Trời rất đẹp và đường phố vắng vẻ: vài bà già nhỏ nhắn xách túi lưới có chút ít thức ăn, mấy tay du đãng, mấy người gác cổng quét trước mặt nhà như thường lệ, hai cảnh binh cưỡi những chiếc xe hơi ì ạch chở đệm, tủ gương và một lũ trẻ nhỏ náo động. Đường phố Ren tựa một dòng sông dài màu chì, hai bờ hoang vắng. Bỗng những chiếc camiông từ đại lộ Xanh-Giecmanh phóng tới. Dưới một tấm vải bạt buộc không kỹ, Lêa nhìn thấy những chồng hồ sơ buộc lại với nhau một cách vội vã.
Lêa phủ vải lên đồ gỗ và sửa soạn va li.Lúc gập chiếc áo mưa của Cami, nàng tìm thấy trong túi áo mảnh giấy ghi địa chỉ Raphaen Man. Nàng bực dọc nhớ lại lời nàng hứa đến nhà hắn, hay nếu không thì gọi điện cho hắn.
Từ ô cửa sổ mở ra trên hàng cây đại lộ, mọt tia nắng mặt trời như mời mọc người ta ra đường. Cảnh vật im ắng trong nắng hè, chỉ nghe tiếng chϊếp chϊếp của chim sẻ, tiếng gù của bồ câu.
Bỗng nhiên Lêa đậy nắp va li lại, cầm lấy một tấm áo choàng len màu đen khoác ra ngoài chiếc áo dài lụa đen lấm chấm đỏ. Nàng đứng trước tấm gương Vơnidơ ở cửa, đội chiếc mũ rơm cũng màu đen rồi nhẹ nhàng hé mở cửa phòng Cami. Ơn Chúa, Cami đang ngủ. Giôdet sửa soạn các giỏ thực phẩm đi đường.
- Tôi đi thăm một người bạn. Một lát thôi.
- Thưa cô, ra đường một mình, có thể nguy hiểm đấy.
Lêa lặng im.
Pari hoang vắng. Chỉ có vài chiếc xe hơi và camiông nhỏ chất đầy những gói đồ đạc lỉnh kỉnh. Bước trên cầu Royan, nàng thấy về phía nhà Quốc hội như có những lớp mây đen nặng nề bay lên bầu trời. Băn khoăn, nàng rảo bước. Khu vườn điện Tuylơri cũng hoang vắng như ngoài đường phố.
Trong bầu trời u ám, ngôi sao trên đỉnh Khải hoàn môn nổi lên trắng xoá trong ánh nắng. Tim đập rộn ràng, nàng dừng bước và, trong ánh sáng cơn dông, thấy lại cây thập tự Vecdơle. Trong lòng nàng bỗng nảy lên niềm khao khát dữ dội được lên trên đó, đứng dưới cây thánh giá đã từng chứng kiến những lời cầu nguyện của nàng thuở ấu thơ và những giọt nước mắt của nàng thời niên thiếu. Nàng lảo đảo.
- Lạy Chúa. - Nàng thầm thì.
Trong lòng nàng, dâng lên một lời cầu nguyện Thượng đế buổi thiếu thời, lời cầu nguyện dần dà biến thành lời tạ ơn trước bấy nhiêu vẻ đẹp. Nàng lấy làm tiếc phải xa rời nơi đây. Nàng tới phố Rivơli, trước ngôi nhà Raphaen Man mà không gặp một ai dọc đường.
Ông ta mở cửa, mình mặc một thứ áo dài cộc tay bằng len trắng của người châu Phi. Ông ta ngạc nhiên nhìn nàng.
- Ông quên là ông bảo tôi hứa hôm nay đến đây rồi hay sao? - Nàng hỏi.
- Đầu óc tôi để đi đâu nhỉ? Cô bạn thân mến, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng cô thấy tôi đang bộn bề chuẩn bị ra đi.
- Ông ra đi?
- Vâng, mai hay ngày kia. Bọn Đức xâm lược khiến tôi mất việc làm. Ông chủ đài phát thanh Môngđian chờ lệnh sơ tán từng ngày một, đúng hơn là từng giờ một.
- Để đi đâu?
- Chắc hẳn là Tua, nơi Chính phủ đóng. Tôi sẽ dẫn cô đi nếu cô muốn.
