Dùng xong bữa tối, Triệu Oánh trở về Hà Phong viện trước, còn Tiết Ngọc Nhuận thì lại luyện thêm một canh giờ, đến khi Thái hoàng thái hậu chuẩn bị đi ngủ mới thu quân ngừng luyện.
Khi nàng bước ra khỏi Quỳnh Châu điện, trời đã tối hẳn, không biết từ đâu vọng lại tiếng sáo mơ hồ, ai oán như khóc.
Tiết Ngọc Nhuận đưa mắt nhìn quanh, bất giác rùng mình. Nàng có chút sợ bóng tối. Những hàng liễu xanh mướt khiến người ta mê mẩn vào ban ngày, dưới màn đêm dày đặc lại trở nên âm u kỳ bí, giống như…
“Hình như ta thấy có ai đó sau gốc cây kia, tóc của nàng ta đang bay—à, là nhành liễu thôi.” Tiếng Tiết Ngọc Nhuận ban đầu khẽ khàng, đến khi cung nhân cầm đèn soi qua, nàng mới thở phào nhẹ nhõm.
Ánh đèn khiến nàng thêm can đảm, tò mò lại chiếm thế thượng phong: “Lung Triền, ngươi nói xem, nếu giờ ta đi dạo một vòng đến chỗ vắng vẻ, liệu có gặp được tiên tử trong tranh hay hồn ma dưới hoa không?”
Lung Triền đi bên cạnh nhuyễn kiệu của nàng, dở khóc dở cười nói: “Cô nương, đây lại là chuyện từ quyển thoại bản nào vậy?”
Nhắc đến điều này, Tiết Ngọc Nhuận liền hào hứng: “Là Tương Tư Cốt của Trường Ly Cư Sĩ. Người khác toàn viết chuyện giai nhân tương tư thành bệnh, hương tiêu ngọc tổn. Trường Ly Cư Sĩ thì khác, ông viết về chàng Đàn Lang vì người trong lòng là Tiêu Nương mà chết, không chịu uống canh Mạnh Bà để chuyển sinh đầu thai, thà chịu khổ bị dầu sôi lửa cháy, làm quỷ không thấy được ánh sáng, chỉ để ở lại bên Tiêu Nương bảo vệ nàng chu toàn.”
Chuyện này thú vị hơn hẳn những câu chuyện tài tử cưới giai nhân, bên mình thêm ba năm thê thϊếp khác. Lung Triền mở to mắt: “Vậy cuối cùng họ có nhận ra nhau, đoàn tụ không?”
Tiết Ngọc Nhuận khẽ thở dài: “Ta cũng không biết, mới đọc đến cuối quyển đầu tiên, đúng đoạn Đàn Lang hóa quỷ, Tiêu Nương thề sẽ báo thù. Phần còn lại của thoại bản đều để ở chỗ tiên sinh. Là bản quý hiếm của Trúc Lý Quán, muốn mua cũng không được.”
Bộ Tương Tư Cốt gồm năm quyển đó chính là “vùng đất giao tranh Binh gia” mà Tiết Ngọc Nhuận dán lên tường.
Lung Triền im lặng một lúc, đồng cảm nói: “Thảo nào hôm nay cô nương suýt bỏ ăn tối để luyện tranh.”
“Đúng thế. Tiên sinh khó khăn lắm mới đồng ý, ta đâu thể bỏ qua cơ hội này.” Tiết Ngọc Nhuận tựa vào lưng ghế trong nhuyễn kiệu, vẻ mặt kiên quyết: “Trong quyển thứ hai của Trúc Lý Quán, nghe nói còn vẽ Đàn Lang sau khi hóa quỷ.”
“Sách có viết, Tiêu Nương ngày trước là ‘mày lá đào dễ u sầu’, còn Đàn Lang thì ‘thần thái thanh cao, như dao lâm quỳnh thụ’…” Tiết Ngọc Nhuận đã xem đi xem lại quyển thứ nhất đến thuộc làu, nàng đang định kể lại cho Lung Triền, câu chuyện cảm động trời đất giữa Đàn Lang và Tiêu Nương, thì bỗng liếc thấy từ xa một bóng người màu trắng.
Lời nàng định nói liền chững lại.
