Mành Chỉ Đỏ

Chương 39: Thực Tại Phũ Phàng

Người ta thường nói:

“Nhân sinh như mộng,

Người tỉnh mộng tan.

Đời người như kịch,

Người tản kịch tàn.”

Nàng tự hỏi đã có bao giờ bản thân tỉnh lại sau một giấc mộng dài đến tê tái như vậy rồi bất chợt nhận ra điều thân thiết nhất bên cạnh đã rời đi chẳng một lời từ biệt.

“Tương câu tương tế, ngọc nhữ vu thành. Vô niệm. Tâm an. Nguyên. (*)”

(*) Giúp đỡ lẫn nhau, đá mài thành ngọc. Đừng nhớ. An tâm. Nguyên.

Nàng lẩm nhẩm đọc đi đọc lại những con chữ ngắn ngủi đó của chàng trước khi ra đi. Nàng không hiểu gì hết, nàng không biết rốt cuộc tại sao lúc nào bản thân cũng bị ruồng rẫy một cách đáng thương như vậy.

Năm xưa là Hàn Trọng dứt khoát vứt bỏ nàng ở lại cửa viện Nghinh Uyên lạnh lẽo, để mặc nàng ngồi đếm thời gian trôi qua từng năm ngắn tháng dài trong vô vọng. Đến nay lại là Lục Lâm Nguyên chẳng rõ vì sao lại quyết tâm rời bỏ nàng đi đột ngột như vậy.

Nàng khẽ nhếch môi, cảm giác như bản thân chính là một trò đùa của tạo hóa. Nếu chàng đã nói chàng yêu nàng, cả đời này chỉ muốn ở bên nàng, vậy tại sao hết lần này đến lần khác giấu giếm nàng tất cả mọi chuyện, để mặc nàng giống như một kẻ khờ dại mò mẫm trong những âu lo khi được khi mất?

Nàng khẽ khàng đặt tờ giấy đó xuống, đôi mắt hơi cau lại lúc nhìn thấy chiếc vòng đan màu đỏ của chàng. Chiếc vòng này đã từng xuất hiện một lần trong giấc mơ về quãng thời gian nhiều năm về trước. Nàng không nhớ chiếc vòng đan ấy vì sao lại xuất hiện trong giấc mơ khi đó, cũng chẳng còn nhớ rõ mặt người thiếu niên đã từng hẹn ước với nàng rằng cả đời này sẽ cùng nàng kết dây đồng tâm, thề nguyện đến bạc đầu.

Tất cả, đều vô cùng mơ hồ, vô cùng mờ mịt.

Dường như tất cả những gì nàng còn nhớ trong giấc mộng dài êm ái đó chỉ là bóng đêm bao trùm tỏa khắp hồ Hoa Thanh và những cơn gió Đông lạnh lẽo đến tê tái cả tấm lòng.

“Nhất Sinh đan?”

Nàng bần thần lên tiếng, sau đó cầm lấy lọ thuốc màu sâm bạch đưa lên mũi ngửi.

Đây quả thực là Nhất Sinh đan, viên đan dược quý giá nhất của Lục Lâm Nguyên. Giá trị của viên đan dược này cơ hồ không hề thua kém Bồng Lai đan một chút nào.

Không chỉ là Nhất Sinh đan, ở bên cạnh chiếc vòng đan còn có thêm một tờ giấy màu vàng ghi lại phương thuốc chữa trị tận gốc bệnh dịch đang hoành hành tại Phong Hoa Tuyết Nguyệt thành.

Nàng ngồi phịch xuống giường rồi đưa tay vuốt những lọn tóc rối ra đằng sau tai. Cảm giác thất vọng về bản thân cứ thế dâng lên từng đợt.

Buổi đêm hôm qua chàng vẫn còn ở đây, vẫn còn dùng vòng tay rắn rỏi ấm áp ấy ôm nàng vào lòng. Mùi hương dịu nhẹ của chàng như vẫn còn phảng phất quanh cánh mũi nàng, ướp nàng trong mộng cảnh ngọt ngào về mối nhân duyên mãi mãi về sau.

