài hội tụ, mỗi người đều xuất khẩu thành thơ, tài cao ngất trời, là rồng phượng trong cõi người. So với họ, cử nhân từ những địa phương
nhỏ
như huyện Hoàng Châu đến tư cách mở miệng
nói
chuyện cũng
không
có,
nói
gì đến chuyện cạnh tranh. Thứ hai, thi tiến sĩ tốn quá nhiều tiền, về sau xã giao lui tới cũng cần
không
ít bạc, gia đình bình thường
không
kham nổi. Giang Nam giàu có sung túc, học sinh mới có thể thoải mái tiêu dùng.
Học sinh từ các châu huyện xa xôi lên kinh dự thi hội, hoặc là cực kỳ tự tin vào tài học của mình, cảm thấy bản thân tám phần là có tên
trên
bảng,
không
cam lòng từ bỏ, hoặc là xuất thân từ gia đình giàu có,
không
tiếc tiền, nhân cơ hội này để ra ngoài cho thông tỏ
sự
đời.
nói
cách khác, đỗ tú tài là đạt được mục đích học tập. Đỗ cử nhân là niềm vui ngoài ý muốn. Riêng Phó Vân Chương, người còn trẻ mà đỗ cử nhân như y, huyện Hoàng Châu chỉ có mình y, cả huyện
không
có tiên sinh nào dám dạy y, cũng
không
dạy nổi y.
Do vậy, tiên sinh chỉ dạy chương trình học cơ bản xunh quanh thi đồng sinh và thi hương, chỉ cho học Tứ thư, Ngũ kinh, các loại sách khác đều
không
dạy. Học sinh cũng
không
muốn lãng phí thời gian đọc các loại sách khác,
trên
bàn mỗi người cũng chỉ có tứ thư ngũ kinh. Dù sao
thì
chỉ cần hiểu được những sách này, huyện thí, phủ thí, viện thí đều có thể thi được.
"Tiểu học tập giải", "Ấu học quỳnh lâm" chỉ là sách vỡ lòng cơ bản nhất,
trên
lớp chủ yếu
sẽ
phải học "Hiếu kinh", "Đại Học", "Trung Dung", sau đó mới là "Luận ngữ". "Mạnh Tử" và những loại sách khác, tiên sinh
trên
lớp
sẽ
bỏ qua, học sinh bình thường có thể tự đọc, có gì
không
hiểu có thể hỏi tiên sinh. Học xong Tứ thư
thì
có thể bắt đầu chuyển qua "Kinh Thi", "Thượng Thư", "Chu Dịch", "Lễ Ký", "Tả Truyện".
Học thuyết của Lão Trang được coi là bàng môn tả đạ, tiên sinh
không
chỉ
không
dạy mà còn
không
cho học sinh đọc. Tới khi họ học chắc cơ bản mới đồng ý để họ đọc cho biết.
Phương pháp dạy của lão tiên sinh ở tộc học và Tôn tiên sinh đều là như vậy. Điểm khác biệt chính là lão tiên sinh ở tộc học
sẽ
giảng giải từng câu từng chữ,
không
cho học sinh cơ hội tự giải thích. Tôn tiên sinh dù sao cũng là người từng dự thi hương, so với lão tiên sinh kia
thì
hiểu biết hơn, nhưng ông ta là người được Phó tứ lão gia mời đến dạy cho con cháu trong nhà nên nếu học sinh học
không
tốt
thì
là ông ta thất trách. Do đó, ông ta nghiêm khắc hơn lão tiên sinh ở tộc học rất nhiều.
Phó Vân
anh
không
cần tham gia khoa cử,
yêu
cầu của Tôn tiên sinh đối với nàng khác với
yêu
cầu dành cho Phó Vân Khải và Phó Vân Thái.
Nhưng mà khác nhau ở điểm nào, Phó Vân
anh
cũng
không
biết
rõ. Nếu
nói
là tiên sinh
không
nghiêm khắc
thì
không
đúng, nếu như
một
hôm nào đó nàng có chút lơ là, ông ta ngay lập tức có thể nhìn thấy
sự
qua loa đó từ chữ viết của nàng, rồi ngày hôm đó chắc chắn
sẽ
có thêm
một
phần bài tập để trừng phạt.
nói
là tiên sinh nghiêm khắc cũng
không
phải, với việc thi thoảng nàng xuyên tạc chú thích của cổ nhân, ông ta làm như
không
thấy, có cảm giác
không
mấy để tâm.
Ngoài ra, còn có có
một
sự
kiện làm Phó Vân
anh
dở khóc dở cười: Sau khi trưng cầu ý kiến của Phó tứ lão gia, Tôn tiên sinh
yêu
cầu nàng học thuộc sách vỡ lòng, đồng thời bỏ qua "Nữ tắc", "Nữ huấn", dạy luôn cho nàng "Cửu chương số học".
Ra là Phó tứ lão gia mong muốn Phó Vân
anh
học cách ghi sổ sách, sau này giúp ông quản lý cửa hàng. Nghe
nói
"Cửu chương số học" dạy tính toán, ông nhiệt liệt
yêu
cầu Tôn tiên sinh đưa quyển sách này vào chương trình học.
