Tống Biệt Hành

Chương 5: Thiên sơn

Sương sớm chưa tan, vầng dương nhờ nhợ rọi lên những mái ngói ẩm rêu.

Thao trường Cấm quân, lần đầu tiên sau nhiều năm, sạch sẽ đến như vậy. Không sào phơi áo, thùng nước ngổn ngang, hay rơm rạ vương vãi. Mặt đất dọn sạch tuyết, đường kẻ chia ô tập đã được vạch lên.

Ba nghìn Cấm quân lộn xộn về tuổi tác, dáng vóc và khí thế, tất cả cùng ngẩng đầu dõi theo bước chân của Lăng Tiêu Dã. Ích Từ và Kình Nguyên đứng ở bên cạnh, không nói gì.

Mộ Hải nheo mắt nhìn, nhỏ giọng nói: "Chưa từng thấy bọn họ đứng nghiêm thế này."

Lăng Tiêu Dã đứng trên bậc cao, nhìn ba nghìn con người đang cố gắng đứng thẳng, cất tiếng: "Từ hôm nay, ta không cần biết các ngươi giỏi hay dở, chỉ cần biết có dám thay đổi hay không? Ba tháng tới chỉ có tự giác, mồi hôi và sự thật. Sự thật là các ngươi yếu, chậm, rệu rã. Vì lười, vì sợ, vì quen cúi đầu. Ai không chịu nổi, bước ra. Không cần sợ. Lính không dám nhận thua mới đáng chê."

Không gian im phăng phắc, một cánh chim khẽ đập cũng nghe rõ. Lúc sau mới thấy một bước chân tập tễnh, bước ra khỏi hàng và giơ tay lên.

Thường Ngộ Xuân cúi đầu, rụt rè nói: "Thưa Đô đốc, ta không ngại khổ, nhưng mà ta gãy chân từ năm ngoái, giờ chạy không nổi. Nếu có thể, xin ngài cho ta trông giữ kho lương."

Lăng Tiêu Dã gật đầu: "Trung thực. Tự biết mình là ai còn hơn kẻ mơ mộng. Từ giờ ngươi coi kho lương, nhưng nhớ ngươi vẫn là lính."

"Tạ ơn Đô đốc."

Cả doanh trại đổ dồn lên bóng lưng khom khom và những bước chân cà thọt của Thường Ngộ Xuân. Chẳng ai nói, cũng chẳng ai cười.

Ánh nắng những ngày cuối xuân chẳng gay gắt, nhưng thao trường đã thấm đẫm mồ hôi. Chẳng có rèn gươm, không có diễn trận, chỉ có rèn người. Kẻ mệt đứng, người mệt ngồi, có kẻ đã lăn ra ngất.

Trên thao trường, từng tốp quân đứng tấn ngả nghiêng. Lăng Tiêu Dã đi qua từng người một, rồi dừng lại trước mặt một binh sĩ bị tuột dây giày. Hắn im lặng cúi người buộc lại cho quân.

Toàn doanh lặng như tờ, ai cũng dõi mắt nhìn Lăng Tiêu Dã.

Đó không phải là thương hại, mà là sự tôn trọng bao lâu nay bọn họ không có.

Bóng đêm lan dần trên bầu trời Trường Đô. Những ánh nến le lói cháy, rọi vào ngọn cờ phẳng lì. Tiếng mài đao loẹt xoẹt rải rác khắp trại.

Ích Từ ngồi bó gối nhìn lên ngọn lửa trước mặt, rồi quay ra thì thầm với Kình Nguyên: "Hắn không nói nhiều, nhưng đúng là biết cách chạm tim người."

Kình Nguyên ném nốt miếng lương khô vào miệng, đáp: "Không chạm vào tim, sao lay nổi chân."

Gió đêm cuối xuân đã chẳng còn ướŧ áŧ và đẫm lạnh. Trong lều trướng, Lăng Tiêu Dã đăm chiêu nhìn bản đồ. Mộ Hải cắm cúi ghi chép vật tự. Đinh Lân loay hoay vá giáp cũ. Sơ Kiến lật lại đống tư liệu nó cóp nhặt được.