- Ông đừng ngốc nghếch như thế. Bản thân tôi hai ngày nữa cũng ra đi.
- Hai ngày nữa, chúng ta sẽ ở đâu? Mời cô ngồi, xin cô đừng lưu ý tới sự lộn xộn ở đây. Cô uống trà nhé?
- Tôi muốn uống một thứ gì mát cơ.
- Tôi không nghĩ là có thứ gì mát mời cô, trừ phi cô uống được uytxki. Ông chủ ngôi nhà này để lại cho tôi hai két. Tôi chỉ mới dùng hết một.
- Đồng ý tôi chưa nếm uytxki bao giờ.
- Mời cô ngồi cho thật thoải mái.
Lêa nhìn quanh. Phòng khách chất đầy những đồ vật đủ loại, có những cái rất đẹp như cái hộp dài sơn màu cánh bọ cạp kia, cũng có những cái xấu đến khủng khϊếp như những bức tượng nhỏ màu sắc sặc sỡ nọ. Nàng bước tới ô cửa sổ mở ra phía điện Tuylơri, Raphaen đi theo nàng, tay bưng hai ly đầy một thứ nước màu hổ phách.
- Tôi uống để chúc sắc đẹp của cô.
Lêa nghiêng đầu, cười nụ và nâng cốc. Nàng uống và nhăn mặt.
- Cô không thích phải không?
- Mùi rượu thế nào ấy.
- Cô cứ uống thêm, cô sẽ thấy là chúng sẽ quen thôi.
Họ đứng tựa lan can, chậm rãi uống. Mùi khói đến buồn nôn làm họ phải khịt khịt mũi.
- Khói gì thế? - Lêa hỏi.
- Khói như thế suốt từ sáng nay về phía Bulônhơ. Mời cô quay vào thôi.
Hai người ngồi xuống chiếc tràng kỷ để đầy gối.
- Va li cô có còn chỗ không? - Ông ta hỏi.
- Cái đó còn tùy. Vì sao vậy?
- Hôm qua, tôi hứa đưa cô mượn mấy cuốn sách mà tôi cho là hay nhất trong nền văn học hiện nay.
Cầm lấy ba cuốn nằm trên tràng kỷ, ông ta hơi ngập ngừng khi trao cho Lêa.
- Không, tôi không cho cô mượn đâu, tôi biếu cô đấy. Có thể đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau. Cô sẽ giữ lấy sách làm kỷ niệm. Đây là cuốn "Hoàng hôn của các thần linh" của Elimia Buốcgiơ (1) hoàn toàn có thể sánh với các tác phẩm của Phlôbe (2). Cuốn "Cuộc đời Răngxê" này, có lẽ cô còn trẻ quá, chưa thích hợp. Nó là cuốn sách của tuổi tráng niên trước tuổi già. Ồ! Cô sẽ đọc về sau, lúc thích hợp. Còn đây là "Anh yêu" của nhà đại văn hào nữ Côlet. Nhân vật, một gương mặt phụ nữ tuyệt vời, trùng tên với cô. Trong cuốn tiểu thuyết, có tất cả niềm vinh và nỗi nhục của người đàn bà. Cầu mong cô giống nàng. Cô có thích thơ ca không?
- Có, chút ít.
- Chút ít, thế là chưa đủ. Cô hãy đọc Necvan (3), nhà thơ rất mực tuyệt vọng.
(1, 2, 3: Các nhà văn, nhà thơ hiện đại Pháp).
Lúc này ở Raphaen Man không còn một dấu vết nào của con người khinh suất, của tay bán thảm hay áo lông, của kẻ lấy tin cho tờ Marian hoặc của kẻ gian da^ʍ đồng tính của Pari nữa! Lêa hiểu là tặng nàng mấy cuốn sách này, ông ta để lại trong đó một phần thân thiết của bản thân mình.
- Cảm ơn. - Nàng nói gọn và đặt một nụ hôn lên má ông ta.
Ông ta đứng dậy để che giấu xúc động.
- Cô bé, nếu tôi có yêu một người đàn bà thì tôi muốn người đó phải như cô. - Ông ta vừa nói vừa cúi xuống, vẻ kính cẩn.
Lêa nhìn đồng hồ.
- Tôi phải về: đã hơn sáu giờ rồi.
- Tôi sẽ tiễn cô. Một cô gái trẻ, đẹp không nên đi một mình ngoài đường phố trong thời buổi này.