Ánh nến lay động mờ nhạt, thiếu niên trong màn đêm đen như mực thoắt ẩn thoắt hiện, mơ hồ không rõ. Chỉ cảm thấy hắn bước đến như giẫm lên ánh trăng, từng bước uy nghiêm tựa tùng dưới gió. Khi đến gần hơn, mượn ánh sáng dịu dàng của trăng, cuối cùng nàng cũng nhìn rõ dáng vẻ của hắn: tóc mai như dao khắc, mày tựa tranh vẽ, giữa tiếng sáo du dương như có như không, quả thực như tiên tử trong tranh, hồn ma dưới hoa, “thần thái thanh cao, như dao lâm quỳnh thụ.”
“Đàn Lang…” Tiết Ngọc Nhuận hơi ngẩn người, vô thức khẽ thì thầm.
Đôi mày thiếu niên như họa khẽ nhíu lại, giọng nói lạnh lẽo không phù hợp với đêm hè oi ả: “Ngươi đang gọi ai vậy?”
Âm thanh lạnh như băng lập tức kéo Tiết Ngọc Nhuận quay trở về thực tại.
“Bệ hạ sao lại ở đây?” Nhuyễn kiệu dừng lại, Tiết Ngọc Nhuận nửa nhảy xuống kiệu, phúc thân hành lễ trước mặt thiếu niên.
“Trẫm đi dạo một chút.” Sở Chính Tắc liếc nhìn nàng—trên mặt Tiết Ngọc Nhuận viết rõ hai chữ “thất vọng” vì người nàng gặp không phải như ý—hắn mím môi, trầm giọng hỏi: “Còn ngươi, vừa rồi gọi ai?”
Giọng nói của hắn lạnh lùng, nhưng Tiết Ngọc Nhuận không nhận ra cơn sóng ngầm dưới vẻ yên lặng, chỉ tự nhiên đáp: “Ồ, ta gọi Đàn Lang.”
Trong khoảnh khắc ấy, nàng còn tưởng Đàn Lang bước ra từ trong sách cơ.
“Đàn Lang?” Sở Chính Tắc chậm rãi kéo dài âm cuối, khẽ cười nhạt: “Ngươi đâu phải Tiêu Nương, gọi Đàn Lang làm gì.”
“Ngươi sao biết ta không phải Tiêu Nương?” Tiết Ngọc Nhuận vốn quen đấu khẩu với hắn, không nghĩ ngợi liền phản bác. Phản bác xong, nàng đột nhiên nhận ra điều gì, nghi hoặc nhìn Sở Chính Tắc nói: “Khoan đã—ngươi làm sao biết Tiêu Nương? Ngươi đã đọc Tương Tư Cốt? Ngươi chẳng phải chưa bao giờ đọc thoại bản sao?”
Sở Chính Tắc im lặng, lập tức đưa tay về phía túi thơm bên hông. Nhưng Tiết Ngọc Nhuận giờ đã rút kinh nghiệm, tay phải nhanh nhẹn giữ chặt tay trái của hắn đang đặt trên túi thơm: “Ta biết ngươi định dùng thịt khô để bịt miệng ta, hừ.” Nàng nói xong, tay trái nắm lấy tay áo hắn, không cho hắn mượn cớ rời đi.
“Hoàng đế ca ca, ngươi có giấu trân bản của Trúc Lý Quán không?” Tiết Ngọc Nhuận tiến gần hơn, ngẩng đầu lên, ánh mắt tràn đầy mong đợi muốn nghe câu trả lời khẳng định—Sở Chính Tắc cúi đầu nhìn vào đôi mắt đen của nàng, nơi ánh sao và đèn l*иg, tỏa sáng lấp lánh, hắn nhìn thấy cái đuôi nhỏ của hồ ly đang vẫy nhẹ.
Sở Chính Tắc liếc nàng một cái: “Ngươi nghĩ xem, dù trẫm có, trẫm sẽ làm trái ý Tiền phu nhân, đưa thoại bản cho ngươi sao?”
Giọng hắn bình thản, nét mặt thờ ơ, nhưng Tiết Ngọc Nhuận vẫn nhìn ra được bốn chữ “ngươi nghĩ hay quá” trên đó.
Tiết Ngọc Nhuận hừ một tiếng đầy bất mãn, giận dỗi nắm lấy tay hắn đặt trên túi thơm, mượn ngón tay hắn mở túi ra, sau đó nhanh chóng rút hai miếng thịt khô bí truyền bỏ vào miệng.