Chẳng ai nói gì cả, chỉ có tiếng ngọn bấc tanh tách, cùng tiếng gió khẽ lùa.

Lăng Tiêu Dã đặt tấm bản đồ xuống, đột ngột lên tiếng: "Cấm quân cần một thao trường mới."

Mộ Hải buông bút, Đinh Lân ngẩng lên, Sơ kiến ngừng lật sổ.

Lăng Tiêu Dã chậm rãi nói: "Thao trường hiện tại của Cấm quân chỉ là bãi đất bỏ hoang, chật hẹp, không có đủ chỗ cho ba nghìn quân đồng loạt thao luyện. Một bên giáp núi, một bên sát chuồng ngựa cũ, khi diễn tập lại phải chia ra thành từng toán nhỏ, không thể bày đủ đội hình tam doanh ngũ trận được. Lại còn không có bãi phóng, không có trường bắn xa, đài quan sát cũng thấp, không tiện để theo dõi quân. Giáp trụ và khí giới chất chồng trong kho, chưa kịp lấy đã rối loạn hết rồi, ngựa chiến thì buộc chung với ngựa kéo xe, đạp phá lẫn nhau, thương tích không ít. Thế cho nên chúng ta cần phải có một cái thao trường mới."

Đinh Lân khẽ hỏi: "Nhưng Công tử, giờ làm sao có thể tìm được một thao trường rộng lớn?"

Mộ Hải cau mày nói: "Công tử, lập thao trường mới là việc lớn, phải xin chỉ thị triều đình."

Lăng Tiêu Dã đáp: "Không lập mới. Ta chỉ muốn dùng lại thao trường Thiên Sơn cũ. Đất vẫn còn đó, do Cảnh đại nhân trông coi, chỉ là lâu nay bỏ hoang."

Mộ Hải đồng thuận: "Thiên Sơn nằm ở ngoại thành phía bắc, cách xa kinh lộ và doanh trại chính, không giáp dân, không gần lộ quân, cũng không nằm trong tầm kiểm sát của Nội vụ phủ. Địa thế rộng rãi, kín đáo, đủ để luyện binh mà không kinh động triều đình."

Sơ Kiến vội cúi đầu lật tìm trong sổ, phát hiện được gì đó, liền nói: "Cảnh đại nhân này... là em trai cố tướng quân Cảnh Bạch Nghiên, là người kín tiếng, không lập gia thất, cũng chẳng can dự triều nhiều. À, Tiết Tử Sách trong quân doanh, năm xưa là Cảnh đại nhân quỳ ba canh giờ trước triều xin tha cho hắn đấy. Về sau còn được đại nhân nuôi dưỡng, mãi sau này mới được ghi danh vào Cấm quân làm binh sĩ."

Đinh Lân ngẩng phắt lên: "Tiết Tử Sách... chẳng phải là con của Tiết Tử Mặc sao? Năm xưa cha hắn thông địch..."

"Đinh Lân." Lăng Tiêu Dã ngắt lời: "Những chuyện như thế này không được phép mang ra bàn tán."

Đinh Lân liền câm nín.

Lăng Tiêu Dã nói tiếp: "Sáng mai, ta sẽ đích thân đến thương lượng. Nếu Cảnh đại nhân đồng thuận, ta sẽ tự mình trình tấu việc này lên Bộ binh. Không động đến Hộ bộ thì triều đình khó bắt bẻ."

Sơ Kiến ngơ ngác: "Nhưng có đất mà không có bạc thì phải làm thế nào?"

Lăng Tiêu Dã liền quay sang hỏi Mộ Hải: "Cơ giáp, khí giới, vật tư dụng thế nào?"

Mộ Hải thở dài một hơi, đem sổ sách đặt trước mặt Lăng Tiêu Dã: "Công tử xem xem, ba nghìn quân, mỗi người cần một bộ giáp nhẹ, một đoản đao, một trường mâu, cung tiễn thì năm người chung một bộ. Giáp nhẹ bằng sắt tráng da trâu, một bộ mất bốn lượng bạc rồi. Tổng cộng là mười hai nghìn lượng. Khí giới, yên cương, nỏ mạnh, đạn pháo, binh kỳ, trống trận... cộng vào, cũng không dưới năm nghìn lượng.

