Tập Sự Trừ Tà

Chương 4: Đêm trong căn phòng ma

Giữa tháng ngày lấy đất làm gối, lấy trời làm mền, An cảm thấy cuộc sống khi đó vô cùng tồi tệ. Bây giờ, khi ở trong gian phòng này, thời gian trước có thể nói chỉ bằng một phần mười. Rõ là đã quen dần với hình ảnh của những kẻ “biết bay” nơi đây, nhưng phải qua đêm cùng tiếng khóc cười và gào thét hỗn tạp lại là một chuyện khác.

An trùm mền qua khỏi đầu. Cái lạnh từ nền đất truyền đến dây thần kinh cậu cảm giác buốt nơi sống lưng. Những âm thanh rùng rợn cứ mồn một chạm đến màng nhĩ dù đã bịt kín đôi tai. Nếu ai có khả năng kê cao gối mà ngủ ngon dù chỉ một đêm, cậu chắc chắn sẽ quỳ rạp xuống đất, gọi hai tiếng “sư phụ”.

“Lại đây chơi với tụi tôi nè è è è...” Một giọng nói ồm ồm cất lên. Giữa không gian kín mít chẳng có lấy một ô cửa sổ, giọng nói đó như đánh vào bốn bức tường sau đó bị dội lại, tạo thành những tiếng vang ở cuối từ.

Lúc này đã gần mười hai giờ đêm, âm thịnh dương suy, những tiếng cười ngày càng lớn mang theo sự khoái trá. Những cái đầu với mái tóc rối bù không thấy mặt bắt đầu lượn lờ nhanh hơn. Điều an ủi nhất cho đến giờ chắc là ranh giới được vẽ bằng máu chó kia khiến chúng không dám vượt quá phạm vi. An không tránh khỏi sợ hãi, huống hồ cậu chỉ là một đứa trẻ mười tuổi – lứa tuổi mà các bậc phụ huynh vẫn hay răn đe con mình bằng những nhân vật ma mị như “ông kẹ”, dự đoán một đêm sẽ trải qua không dễ dàng. Tay cậu túm chặt góc mền, toàn thân co lại như con tôm, nằm quay lưng về phía những linh hồn, lòng nhớ cha mẹ khôn xiết. Nếu hai người còn sống, cậu ắt hẳn sẽ không phải đến nhà họ Lục, càng không phải ở lại căn phòng này, không phải chịu sự tra tấn tinh thần tàn khốc đến mức ám ảnh vào trong giấc mơ. Nghĩ đến đây, bất giác không kìm lòng được, An bật khóc. Nhưng sự tự tôn của một thằng con trai thúc giục cậu lấy tay quệt vội dòng nước mắt, tự trấn an bản thân bằng cách độc thoại với chính mình, nhằm mục đích lấn át những âm thanh đáng sợ:

“Chỉ vài tiếng nữa thôi là trời sáng. Chỉ vài tiếng nữa thôi là trời sáng...”

Khi nghe được giọng nói của bản thân, quả nhiên tâm trí An có chút bình tĩnh hơn. Vậy là tám chữ kia được lặp đi lặp lại vài trăm lần có lẽ. Vì cố ý nói to, cậu hiển nhiên không phát hiện ra tiếng đẩy cửa nhẹ lúc nửa đêm, tuồn vào trong một chiếc bình hồ lô được bàn tay kẻ lạ mặt nào đấy mở nắp, xuất hiện luồng khí xanh lục nhạt bay ra từ miệng bình. Đạt được mục đích, kẻ lạ mặt nhanh chóng đóng cửa lại.

Sau vài giây, luồng khí bắt đầu thành hình, trông chẳng khác gì những cái bóng ở phía bên kia vết máu chó. Cao cấp hơn, linh hồn màu xanh lục nhạt này có đôi mắt đỏ, càng không bị ảnh hưởng nhiều bởi đường vẽ ranh giới. Nó hiên ngang bay qua nhập bọn cùng đồng loại, cho đến khi nhận ra trước mặt là một người sống đang run cầm cập. Sự hưng phấn đột ngột dâng cao, màu đỏ huyết trong mắt dần chuyển sang đυ.c ngầu. Ngay lập tức, linh hồn tiến về phía An, dùng bàn tay khô héo như cành cây hất tung chiếc mền khiến cậu hoảng hốt quay đầu lại.

“Á á á á!!!”

Sau tiếng hét thất thanh, An lật đật ngồi phắt dậy, lưng dựa vào tường, miệng lắp bắp điều gì không rõ ràng, đầu chạy loạn xạ, mắt nhìn khối xanh lục nhạt đang lù lù trước mặt. Trời ơi! Tại sao hồn ma này qua được vệt ranh giới? Không đúng! Hình dáng của nó rất khác với những con còn lại bên kia. Rõ ràng cậu chưa từng nhìn thấy nó bao giờ. Chắc chắn nó xuất hiện lần đầu, nhưng ngoài cửa đều dán đầy bùa mà?