Đọc thuộc lòng là thế mạnh của Phó Vân
anh, "Thanh luật vỡ lòng" bảy tám nghìn chữ, "Huấn mông biền câu" hơn sáu ngàn chữ, mỗi ngày nàng đọc
một
đoạn, nửa tháng sau
đã
có thể thuộc làu làu. "Cửu chương số học" thực tế cũng
không
khó, nàng từng học "Cửu cửu thừa pháp ca quyết" [2] nên tính toán
không
phải là vấn đề. Vấn đề là ở chỗ Tôn tiên sinh vốn biết phương pháp tính toán ở phòng thu chi và phương pháp học toán "Cửu chương số học" chẳng liên quan gì đến nhau, tại sao còn nghe theo ý Phó tứ lão gia?
[2] "Cửu cửu thừa pháp ca quyết" là Bảng cửu chương ta học ở tiểu học. "Cửu chương số học" là
một
quyển sách toán.
"Cửu chương số học" chương thứ nhất chính là đo đạc ruộng đất, bắt đầu từ
một
đề số học đơn giản: "Ta có
một
thửa ruộng quảng mười lăm bộ, từ mười sáu bộ. Hỏi diện tích thửa ruộng là bao nhiêu?"
Quảng là chỉ chiều rộng thửa ruộng, từ là chỉ chiều dài thửa ruộng, chiều dài nhân với chiều rộng là ra số tích bộ [3], lấy số tích bộ này chia cho 240
thì
ra số mẫu.
[3] Đơn vị đo chiều dài ở đây là bộ, bộ x bộ = bộ^2, gọi là tích bộ,
một
đơn vị diện tích
không
thường dùng. 1 mẫu = 240 tích bộ.
Mười lăm nhân mười sáu được vừa đúng 240 tích bộ, nên đáp án của đề này là
một
mẫu.
Tôn tiên sinh giảng xong đề thứ nhất liền hỏi Phó Vân
anh: "Nghe có hiểu
không?"
Phó Vân
anh
khẽ gật đầu.
"Tốt lắm, khép sách lại."
Tôn tiên sinh
nói.
Phó Vân
anh
làm theo.
"Giờ ta có
một
thửa ruộng quảng hai dặm, từ ba dặm, hỏi thửa ruộng bao nhiêu mẫu?"
Đề này vẫn nằm trong "Cửu chương số học", Phó Vân
anh
không
do dự, lập tức trả lời "22 khoảng 50 mẫu."
Năm thước là
một
bộ, 300 bộ là
một
dặm, hai dặm là 600 bộ, ba dặm là 900 bộ. 600 nhân với 900, lại chia cho 240 là 2250 mẫu, cứ 100 mẫu là
một
khoảnh, đáp án là 22 khoảnh 50 mẫu.
Tôn tiên sinh trầm ngâm
một
lát, ánh mắt quét qua phía bên ngoài bình phong. Bên ngoài, Phó Vân Khải và Phó Vân Thái
đang
dựng thẳng quyển sách lên, giả vở đọc nhưng thực ra là
đang
gật gà gât gù, chắc chắn là
đang
ngủ gật. Ông ta lắc đầu, hỏi Phó Vân
anh: "Kết quả này là do ngũ tiểu thư học thuộc hay là tự tính?"
Ngữ khí hơi khác so với bình thường, có
một
cảm giác trang nghiêm mà Phó Vân
anh
không
lý giải được.
Nàng thành
thật
trả lời: "không
dám dối gạt tiên sinh, là học trò học thuộc, chương về đo đạc ruộng đất này ta
đã
thuộc lòng tất cả các đề rồi."
Tôn tiên sinh hiếm khi cười nhưng giờ
trên
mặt cũng có
một
nét cười nhàn nhạt: "Vậy có suy nghĩ đến phương pháp tính
không?"
Phó Vân
anh
cúi đầu suy nghĩ, nhưng cũng nhanh chóng hiểu ra, đứng dậy đáp: "Học trò hiểu rồi ạ."
"Ngươi ngồi xuống
đi."
Tôn tiên sinh gật đầu ý bảo nàng ngồi xuống, thở dài
một
tiếng.
thật
ra ông ta để Phó Vân
anh
học "Cửu chương số học" vốn là định làm khó nàng, để nàng biết khó mà lui.
Cổ nhân
nói: "Giáo dục
không
phân nòi giống", dù thân phận học sinh có thấp kém cỡ nào, chỉ cần
một
lòng hiếu học, người làm thầy vẫn nên dạy dỗ cho đến nơi đến chốn. Đối với câu này, các thế hệ
đã
có vô số cách giải thích khác nhau,
không
phân biệt giàu nghèo,
không
phân biệt thông minh hay ngu dốt,
không
phân biệt đắt rẻ sang hèn, thậm chí
không
phân biệt thiện ác, chỉ có chưa từng có ai
nói
câu này còn bao hàm ý nghĩa
không
phân biệt nam nữ.