- Nhưng có ai ngoài đường đâu.
- Chính đấy là điều nguy hiểm. Cô hãy tin lời một kẻ thành thạo những chốn tối tăm. Những gã bậy bạ bao giờ cũng ẩn náu ở những chốn tĩnh mịch. Nên tránh những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Cô trao sách cho tôi, để tôi bọc lại.
Ông ta lấy từ một chiếc tủ cao sơn đen khảm ngà một tấm khăn san lộng lẫy bằng lụa đỏ thêu hoa và hình chim nhiều màu, gói ba cuốn sách lại.
- Cái gói này hoàn toàn hài hoà với trang phục của cô. - Ông ta vừa nói vừa trao gói sách và mở cửa cho cô gái.
- Ông vẫn ăn bận như thế, không thay quần áo để ra phố? - Lêa ngạc nhiên hỏi.
- Thì cô chẳng bảo tôi là Pari hoang vắng hay sao? Mà dù có đông người nữa thì đã sao? Tôi thấy người châu Phi bao giờ cũng là những người trang phục lịch sự nhất.
Ngoài trời, mùi khói làm vẩn đυ.c bầu không khí mát lạnh. Raphaen khoác tay Lêa.
- Chúng ta đi dọc bờ sông nếu cô muốn. Có thể đây là lần cuối cùng chúng ta cùng nhau đi dạo thế này.
Phía trước Viện hàn lâm, hai quầy sách mở cửa, một của một người đàn bà to béo khó đoán tuổi tác, một của một ông già ánh mắt mệt mỏi. Họ chào Raphaen như chào một người quen biết, không hề chú ý đến trang phục của ông ta.
- Hôm nay ông và bà cùng mở cửa hả? Chắc hẳn không được đông khách.
- Ồ! Ông Man, những người can đảm nhất cũng đã bỏ chạy, ông thấy phải rời bỏ cái thành phố này thì có khổ sở không?
- Ông và bà cũng nên làm như họ.
- Tôi ấy à? Thưa ông? Không bao giờ. Tôi lớn lên ở đây, tôi ra đời trong một cái sân trên đường phố Xanh-Oguyxtanh, tôi theo học ở bến tàu Xanh-Misen, và tôi lấy vợ ở Xanh-Xêvơranh. Bà vợ quá cố của tôi là con gái một người buôn đồ cổ ở Benlơrin. Bà ấy được mai táng ở nghĩa trang Lasedơ. Con gái tôi mở tiệm rượu ở Môngmac, con trai cả tôi có cửa hiệu ra trò ở trước Nhà thờ Đức Bà, và con trai út tôi, khi từ cuộc chiến tranh bẩn thỉu này trở về, sẽ nối nghiệp tôi. Ra khỏi Pari, chúng tôi chỉ có héo mòn đi thôi, cả thể xác lẫn tâm hồn. Vì vậy chúng tôi ở lại, có phải thế không, Giécmen?
Người đàn bà béo, da sạm nắng như da lính thuỷ tuyên bố ầm ĩ:
- Ông nói quá dài dòng đấy!
Raphaen và Lêa đi tiếp.
Những tia nắng chiều tà nhuộm hồng những bức tượng kỳ cục trên Cầu-Mới. Những chiếc xe hơi quá tải chạy về hướng đại lộ Xanh-Misen. Đến phố Ghênêgô, qua một ô cửa sổ để mở, họ nghe đồng hồ điểm bảy giờ.
- Nhanh lên, tôi bị muộn mất.
Trên đường tới đại lộ Raxpay, họ chỉ trao đổi một vài lời. Như hai người bạn, họ hôn nhau trước cửa và chúc nhau may mắn.
Hôm sau, Cami nhận được thư Lôrăng. Anh đang ở gần Bôve. Trong thư, anh miêu tả nó như một thành phố rất đẹp có ngôi nhà thờ uy nghi, lộng lẫy.
- Thư đề ngày nào thế? - Lêa hỏi.
- Ngày 2 tháng sáu. Sao vậy? Ồ! Lạy Chúa! Sau ngày đó Bôve bị tàn phá. - Cami lầm bầm và nằm soài xuống.
Sững sờ, Lêa không nghĩ tới việc giúp đỡ cô bạn khốn khổ.
- Lêa! - Cami năn nỉ.