Cảm giác khi đối diện với linh hồn bên kia vết máu chó khác hẳn với cảm giác khi linh hồn chỉ cách mình vài chục centimeters. An sợ đến mức nói không thành tiếng, khóe mắt vừa khô lại bắt đầu ầng ậng nước, hai răng cắn chặt đến mức chảy máu nướu, may mắn là chưa ngất đi. Ngược lại, trông thấy vẻ kinh hãi của thằng nhóc trước mặt, sự hưng phấn trên gương mặt chỉ còn làn da trắng bọc xương một cách gồ ghề kia tăng thêm một phần. Bởi con người ta một khi run sợ, bảy phách sẽ theo đó mà thoát ra, dễ dàng bị nhập bất cứ lúc nào. Mà “lúc nào” đó, chính là lúc này.

“O... ượn... ác... ơi... út... a... (Cho mượn xác chơi chút nha).” Khối xanh lục nhạt cất giọng khàn đặc một cách đứt quãng, không rõ ngữ nghĩa rồi phá lên cười khiến người đối diện phát hiện một điều: thì ra nó không có lưỡi.

Sau khi buông ra câu hỏi như có như không, linh hồn kia lập tức áp sát cậu, dự định nhập vào. An thảng thốt hét lên, máu nơi nướu theo đó lan ra khóe môi, chẳng mấy chốc cả hai mép đều một màu đỏ. Hồn ma cách mặt cậu chưa đến mười centimeters đột ngột rú lên một tiếng kinh hãi, nhanh chóng lùi về sau, mắt long lên sòng sọc. Không chỉ riêng nó, đồng loại bên kia vạch ranh giới cũng mang vẻ hốt hoảng không kém là bao.

“Áu... ó... (Máu nó...)” Khối xanh lục nhạt kia cất giọng. Tuy không nghe được nghĩa, nhưng vẫn mơ hồ nhận ra sự phẫn nộ lẫn sợ sệt.

An như vừa từ cõi chết trở về, thở mạnh một hơi, cảm giác không khác gì phạm nhân dao đã kề sát cổ lại nhận được ơn tha bỗng từ quan trên trong những bộ phim cổ trang. Cậu không biết vì sao linh hồn kia lại buông tha cho mình, nhưng cách xa nó được lúc nào thì hay lúc ấy. Trông thấy khối xanh lục nhạt lùi về phía bên kia vệt máu chó, miễn cưỡng cũng có thể xem như là một chuyện tốt đi.

“Mày là ai ai ai ai...” Một trong số những cái bóng trắng đang lượn lờ kia hỏi. Đôi mắt trắng dã lúc này chợt chuyển sang một màu đen, nhìn còn ghê rợn hơn ban đầu.

An không trả lời câu hỏi vừa rồi, bởi những gì diễn ra khiến cậu như tạm thời mất đi khả năng này. Cậu nhắm mắt, dùng tay bịt kín hai tai, miệng lẩm nhẩm không ra tiếng câu chú mà cha vẫn hay niệm mỗi khi thắp nhang trước bàn thờ tổ tiên một cách vô thức.

“Nam Mô A Di Đà Phật.”

Mỗi khi sợ hãi về thế lực vô hình mà người người vẫn hay gọi bằng hai chữ “cõi âm” bao nhiêu, con người ta lại có niềm tin vào thần thánh mãnh liệt bấy nhiêu, dù bình thường họ vẫn hay ngờ vực về sự linh thiêng này. Nhưng trong trường hợp của An, cậu chưa bao giờ nghĩ đến những việc như vậy. Đơn giản chỉ là khi miệng hoạt động thì những suy nghĩ trong đầu sẽ bị phân tán, hình ảnh gớm ghiếc trước mắt cũng theo đó mà bay đi. Vốn cậu không biết nên nói gì, chợt nhớ đến hình ảnh cha hay đứng trước bàn thờ khấn tổ tiên, bèn mượn câu nói đó dùng tạm thôi, vậy mà lại khiến tâm trí cậu bình tĩnh hơn thật, nỗi sợ cũng vơi dần, tay chân cũng không còn run như lúc đầu. Kỳ lạ nhất chính là mỗi khi lẩm nhẩm câu nói đó, không gian xung quanh yên tĩnh vô cùng. Những tiếng cười, tiếng gào thét, tiếng rêи ɾỉ... bỗng xa dần rồi im bặt.

An cảm nhận có người chạm vào mình, bèn vung tay múa chân, hét toáng lên. Đến khi thấy má phải truyền đến cơn đau mới dần nhận ra gương mặt của gã Hào đang nhăn nhó nhìn mình, giọng gắt lên:

“Là chú!”