Muốn dựng thao trường mới, có đài quan sát, khu cưỡi ngựa, trường bắn, doanh giả tập đêm,... thì chi phí vật liệu, nhân công, đã xấp xỉ mười lăm nghìn lượng nữa. Chưa kể tiền lương, thuốc men, đèn dầu, gạo muối. Mỗi quý đã gần ba nghìn lượng lương lính. Mà gần đây phủ đệ của Công tử cũng cần phải tu sửa, các loại chi dùng ngoài lương đều trông vào nội doanh. Bạc tiêu tới đâu cũng chạm tới đáy hết."

Gương mặt ai nấy nghe xong cũng đều trầm mặc, Mộ Hải do dự nói tiếp: "Thật sự thì ta cũng không muốn làm khó Công tử đâu, nhưng nếu muốn tái thiết lại Cấm quân thì bạc chi ra không thể ít hơn ba vạn lượng được. Mà ba vạn lượng, dù là Hộ Bộ cũng chẳng dễ gì xuất ra một lần đâu."

Lăng Tiêu Dã suy nghĩ một lúc, rồi mới cất lời: "Chuyện đến Hộ Bộ xin thêm bạc, tạm thời gác lại. Giờ mà chạy đến Hộ Bộ, chắc chắn mũi tên của triều đình sẽ hướng về Cấm quân."

Trong mắt triều đình, Cấm quân là lực lượng bán quân sự, nằm ở ranh giới giữa cấm vệ trung ương và vũ lực không chính thức. Lăng Tiêu Dã lại là tướng ngoài biên, chưa từng phục vụ Nội các.

Huống hồ, hiện giờ triều đình ngân khố thiếu hụt, một viên Đô đốc mới nhậm chức như hắn mà dám mở miệng xin ba vạn lượng, vậy các doanh khác thì sao. Hộ bộ sẽ bị dồn vào đường cùng. Đến lúc đó, mũi tên dư luận và tranh đấu chính trị sẽ chĩa về Cấm quân.

Trong triều hiện giờ, thái giám chuyên quyền, quan lại chia phe, đế vương nghi kỵ. Hắn đứng ra xin bạc lúc này, khác nào kéo Cấm quân vào vũng lầy, bị đặt lên bàn cờ, trở thành tấm bia đầu tiên khi triều đình cần một vật tế thần.

Lăng Tiêu Dã thở nhẹ một hơi, quay ra nói với Đinh Lân: "Trước kia Cấm quân từng được trích phí bảo hộ thương lữ, hộ tống tế cống, có ghi sổ riêng. Những khoản ấy, tra lại xem còn mở được không?"

Định Lân gật đầu.

Lăng Tiêu Dã lại nhìn Mộ Hải: "Vật tư hỏng, giáp cũ, cung gãy, ngựa què... tất cả đem ra bán. Giao thợ định giá, sổ phải ghi rõ từng xu một. Đừng để một tờ đơn cũng bị thổi phồng."

Mộ Hải nhăn mày nói: "Công tử, chừng đó chỉ được một phần bạc nhỏ. Phần còn lại..."

Lăng Tiêu Dã rút một tấm thẻ bài bằng ngọc từ tay áo, đặt trước mặt Mộ Hải, giọng đều đều: "Ngươi mang cái này đến Thương hội Vạn Chu, đưa cho cái người tên Vãn Huyền. Nói với hắn, ta cần một số bạc lớn trong vòng nửa tháng."

Mộ Hải ngay lập tức nói: "Công tử định lấy gì trao đổi?"

Lăng Tiêu Dã nói: "Tuyến hộ tống Bắc Mạc. Trong vòng một năm, Cấm quân sẽ mở hành lang riêng cho đoàn thương của họ, không kiểm hàng, không kéo dài lộ trình. Đổi lại, ba vạn lượng, trong nửa tháng."

Tuyến hộ tống Bắc Mạc chính là tuyến thương lộ cũ chạy từ Trường Đô qua biên giới phía Bắc, từng do Cấm quân phụ trách hộ vệ, giúp các thương đoàn Bắc Mạc qua lại an toàn. Sau này, Hộ bộ cắt ngân, tuyến hộ tống bị bỏ ngỏ, khiến cướp bóc tràn lan, quan phủ địa phương đùn đẩy trách nhiệm, dân buôn Bắc Mạc rút về, thương lộ dần tê liệt.