Nhưng quá sửng sốt, Lêa cũng không nghe thấy. Cuối cùng, ra khỏi cơn đê mê, nàng mới lo chăm sóc Cami. Cơn khủng hoảng ra đi, hai người ôm choàng lấy nhau và khóc nức nở. Chợt bác sĩ Đuyboa bước vào. Ông như già đi đến mười tuổi. Tuy rã rời, ông vẫn cố an ủi họ.
Thứ ba 11 tháng sáu, Lêa, Cami và Giôdet sẵn sàng ra đi, chỉ còn thiếu xe hơi. Bắt đầu một đêm dài mong đợi.
Buổi sáng thứ tư, không khí hết sức căng thẳng và Lêa đành ra khỏi nhà, bảo là đi xem có xe lửa ở ga Aoxteclit không. Chân đi dép, nàng nhanh nhẹn bước trên đại lộ Xanh-Giecmanh, vượt những nhóm người thảm hại đẩy xe trẻ em, xe bò, thậm chí cả xe cút kít, chất đầy đủ mọi thứ: đồng hồ treo tường, máy hút bụi, máy khâu, phong vũ biểu, lọ đựng cá vàng, đệm giường, chân dung tổ tiên hoặc ảnh cưới phóng đại, chuồng chim trong đó nhảy nhót như điên một con bạch yến hay một đôi cu gáy; búp bê đầu bằng sứ, thảm trải nhà màu sắc nhợt nhạt... Nhiều trẻ em da mặt xanh mét, phụ nữ nét mặt mệt mỏi, người già kiệt sức. Họ từ đâu tới? Từ ngoại thành, từ phương Bắc, từ Bỉ?... Tới đại lộ Xanh-Misen, một số nhập vào dòng người đi ngược về phía Lucxămbua; một số khác tiếp tục theo hướng nhà ga Aoxteclit như Lêa... Một đám người dày đặc bảo vệ xung quanh nhà ga. Những người bị chặn lại ở đây truyền nhau những tin tức hết sức kỳ lạ.
- Bọn Đức đã tới Ăngghiên...
- Không, chúng ở Ăngve...
- Chúng đã cho nổ những kho dầu lửa xung quanh Pari...
- Chúng ném bom Vecxay...
- Xe lửa không chạy nữa...
- Cửa ga đã bị đóng...
Đúng là như thế.
Một nhân viên đường sắt, đứng trên mui một chiếc xe hơi, phía sau dãy hàng rào sân ga, dùng loa phóng thanh nói với đám đông. Sau nhiều lần anh ta yêu cầu, đám đông tương đối lặng im.
- Để đảm bảo an toàn, chúng tôi đóng cửa nhà ga cho đến năm giờ chiều...
Tiếng phản đối nổi lên khắp nơi.
- Im lặng... cho tôi nói... im lặng...
Tiếng la ó dịu đi.
-... Như vậy để hành khách hiện ở trên sân ga có thể lên tàu...
- Ồ!... Thế còn chúng tôi?...
- Tất cả mọi người đều sẽ đi... Đã dự kiến hai trăm ba mươi tám chuyến tàu bổ sung cho ga Aoxteclit và ga Môngpacnax... Giờ đây, cứ năm phút một, có một chuyến rời Pari... Tất cả mọi người đều sẽ đi... Bà con đừng nôn nóng...
Lêa vất vả lách giữa hững đôi chân của những người đã ngồi bệt xuống giữa lòng đường, hành lý để quanh người. Đi gần tới Bách thảo, nàng thấy các thảm cỏ đều chật ních những người cắm trại bất thần. Nàng đi qua vườn để tới phố Linê, hy vọng ở đấy đỡ đông đúc hơn. Một gã đàn ông lẽo đẽo theo sau nàng đến tận phố Trường học, lúc đầu nói những lờ ngốc nghếch, và về sau những lời da^ʍ dật bỉ ổi. Nhưng đến đấy, không biết vì sao, hắn không đeo đuổi nữa.
Đi qua trước tiệm Đuypông-Latinh ngửi mùi khoai tây rán, nàng sực nhớ mình chưa ăn trưa. Tiệm rượu không đông người. Lêa ăn ngon lành đĩa khoai rán, uống một cốc bia, sau đó một ly cà phê; rồi đi về phía nhà hát Ođêông một cách vất vả giữa đám đông đi ngược đại lộ Xanh-Misen.
Lúc đó là bốn giờ chiều.