Trông thấy Hào, cậu cảm thấy vừa vui mừng vừa lo sợ, lắp bắp hỏi:

“Trời... trời sáng chưa chú?”

Hào nhìn nét hoảng hốt trên mặt cậu, thầm nghĩ có lẽ thằng bé này đã trải qua một đêm nhớ đời vì cái tội dám làm gã thất vọng, bèn cười như không cười: “Sáng rồi con ạ. Đã biết lỗi của mình chưa?”

An liên tục gật đầu.

“Tốt. Rút kinh nghiệm. Giờ thì mau ăn sáng, một tiếng sau Cảnh sẽ đưa con đến chỗ luyện tập mới.”

Bốn chữ “chỗ luyện tập mới” được gã thốt ra hết sức nhẹ nhàng, nhưng qua tai An lại như tảng đá nặng ngàn cân. Mặc kệ, trước mắt cứ ra khỏi đây đã. Tối qua đã phải ôm cái bụng đói, trải qua một đêm không khác gì du hành địa ngục. Cậu cúi thấp đầu, ba chân bốn cẳng rời đi trong tích tắc.

An ngồi trên giường, nhận lấy ổ bánh mì khô từ Cảnh, chén gọn bữa sáng một cách ngon lành. Cảnh nhìn vẻ ngấu nghiến của cậu, lòng bỗng chùng xuống, đưa cậu nốt phần ăn của mình, cụp mắt:

“Chắc em đói lắm.”

Mẩu bánh khô khốc đang chuẩn bị nuốt xuống cổ họng An đột nhiên nghẹn lại, miệng cũng ngừng nhai. Sự xúc động chạy xộc đến dây thần kinh, biểu hiện qua hốc mắt ẩm ướt. Tâm trạng cậu hỗn tạp giữa hai màu đen trắng lẫn lộn, cảm thấy phía trước là một màn sương mờ mịt không rõ lối đi. An không dám kể Cảnh nghe đêm qua cậu đã phải trải qua những gì vì sợ Cảnh lo lắng. Nhưng nhìn dáng vẻ thất thần của cậu khi vừa bước vào phòng, Cảnh không cần hỏi cũng đoán được, bèn tiến về phía bàn, rót một ly nước sau đó đặt cạnh An.

“Anh Cảnh ơi...” Cậu đột ngột cất tiếng, “Tại sao anh lại vào nhà họ Lục?”

Câu hỏi này khiến Cảnh đứng hình mất mấy giây, mặt hiện nét sững sờ, rất nhanh liền trở về bình thường. Cảnh đang hai bàn tay vào nhau, nhìn vào trần nhà phủ kha khá mạng nhện, bình thản:

“Cha anh vì mẹ anh mà mắc nợ nhà họ Lục, phải làm việc để trả nợ. Sau đó...” Một lúc ngập ngừng, Cảnh tiếp tục: “... sau đó, cha mẹ anh đột ngột mất tích, không biết đã đi đâu.”

“Anh không đi tìm ư?” An trố mắt.

“Người ở của nhà họ Lục không được phép ra khỏi cửa khi chưa có lệnh. Ông chủ nói với anh rằng cha mẹ đã về quê, bỏ lại anh...” Nói đến đây, mắt Cảnh cũng hệt như An, phảng phất nét đỏ hồng.

Giữa thế thời khốn khó, tiền trở thành nhu cầu thiết yếu đến nỗi cha mẹ phải bán đi con mình để gán nợ, thì việc có gặp nó nữa hay không cũng đã chẳng còn là chuyện quan trọng. Đúng thôi. Phụ nữ mất đi đứa con này thì có thể đẻ thêm một đứa khác. Nhưng chủ nợ một khi đã đến nhà, kề dao tận cổ, không trả tiền thì cơ hội sống cũng bằng con số không tròn trĩnh, huống hồ mơ mộng đến chuyện con cái. Cảnh rất hiểu, cho nên cậu không lấy làm oán trách, dù lắm khi vẫn nhen nhóm trong lòng tham lam nho nhỏ rằng biết đâu một ngày nào đó, cha mẹ đem tiền đến chuộc lại mình, hoặc chí ít nhìn mặt con một cái thôi cũng được.

An vốn cảm thấy bản thân là một kẻ bất hạnh, bởi cha mẹ đột nhiên chết không rõ nguyên nhân, trở thành đứa côi cút. Sau khi nghe câu chuyện của Cảnh, cậu cảm thấy nỗi bất hạnh của mình không là gì so với sự bạc bẽo của lòng người. Sự bạc bẽo đó vừa lấy mất đi gia đình Cảnh, vừa mang đi hết tình thương, niềm tin còn sót lại nơi tâm hồn của một cậu bé còn chưa đến tuổi dậy thì.