Tôn tiên sinh
không
phải chưa từng dạy học sinh nữ. Trong số đó, có rất nhiều người thông minh sáng dạ, khả năng tiếp thu và thiên phú
không
thua nam giới. Nhưng chỉ có mình Phó Vân
anh
khiến ông ta nhìn thấy tham vọng và sức sống mãnh liệt. Nàng học tập bằng
một
sự
bướng bỉnh và kiên trì đến mức kì quái, có cảm giác giống như loài cỏ dại điên cuồng phát triển ở đồng quê mỗi khi hè về, nhìn như
không
hề có trật tự gì nhưng lại bền bỉ, mạnh mẽ,
không
biết lùi bước.
Hơn thế, dẫu có bị thiêu cháy cũng
sẽ
mau chóng mọc lại.
Con đường phía trước xa vời là thế nhưng nàng tựa như
một
ngôi sao,
một
ánh nến, ở trong mưa gió dẫu chập chờn nhưng
không
tắt, cố chấp
đi
về phía trước.
Nếu như Phó Vân
anh
chỉ coi việc học hành là cách để nàng tô điểm những đức tính của mình
thì
không
sao, Tôn tiên sinh sẵn sàng dốc hết tài học dạy cho nàng, nhưng nàng nào nghĩ thế.
Cuộc đời này cực kỳ hà khắc với phụ nữ, đặc biệt có vài phụ nữ
không
hợp đọc sách, đọc nhiều sách, họ
sẽ
hiểu ra nhiều chuyện. Hiểu
rõ
rồi
sẽ
đau khổ phẫn hận cả đời.
Cuối cùng vẫn là học sinh của mình, Tôn tiên sinh
không
nỡ nhìn thấy Phó Vân
anh
bước lên con đường
không
có lối thoát này, ông ta muốn kéo nàng quay trở lại. Tạo lập
một
con đường mới phải gánh chịu quá nhiều thành kiến của thế tục và đồn đại của người đời, con đường bằng phẳng mà mọi người đều có thể chấp nhận mới là con đường nàng nên
đi.
Nhưng ông ta thất bại rồi. Phó Vân
anh
vẫn cứ cố chấp như thế, cần cù, chăm chỉ,
thật
sự
quá kiên định. Nàng thức dậy từ sáng sớm, cặm cụi cả ngày. Cái quyết tâm học tập đến mức độ có thể gạt bỏ mọi chuyện này khiến cho
một
người
đã
nhiều lần tham gia thi hương như Tôn tiên sinh cũng phải giật mình, thậm chí là chấn động.
Chỉ trong có mấy tháng, nàng
đã
đuổi kịp Phó Vân Khải và Phó Vân Thái.
Nghĩ đến đây, Tôn tiên sinh bỗng nhiên xoay người,
đi
đến gian ngoài, lấy thước ra, đạp mạnh xuống bàn học của Phó Vân Khải và Phó Vân Thái vài cái.
Ầm ầm mấy tiếng phát xuống, hai
anh
em
đang
ngủ gà ngủ gật
không
biết chuyện gì xảy ra còn tưởng rằng có động đất đến nơi thét lên
một
tiếng, ném sách
đang
chắn trước mặt ra, sợ đến nỗi nhảy cả lên.
Sách vở giấy bút đều quăng hết xuống đất, đến chiếc ghế bằng gỗ liễu cũng đổ rầm xuống đất, ầm ĩ cả lên.
Sắc mặt Tôn tiên sinh
âm
thầm như nước.
Lời tác giả:
Về "Mạnh Tử", bởi vì Chu Nguyên Chương thấy trong đó có câu "Dân vi quý, xác tắc thứ chi, quân vi khinh" (Dân là quý hơn hết, kế đó là xã tắc; vua là
nhẹ), "Quân chi thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù" (Vua mà coi bề tôi như cỏ rác,
thì
bề tôi
sẽ
coi vua như thù địch), vân vân, có thể gây bất lợi với cho
sự
thống trị của Chu gia nhà lão nên vô cùng tức giận, hạ lệnh đem bài vị Mạnh Tử ra khỏi Khổng miếu,
yêu
cầu xóa toàn bộ những câu đề cập đến chuyện "dân nặng vua
nhẹ" ra khỏi sách "Mạnh Tử".
Thời đó, ở học đường dạy bản rút gọn của "Mạnh Tử", thi cử cũng
sẽ
không
dùng "Mạnh Tử" để ra đề.
Đương nhiên trong truyện
sẽ
không
nhấn mạnh việc này.
..............................
Tiến sĩ
thật
sự
rất rất rất khó mà thi được. Mỗi lần thi hội thời xưa, tiến sĩ đại khái tầm hai ba trăm người, đây là tuyển chọn trong cả nước. Đất Giang Nam học bá nhiều như chó con,
trên
trời dưới đất
không
sai so được,
không
cần
nói
đến. Ở các huyện thị khác, đỗ được cử nhân
đã
thấy mỹ mãn rồi, có thể có cái chức quan
nhỏ. Châu huyện bình thường
một
thế hệ được
một
hai tiến sỹ
đã
là tốt lắm rồi.