Nàng lẳng lặng nhìn xung quanh y quán. Ngôi nhà này vốn đã từng vô cùng náo nhiệt, tươi vui, chẳng ngờ giờ đây chỉ còn một mình nàng lẻ bóng trong cô quạnh. Nàng sợ hãi cái cảm giác đơn thân phòng không gối chiếc này lắm rồi. Nhiều năm về trước nàng đã từng phải chịu đựng tình cảnh ấy lúc còn ở viện Nghinh Uyên, ngỡ tưởng rằng cuối cùng đã tìm được một bến đỗ để nàng có thể dựa dẫm suốt cả cuộc đời này, ai ngờ số phận đổi thay, con tạo xoay vần. Xuân về vắng lặng, cành gió lộng không, kẻ đi người ở lại, rốt cuộc vẫn phải biệt ly.

Thời gian lại tiếp tục lặng lẽ trôi, chẳng cho phép vì bất cứ một điều gì mà ngừng lại.

Những hạt mưa Xuân tháng Hai tí tách rơi, lất phất vương trên những nhành lá, lất phất đậu lên những mái ngói mới lợp của y quán Vĩnh An. Đáng lẽ vào ngày này năm trước, những cành cây khẳng khiu của cây anh đào trước cửa y quán đã ngập tràn sắc hoa hồng thắm, diễm lệ ngẩng cao đầu khoe trọn muôn màu muôn vẻ với nhân gian, cớ sao giờ đây lại chỉ lẳng lặng thu mình lại trước sự tấp nập của cuộc đời?

Chẳng mấy chốc mà đã vài tháng trôi qua. Phong Hoa Tuyết Nguyệt thành vẫn là Phong Hoa Tuyết Nguyệt thành. Y quán Vĩnh An cũng vẫn là y quán Vĩnh An, là nơi gửi gắm thân mình của những con người khó tìm nơi nương tựa.

Nhờ có phương thuốc mà Lục Lâm Nguyên để lại, nàng đã có thể chữa trị tận gốc bệnh dịch trong thành, từ đó tiếng tăm của nàng cũng đã truyền đi gần xa, người người đều biết.

Sự rời đi của chàng đối với tất cả người dân trong thành mà nói là một sự mất mát lớn không gì có thể bù đắp nổi. Chàng đã cống hiến gần nửa đời mình cho Phong Hoa Tuyết Nguyệt thành nhưng cũng chẳng đòi lấy một chút lợi lộc cho bản thân. Nay chàng chỉ gửi lại nơi đây một cô nương còn đang chờ đợi chàng trong mờ mịt. Ai nấy đều cố gắng đối xử tốt nhất với nàng có thể, và cũng coi như đó là niềm an ủi cho nàng trong những tháng ngày sương gió kéo đến phủ kín bầu trời này.

Khoảng thời gian này Lưu đại nương hay đến ở cùng nàng. Nữ nhi của bà đã xuất giá, mà nhà tế tử (*) lại ở xa, thành ra cứ mỗi khi nhớ con là bà lại đến ở cùng nàng cho khuây khỏa đi phần nào nỗi nhớ nhung.

(*) Tế tử: con rể

Hôm nay cũng giống như bao ngày đã trôi qua, Lưu đại nương cùng ngồi lại với nàng trong y quán, hai người khom lưng phân loại từng gốc thảo dược với nhau sau đó để sang những chiếc sàng tre riêng biệt.

Lưu đại nương chợt lên tiếng nói:

“Thanh Uyển cô nương, mùa Xuân năm nay sao lại mưa nhiều như thế nhỉ? Cô nương đã có đủ áo ấm chưa, hay để lát nữa ta về nhà lấy cho cô nương mấy bộ nhé. Tế tử năm ngoái may cho thê tử nó hai bộ y phục đẹp lắm. Nhưng lúc đấy con bé lại đang có mang, thế nên chẳng mặc vừa được, cứ cất yên trong tủ bao ngày rồi mà cứ để không như vậy cũng phí. Ta xem thân hình cô nương với con gái ta cũng giống nhau, chắc là sẽ vừa với cô nương đấy.”