Sở Chính Tắc: “…” Hắn mặt không đổi sắc buộc lại túi thơm.
Tiết Ngọc Nhuận ăn xong thịt khô, tâm trạng thật tốt, không so đo chuyện Sở Chính Tắc không chịu đưa thoại bản nữa.
Nàng rửa tay, từng bước dụ dỗ Sở Chính Tắc: “Bệ hạ, ngươi đọc thoại bản mà không có ai để trao đổi, cảm giác có phải rất tệ không? Ngươi xem, ta rất sẵn lòng trò chuyện cùng ngươi. Ví dụ, Đàn Lang hóa quỷ có đẹp không? Đàn Lang có trở thành Quỷ Vương không? Tiêu Nương đã gặp Đàn Lang chưa?”
Tiết Ngọc Nhuận muốn tự mình đọc tiếp, nhưng phải chờ quá lâu, lòng nóng như lửa đốt, không kìm được mà hỏi dồn.
Hai chữ “Đàn Lang” khiến tai Sở Chính Tắc đau nhức: “Trẫm cảm thấy rất tốt, trẫm không cần ai để trao đổi.”
“Vậy thì chỉ có thể chờ đoạt quán quân ở lễ Thất Tịch thôi.” Tiết Ngọc Nhuận nghe vậy, lập tức vô tình bỏ mặc Sở Chính Tắc, bước đến bên Lung Triền, nhẹ nhàng vuốt ve cây đàn Thải Loan Quy Lệnh Vân, thở dài một tiếng: “Ta chỉ mang thoại bản đến Thức Phương điện một lần, sao lại quên không giấu trong đống sách, để tiên sinh phát hiện chứ?”
Đó là chuyện đầu năm nay.
Trong cung, Tiết Ngọc Nhuận theo học ở Thức Phương điện. Nhị công chúa đã xuất giá, còn Tam công chúa thì ngại Tiền phu nhân quá nghiêm khắc, nên đều không học cùng nàng. Cung nữ, cung nhân chắc chắn không dám động vào đồ đạc của nàng, chỉ có thể là do nàng quên sắp xếp lại, khiến tiên sinh liếc mắt đã thấy thoại bản nằm ngay trên bàn.
Sở Chính Tắc khẽ ho một tiếng, nuốt xuống lời chế nhạo, giữ im lặng.
Tiết Ngọc Nhuận hơi phồng má lên, không nhận ra sự im lặng khác thường của Sở Chính Tắc.
Sở Chính Tắc yên lặng nhìn Tiết Ngọc Nhuận một lúc, gương mặt nàng đầy vẻ tiếc nuối, rầu rĩ. Hắn dời mắt sang hướng khác, bỗng thấp giọng nói: “Ngươi không muốn thi thì đừng thi. Trẫm muốn một bộ thoại bản, cho dù là bản quý hiếm không còn lưu hành trên thị trường, cũng chẳng phải chuyện khó.”
Chỉ là phải cẩn thận một chút, đừng để Thái phó và Thiếu phó phát hiện.
Hắn vốn đã sớm nhờ Thái Hoàng Thái hậu khuyên nhủ, để Tiết Ngọc Nhuận không cần tham gia so tài. Chỉ là không ngờ Thái Hoàng Thái hậu lại giao quyền quyết định cho Tiết Ngọc Nhuận, mà Tiền phu nhân cùng Tưởng sơn trưởng đối đầu, đưa ra một điều kiện hấp dẫn như vậy khiến nàng ngay lập tức quyết tâm tham gia.
“Bệ hạ, chẳng phải ngươi trước nay luôn coi thường thoại bản sao?” Tiết Ngọc Nhuận khó tin nhìn Sở Chính Tắc, ba bước thành hai bước đi tới bên cạnh hắn, kiễng chân, đưa mu bàn tay chạm lên trán hắn, lẩm bẩm: “Cũng đâu có phát sốt…”
Bàn tay ấm áp áp lên trán hắn, hương thơm nhàn nhạt thoảng qua, Sở Chính Tắc khẽ nghiêng đầu: “...Chi bằng ngươi tự sờ thử trán mình xem.”
Lần này Tiết Ngọc Nhuận ngoan ngoãn lùi lại hai bước, nghĩ ngợi một lát, nói: “Bệ hạ, người đến cầu xin trước mặt Cô tổ mẫu chính là ngươi, đúng không?”