Lăng Tiêu Dã muốn khôi phục lại, nhưng không xin bạc triều đình, mà thu phí hộ vệ từ chính thương đoàn từng được bảo hộ năm xưa. Cách này chính là dùng quân để bảo hộ dân thương, đổi lấy ngân để cứu quân.

Mộ Hải cẩn trọng nói: "Nhưng thương lộ Trường Đô và Bắc Mạc vốn thuộc quyền thu thuế của Hộ Bộ. Cấm quân ngày trước chỉ hộ vệ theo mệnh lệnh triều đình, không được trực tiếp thu bạc. Giờ chúng ta mở lại tuyến cũ, nếu không khéo, sẽ bị quy là vượt quyền, thậm chí là cấu kết thương nhân."

Lăng Tiêu Dã điềm đạm đáp: "Ta không miễn thuế. Ta chỉ khôi phục lại tuyến hộ tống mà Cấm quân từng nắm, đó là khoản chi phí hộ vệ vốn có, sau này bị cắt. Giờ ta chỉ thu lại. Không vượt quyền. Cũng không lấy của triều đình."

Hắn biết rõ, bất kỳ hành động nào liên quan tới tiền bạc và thương lộ đều là vùng nguy hiểm của quan trường. Nhưng hắn cũng biết, nếu cứ chờ triều đình cấp bạc, Cấm quân sẽ chết dần trong đói lạnh. Hắn không xin, không vượt quyền, mà chọn cách khôi phục thứ từng thuộc về mình.

Mặt mũi đám người Mộ Hải đều đã xám xịt lại. Lăng Tiêu Dã tiếp tục nói: "Nếu Hộ bộ không cấp bạc, ta sẽ tự lo. Không tham ô, không trừ lương lính, không rút ruột quân lương, ta chỉ dùng thứ chúng ta được phép nắm. Nếu ngay cả thế này cũng không làm được, thì lấy gì mà dựng lại quân đây?"

Mộ Hải biết, đây là quyết định lớn. Hắn im lặng một lúc, mới đồng ý: "Vậy để ta đi gặp Vãn Huyền."

"Cứ nói với hắn như vậy. Còn lại, ta sẽ trực tiếp đến đàm phán." Lăng Tiêu Dã nói.

Khoảng không im lìm vọt lên, chỉ còn những tiếng thở dài khe khẽ.

Nhớ đến tình hình hiện tại của Cấm quân, Lăng Tiêu Dã liền mở lời nhắc nhở bọn họ: "Giờ Cấm quân chưa yên, lòng quân chưa định, các ngươi phải giữ miệng, giữ mình. Binh sĩ nhìn vào các ngươi, chính là nhìn vào ta. Tất cả nghe rõ chưa?"

Cả bọn gật đầu.

Lăng Tiêu Dã nhìn những gương mặt đã bơ phờ. Khoảng thời gian vừa qua, mấy người bọn họ theo hắn cũng vất vả. Lăng Tiêu Dã khẽ phất tay: "Các ngươi về nghỉ ngơi trước đi. Muộn rồi."

Ba người lục tục ra về, chỉ còn lại bóng lưng hắn lăn dài dưới đất.



Ánh tà cuối xuân rơi trên những vạt mây hồng. Lăng Tiêu Dã lãnh đạm bước qua sân lát đá. Tuyết còn đọng trên mấy gốc lan già. Gió lặng, hoa cũng im lìm.

Một thư đồng bước ra, khom người hành lễ với hắn: "Đô đốc, xin mời, tiên sinh đang chờ ngài ở thư phòng."

Lăng Tiêu Dã gật đầu. Hắn sải bước qua hành lang cũ, vách tường đã ngả màu đất. Hắn dừng lại trong thư phòng thơm mùi mực khô và hương gỗ trầm thoang thoảng.

Cảnh Hoài ngồi sau án thư, mái tóc điểm sương rơi trên tấm áo lụa lam đơn sơ. Ông đặt cuốn sách xuống: "Đô đốc đến rồi."