Nàng lắc đầu đáp lại:

“Đại tẩu không cần phí công như vậy vì tiểu nữ. Đó là quà của lệnh kim, tiểu nữ làm sao nhận được cơ chứ.”

Nàng đáp được một câu rồi lại lẳng lặng nhặt dược thảo tiếp. Lưu đại nương thấy vậy chỉ đành thở dài.

“Đã ba tháng rồi đúng không?”

Nàng nhẹ gật đầu:

“Chính xác… là một trăm lẻ ba ngày.”

Đôi tay đang nhặt nhạnh dược thảo của Lưu đại nương bỗng chốc dừng lại. Tuy rằng giọng điệu của nàng nghe có vẻ hờ hững, song làm sao bà lại không biết con số nàng vừa đưa ra chứa đựng biết bao nỗi cô đơn trống trải đang từng ngày gặm nhấm lấy trái tim của người thiếu nữ ấy.

Ba trăm lẻ ba ngày rồi… Thật là nhanh, và cũng thật là chóng vánh.

“Đại tẩu, tiểu nữ phải đi trông coi nồi thuốc mới, đại tẩu cứ sắp xếp riêng ra từng loại giống như hôm qua tiểu nữ làm nhé.”

Nàng vừa nói vừa đứng dậy. Lưu đại nương gật đầu nói:

“Được, cô nương cứ đi đi, chỗ này để ta lo là được rồi.”

Ngay lúc nàng vừa dợm chân bước đi, Lưu đại nương chợt gọi với lại:

“Thanh Uyển cô nương!”

“Có chuyện gì sao, đại tẩu?”

Nàng quay người lại hỏi, nơi khóe môi liền nở nụ cười tươi tắn khi nghe được câu nói tiếp theo của bà.

“Đừng làm việc quá sức, nhớ giữ gìn sức khỏe.”

“Tiểu nữ biết rồi.”

Nàng đưa tay quệt ngang khóe mi, sau đó vội vã bước chân ra cửa sau của y quán.

Tháng Hai là mùa hoa thi nhau nở rộ, và cũng chính là tháng đẹp nhất trong năm. Những người nơi đây ai nấy cũng đều mang theo mình tâm trạng hứng khởi đón nhận mùa Xuân đang độ chín muồi. Sau khoảng thời gian cơn sóng giang hồ khuấy đảo từng ngóc ngách trong chốn thành đô thơ mộng này thì đây chính là khoảng trời yên biển lặng hiếm hoi mà ai ai cũng khao khát được ngày ngày tận hưởng. Chỉ đến khi đi qua những tháng ngày âm u mưa tê rét buốt, người ta mới biết quý trọng những giọt nắng hồng sớm mai nhảy nhót khắp chốn hồng trần.

Thần Y của thành Phong Hoa Tuyết Nguyệt rời đi, thế nhưng ngài vẫn để lại nơi đây một nàng tiên nữ thay ngài hoàn thành tâm nguyện. Giai thoại này cũng chính là câu chuyện hút khách nhất trong các trà quán trong khoảng thời gian vừa qua. Thuyết thư thêu dệt nên cho họ một mảnh tình bi hoan ly hợp thấm đẫm nước mắt và tang thương, từ một cái miệng lan ra đến mười, rồi từ mười lại đến một trăm, cứ thế, cứ thế, tất cả đều càng ngày càng vượt xa sự thực tế trong câu chuyện ban đầu. Thế nhưng trong hàng trăm, hàng ngàn dị bản đó, chung quy lại vẫn chỉ có một kết cục mà người trong cuộc là nàng không khỏi cảm thấy chạnh lòng, đó chính là chàng đã bỏ nàng mà đi, để nàng lại bơ vơ một mình nơi chốn đã từng chan chứa biết bao lời nói ái ân mặn nồng.

Nàng không dám nhớ đến buổi sáng hôm ấy, cái khi tỉnh giấc, nàng cứ ngỡ rằng sẽ lại được trông thấy ánh mắt dịu dàng của chàng, sẽ lại được cảm nhận vòng tay ấm áp như nắng ban mai ấy. Thế nhưng tất cả những gì nàng đón nhận được khi đó chỉ là nửa chiếc giường lạnh lẽo và một tờ giấy nhàu nhĩ vì nước mắt.

Tất cả của nàng, cứ như vậy mà ra đi…

“A!”

Nàng vô thức kêu lên một tiếng đau nhói. Nồi thuốc nóng vì sơ ý mà đổ ào xuống nền đất, xối cả thứ nước thuốc đắng ngắt đang sôi sục đó lên người nàng. Cơn đau đớn tê rát ập đến, nàng cúi rạp người tự ôm lấy thân thể vừa bị nước thuốc bắn lên, những giọt nước mắt không biết từ lúc nào đã dâng đầy lên khóe mi, lã chã rơi xuống tay áo nàng. Nàng khóc chẳng thành tiếng, chỉ có thể tự ôm lấy bản thân mà gặm nhấm nỗi tủi hờn suốt bấy lâu nay.

Tiếng đổ vỡ vừa nãy đương nhiên là đã làm kinh động đến Lưu đại nương đang ngồi nhặt dược thảo trong phòng. Bà vội vội vàng vàng xốc quần áo lên rồi hớt hải gọi:

“Thanh Uyển cô nương, cô nương có làm sao không…”

Cảnh tượng người con gái đang dùng chính vòng tay của mình ôm lấy thân thể ấy bỗng khiến khóe mắt bà cay cay. Làm sao bà lại không biết người con gái ấy ngoài mặt thì luôn tỏ ra mạnh mẽ giống như chuyện của hơn trăm ngày về trước chẳng thể làm nàng động lòng, thế nhưng rốt cuộc nàng cũng chỉ là một cô gái đang độ tuổi yếu đuối nhất, luôn luôn cần có một vòng tay ở bên chăm sóc quan tâm đến nàng. Tiếng nức nở của nàng khiến con tim bà như nghẹn lại, rõ ràng là một cô nương tốt đến như thế, tại sao lại phải chịu cảnh đơn độc tối ngày như hiện tại?

Bà không kìm nổi lòng mình đi tới gần bên nàng, chẳng màng đến việc giờ đây người nàng đã ướt nhẹp bởi nước thuốc mà dịu dàng ôm nàng vào lòng.

“Thanh Uyển cô nương, cô nương phải chịu khổ rồi…”

Cảm nhận được hơi ấm của người khác, nước mắt mới khi nãy còn đang nghẹn ngào bỗng chốc hóa thành thủy triều trào dâng, cuốn trôi đi tất cả những sự kìm nén yếu đuối. Nàng khóc đến hoa lê đẫm mưa, khóc đến khi cổ họng khản đặc lại, khóc đến tê dại cả tấm lòng. Đã bao lâu rồi nàng chẳng được khóc một trận cho thỏa đi nỗi lòng như vậy, đã bao lâu rồi nàng chưa được chàng dùng cả tấm thân rắn rỏi ấy ôm trọn vào lòng? Nàng nhớ đến điên cuồng hơi ấm mạnh mẽ quyến rũ ấy, nhớ đến chạnh lòng giọng nói cười cợt khinh khỉnh chế giễu thiên hạ của chàng. Dường như tất cả những điều gì liên quan đến chàng, nàng đều chẳng thể níu giữ lại được, chỉ có thể ngậm ngùi tưởng nhớ trong mỗi đêm trằn trọc trên chiếc giường lạnh lẽo rét buốt.

Nếu biết ngày ấy là ngày cuối cùng được ở bên chàng, nếu biết cái ôm khi ấy là cái ôm cuối cùng của định mệnh uyên ương, nàng nhất định sẽ gọi chàng là Lục lang, nhất định sẽ ôm lấy chàng chẳng buông tay, nếu biết khi ấy sẽ mất chàng…

Nếu biết? Đáng tiếc rằng trên đời lại chẳng có nhiều “nếu biết” đến như vậy.