Lăng Tiêu Dã hành lễ, từ tốn nói: "Cảnh đại nhân, ta đường đột đến quấy rầy, mong đại nhân thứ lỗi."

Ông mời hắn ngồi, rồi rót một chén trà hoa nhài cho hắn. Ông chẳng vồn vã, cũng không lạnh nhạt, chỉ có đôi mắt đã trải qua một đời loạn lạc, u uẩn như mực tàu ngấm vào giấy.

"Cấm quân nhiều năm nay thay hết người này đến người khác, nhưng chẳng mấy ai trụ vững. Giữ được danh thì mất quân, giữ được quân thì chẳng dám cất đầu. Giờ có một người như Đô đốc tiếp quản, ta thực sự mừng cho Trường Đô."

Lăng Tiêu Dã cười mỉm, cân nhắc nói: "Thực sự không dám. Ta chỉ là kẻ được Hoàng thượng chỉ định, còn không biết bản thân có đủ tài hay không."

Cảnh Hoài bèn dịu giọng: "Cấm quân đã từng là niềm kiêu hãnh của triều đình. Năm xưa khi huynh trưởng ta còn sống, Cấm quân chính là nơi đào tạo ra binh hùng tướng mạnh. Chỉ tiếc, thiên hạ thay đổi quá nhanh mà lòng người lại càng khó giữ."

Lăng Tiêu Dã chậm rãi rút một tấm bản đồ từ ngực áo, rồi đặt lên bàn, nói: "Lần này ta mạo muội đến đây, là muốn được thỉnh cầu đại nhân cho phép Cấm quân phục dựng lại thao trường Thiên Sơn. Ta biết nơi đó trước kia từng là đất luyện binh dưới trướng Cảnh tướng quân."

Cảnh Hoài im lặng hồi lâu, ông nhìn tấm bản đồ, trầm tư nói: "Năm xưa huynh trưởng ta xuất binh từ Thiên Sơn đi Hoằng Tây, cuối cùng tử trận trên sông Kỳ Lộ. Thiên Sơn để trống, thuộc quyền trông giữ của Cảnh phủ. Cũng đã hai mươi năm không ai dùng tới."

Ông đã dành cả đời trung thành với giang sơn này, chứng kiến một Cấm quân rạng rỡ rồi suy tàn. Bao nhiêu trung liệt đã chết, lý tưởng cũng mất. Trước thời cuộc đổi dời, liệu lớp người trẻ như Lăng Tiêu Dã có đủ nhiệt huyết mà gánh lấy giang sơn này?

Lăng Tiêu Dã kiên định đáp: "Chính vì vậy, ta không muốn những gì ông ấy để lại bị mai một. Cấm quân giờ chẳng còn bao nhiêu người tin vào lý tưởng, lại càng cần có một ngọn cờ để quy tụ, cần một nơi để bắt đầu lại."

Cảnh Hoài nở nụ cười chua xót, nhẹ nói: "Đô đốc có chắc, một thao trường cũ, một đội quân mục nát, có thể gầy dựng lại?"

"Ta không chắc." Hắn trầm giọng: "Nhưng nếu không bắt đầu từ một nắm tro tàn, thì lửa sao có thể cháy lại đây? Ta biết, lòng người dù có tan, nhưng chí khí vẫn còn. Ta chỉ cầu có một cơ hội."

Khoảng lặng im lìm rơi xuống giữa không gian, như một chiếc khăn liệm phủ qua bao năm tháng.

Cảnh Hoài thở dài một hơi, rồi gật đầu: "Nếu Đô đất muốn Thiên Sơn, ta sẽ giao lại cho Đô đốc. Chỉ mong sau này, không phải hối hận."

Lăng Tiêu Dã chắp tay: "Đa tạ đại nhân."

Hoàng hôn rơi xuống gương mặt của Lăng Tiêu Dã. Ánh mắt hắn sáng ngời như ngọn đuốc chẳng bao giờ tắt. Cảnh Hoài lặng nhìn hắn, không biết tro tàn có thể nhóm lại lửa hay không? Cảnh Bạch Nghiên đã là tượng đài cuối cùng rồi. Thế thời đại loạn, còn ai gánh nổi giang sơn?