Sau khi cơn nức nở chỉ còn là những tiếng thút thít trên đầu môi, nàng nấc nghẹn lên một tiếng nghẹn ngào, lấy ống tay áo lau đi đôi mắt đỏ hoe ướt đẫm, vuốt vuốt lại những sợi tóc rối vương trên khóe mi. Một hồi lâu sau, nàng chậm chạp cất lên giọng nói khàn khàn:

“Đại tẩu, tiểu nữ phải đi tìm chàng…”

Nơi tửu đi-m tồi tàn cách hơn trăm dặm về phía Nam, trên một chiếc bàn gỗ cũ kỹ còn vướng đôi chút bụi bặm có ba nam nhân cùng ngồi đối ẩm. Ở một nơi khỉ ho cò gáy này mà nói, đồng thời xuất hiện những ba nam nhân dung mạo đẹp đẽ tuấn tú mười phần như thế quả thực là chuyện lạ hiếm thấy. Những thực khách ngồi ăn ở những chiếc bàn khác có đôi khi không kìm được bản tính tò mò mà thỉnh thoảng lướt qua chiếc bàn đầy những rượu đó.

Người ngồi bên trái có đường nét trên gương mặt vô cùng cương nghị, đôi mắt sáng như sao nổi giữa trời đêm, giọng nói cũng vô cùng khỏe khoắn chẳng chút câu nệ. Tuy rằng chỉ là ngồi đối ẩm, thế nhưng khí khái ngút trời bên trong con người ấy cũng chẳng thể bị thu liễm đi chút nào. Người ngồi bên phải thì lại là một mỹ nam tuyệt sắc, y mặc một bộ đồ màu trắng rộng thùng thình khiến cho cơ thể y không ít thì nhiều bị gầy đi trông thấy. Mái tóc dài của y được búi cao bằng lụa đỏ, nếu không phải là là do bộ y phục đang mặc trên người và cái ngực phẳng lì của y, kẻ nào có nói rằng y là một tuyệt đại mỹ nữ cũng không phải là quá lời. Trái với vẻ tươi cười của mãnh nam khí khái kia, y chỉ yên lặng ngồi nghịch cây sáo màu trắng xấu xí trong tay với vẻ hứng thú không che giấu.

Còn người còn lại… Đầu tóc bù xù, y phục nhăn nheo, y dường như bỏ qua hết tất thảy những sự đời đang trôi nổi, chỉ biết nốc cạn từng vò rượu mà tiểu nhị mang tới với vẻ mặt kinh hoảng không thôi.

Tuy rằng trong mắt những người nơi đây, y chỉ là một tên sâu rượu không hơn không kém, thế nhưng mỗi khi y ngửa cổ uống rượu, người ta vẫn có thể thấy được ngũ quan anh tuấn trên gương mặt nhợt nhạt trắng bệch của y.

Ba con người kỳ lạ với ba sắc thái bất đồng trở thành sự chú ý trong cái tửu đi-m nhỏ bé này cũng chẳng phải là chuyện lạ khó hiểu.

Ba người ấy chẳng là ai khác ngoài Lý Hiên, Hầu Khanh và Lục Lâm Nguyên.

Hầu Khanh sau khi nghịch chán chê cây sáo trên tay, y vô tình đưa mắt nhìn sang phía Lục Lâm Nguyên, cau mày nhắc nhở:

“Thứ rượu rẻ tiền đó mà ngấm vào người thì lát nữa không thoải mái lắm đâu.”

Lục Lâm Nguyên nấc lên một tiếng, vò rượu trên tay đập sầm xuống bàn, chàng chẳng màng dơ hay sạch, cứ thế chùi ống tay áo lên miệng rồi bằng giọng nói ngà ngà hơi men đáp lại:

“Vốn dĩ cũng chẳng cần rượu này thì trong người ta đã đủ khó chịu rồi.”

Lý Hiên thở dài nhìn bộ dáng buông thả của người huynh đệ tốt này của y. Vốn trước kia y cứ nghĩ rằng Cung chủ sẽ niệm tình bằng hữu khi xưa mà buông tha cho Lục Lâm Nguyên, để chàng lại được trở về cuộc sống mà chàng hằng mong muốn. Vậy mà chẳng ngờ Cung chủ hắn ta sau khi xuất quan lại tiếp tục ráp tâm thực hiện ý đồ dang dở vào hơn hai mươi năm trước. Mà lần này đối với sự vắng mặt của Lục Lâm Nguyên, Cung chủ lại một mực cương quyết, thậm chí còn bỏ mặc ngoài tai tất cả những lời khuyên nhủ của y, giao lệnh bài cho tên Hạo Khang vốn chưa từng có ý đồ gì tốt với Lục Lâm Nguyên.

Y biết Lục Lâm Nguyên cũng đã từng tính đến những khả năng xấu nhất có thể xảy ra, thế nhưng có lẽ việc lệnh bài Ám Hà giao vào tay một tên như Hạo Khang là một biến số mà chẳng ai có thể lường trước được.

Lục Lâm Nguyên tuy rằng đã uống rất nhiều rượu, thế nhưng sự tỉnh táo của chàng vẫn chưa mất đi hoàn toàn, chàng nhẹ giọng hỏi Hầu Khanh:

“Hầu lão huynh, huynh có biết lần này Cung chủ điều động những cao thủ nào đi theo hắn không?”

Hầu Khanh đặt cây sáo trên tay lên bàn, lấy ngón trỏ vẽ lên mặt bàn những ký hiệu mà chỉ mình y hiểu được, sau đó khẽ cười đáp lại:

“E rằng là tất cả những cao thủ của Ám Hà Cung.”

Cổ họng Lục Lâm Nguyên như nghẹn lại, chàng cố kìm nén cơn run rẩy khi nghĩ đến thảm họa sắp tới:

“Bao gồm cả huynh?”

Hầu Khanh phẩy tay một cái, tức thì những phù chú kia lập tức mất đi, cây sáo màu trắng của y không có người thổi mà tự ngân lên khúc ca réo rắt, khiến cho cả Lục Lâm Nguyên và Lý Hiên không hẹn mà cùng nhau run rẩy.

“Bốn Thi Tổ, hai Phán Quan và một Kiếm Tiên.”

Lý Hiên kinh động nói lớn:

“Rốt cuộc là lần này Cung chủ hắn ta có mục đích gì mà lại phái đi toàn bộ nhân lực của Ám Hà Cung như vậy? Với một đội hình như thế này, e rằng muốn ám sát tên hoàng đế trong hoàng cung rộng lớn kia cũng chỉ là chuyện trong lòng bàn tay.”

Hầu Khanh bật cười không đáp lại Lý Hiên, đôi mắt của y chầm chậm nhìn sang phía người đang mang trên mình lẫn lộn vô vàn những xúc cảm khó nói kia, chầm chậm mở lời:

“E rằng đã có người biết câu trả lời rồi.”

Lý Hiên nhìn sang phía Lục Lâm Nguyên, vội vàng hỏi:

“Lục đệ, đệ mau nói đi, rốt cuộc là có chuyện gì?”

Lục Lâm Nguyên hít một hơi thật sâu như để lấy dũng khí, sau đó chàng mới cất lên giọng nói đã có đôi chút khàn khàn:

“Nhật nguyệt tối đen, mây che kín trời, gió cuộn sóng dữ, là… Tai tinh (*).”

(*) Tai tinh: ngôi sao mang lại tai họa (sao chổi)

“Nói dễ hiểu hơn xem nào.”

Lý Hiên mất kiên nhẫn thúc giục.

“Lý huynh, huynh có điều không biết. Trong trận loạn chính Càn Khôn điện vào hơn hai mươi năm trước, Ám Hà Cung chính là yếu tố góp vai trò không nhỏ vào cuộc xâm phạm của quân Bắc Ly, ép bức Thiên Tử ban chết quý phi và khiến cho danh tiếng của Đại tướng quân Lâm Chiến Thiên lại thêm vang dội.”

Hầu Khanh tiếp lời Lục Lâm Nguyên:

“Khi đó ngươi đang ngao du bên ngoài Đại Trần Quốc, mà những chuyện này chỉ có Cung chủ, Thủy Phán Quan và ta biết được, thế nên ngươi ngơ ngơ ngác ngác cũng là chuyện dễ hiểu.”

Lý Hiên bình tĩnh ngồi lại xuống băng ghế, y xoa xoa cằm suy nghĩ rồi nói:

“Nếu như theo lời Lục đệ, chẳng lẽ Cung chủ hắn ta theo giặc?”

Hầu Khanh bĩu môi bất mãn:

“Máu tươi dính trên ba chữ Ám Hà Cung của chúng ta còn ít sao? Ngươi nghĩ cái đám người gọi chúng ta là Ma giáo đó còn coi chúng ta là đồng hương của chúng, là người cùng chung chí hướng với chúng sao? Nói chúng ta theo giặc, chẳng bằng nói rằng chúng ta đang tự tìm đường sống cho bản thân nghe còn lọt tai hơn.”

“Được rồi, Hầu lão huynh, chuyện này cứ để ta nói là được rồi.”

Lục Lâm Nguyên lên tiếng cắt ngang lời Hầu Khanh. Chàng biết đối với mấy loại chuyện này thì Hầu Khanh có nỗi ám ảnh riêng, thế nên cách nhìn nhận vấn đề của y có phần tiêu cực cũng là điều dễ hiểu.

“Khi đó đi theo Lâm Chiến Thiên thì hắn ta cũng chỉ là thân bất do kỷ mà thôi. Huynh còn nhớ chứ, vào cái lúc hắn ta nắm giữ toàn bộ thực lực của Ám Hà Cung thì hắn ta cùng lắm cũng chỉ là một thiếu niên hơn hai mươi tuổi, với độ tuổi như vậy, làm sao hắn ta có thể kháng cự lại được tên Lâm Chiến Thiên đã kinh qua không biết bao nhiêu chuyện đời?”

“Vậy theo lời đệ nói, vụ việc năm đó là hắn ta bị bức ép làm sao?”

Lục Lâm Nguyên lắc đầu thở dài. Biến cố năm đó chính là một cây gai nhọn cấn mắc trong lòng chàng suốt bấy lâu nay. Cho dù đã cố gắng làm ngơ đi không nghĩ đến, thế nhưng mỗi khi đối diện với người con gái chàng yêu, nỗi mặc cảm lẫn bứt rứt dằn vặt vẫn luôn âm ỉ lóe lên trong tâm can khiến chàng chẳng thể thoải mái nghĩ đến những tháng ngày về sau của hai người.

“Cung chủ… là… hắn ta tự ý muốn cướp Tiêu Dao kiếm phổ…”

Lý Hiên đập bàn giận dữ, đôi mày kiếm của y giờ đây nhăn hết cả lại. Năm đó nếu như y không tự ý trốn khỏi Ám Hà Cung để ra ngoài du ngoạn, biến cố ấy chưa chắc đã có thể xảy ra, nếu như y và Lục Lâm Nguyên cứng rắn hơn với người huynh đệ đã từng rất thân thiết đó, y đã chẳng trở thành một con quỷ lấy mạng người làm niềm vui như hiện tại.

“Được rồi, chuyện này dù gì cũng đã qua rồi. Việc chúng ta cần làm bây giờ chính là ngăn cản không cho hắn ta gϊếŧ thêm những người vô tội nữa.”

Lý Hiên căng thẳng nhìn Lục Lâm Nguyên:

“Bước tiếp theo hắn muốn làm thế nào?”

Lục Lâm Nguyên đặt vò rượu trên bàn xuống, chàng khó nhọc nuốt nước miếng rồi nặng nề đáp lại:

“Y muốn… gϊếŧ chết toàn bộ người của Phong Linh Đường, cướp lấy Tiêu Dao kiếm phổ.”