Có Giọt Mưa Xuân Sà Vào Lòng Sông

Quyển 2 - Chương 83

Ngân Xuyên luôn xử lý mối quan hệ với Đồng Xuân Giang một cách hết

sức thận trọng, không quá gần gũi nhưng cũng tuyệt không dám lạnh nhạt.

Anh cố gắng hết sức để lập kế hoạch nguồn vốn và lo liệu sản nghiệp cho

ông. Đồng Xuân Giang là ân nhân cứu mạng của anh, ông đã giúp anh rất

nhiều, Ngân Xuyên biết ơn ông, nhưng quan trọng hơn là anh cần có một

người đồng minh vững chắc đáng tin trong thời buổi loạn lạc hiểm ác này.

Ở Hán Khẩu không hiếm người có thân phận phức tạp giống Đồng Xuân

Giang, nhưng kẻ có thể khiến người khác kiêng dè như ông lại rất ít ỏi.

Dù Đồng Xuân Giang đã rửa tay gác kiếm nhưng tiếng tăm trên giang hồ

vẫn vang dội, ông có mối quan hệ mật thiết với Hằng Xã, còn nhậm chức

trưởng thanh tra an ninh của Tô giới Anh và Tô giới Pháp, đến người nước

ngoài cũng không thể không cúi đầu trước ông. Tài sản nhà họ Đồng có một

phần tới từ kinh doanh sòng bạc và sàn nhảy tại tô giới, một phần khác

được rót vào ngành công nghiệp và tài chính hợp pháp dưới sự hỗ trợ của

Ngân Xuyên. Ông không chỉ trở thành thành viên hội đồng quản trị thường

vụ và cổ đông lớn của vô số ngân hàng, công ty công thương nghiệp mà còn

nghe lời Ngân Xuyên góp vốn cho rất nhiều những tòa soạn, nhà in, rất có

phong cách của một “quý ông văn minh”.

Dữ Kỳ Trai tọa lạc tại bờ sông ngoại ô Hán Khẩu là một tòa nhà Ngân

Xuyên âm thầm mua đứt sau khi trở về Anh, khi ấy anh còn chưa ngả bài

với Phan Thịnh Đường. Ngoài mặt, Dữ Kỳ Trai là một quán ăn kiêm nơi

thưởng trà, nhưng thực chất Ngân Xuyên lại dùng nó làm chỗ gặp mặt bàn

công chuyện với phe Tạ Tề Phàm, Đồng Xuân Giang. Giờ đây mọi chuyện

đã đổi khác nhưng chức năng của Dữ Kỳ Trai cũng không thay đổi nhiều,

nó không được sử dụng với mục đích chính là kinh doanh mà trở thành

chốn chiêu đãi các vị khách trên thương trường, bàn việc làm ăn quan trọng.

Tình hình lỗ lãi sản nghiệp của Đồng Xuân Giang mỗi quý cũng sẽ được

Ngân Xuyên đích thân trình bày rõ tại đây.

Hôm nay, ánh mặt trời rải trên mặt sông như những lá vàng lác đác. Hải âu

nhẹ nhàng bay xuống, có con tàu băng qua, kéo một đợt sóng nhấp nhô

khiến thuyền đánh cá chòng chành lay động. Ngoài đồng ruộng bên bờ

sông, lúa mì đã được thu hoạch cả, những cành lúa mì vàng óng được bó lại

thành từng bó, giữa là những con đường nhỏ quanh co trồng đầy anh túc đỏ.

Ngân Xuyên lái xe qua, cảnh tượng đẹp như tranh nhưng không sao xoa dịu

nổi nỗi ưu phiền của anh.

Xe của Đồng Xuân Giang đang đỗ ngoài bờ tường Dữ Kỳ Trai, thấy mấy

tay bảo vệ đang đứng ngoài cổng, trong đó có một người cao lớn vạm vỡ,

bả vai căng chắc dưới lớp áo, bề ngoài trông rất thật thà chất phác, thậm chí

còn hơi có phần cù lần, phần eo cuốn một chiếc roi sắt.

Ngân Xuyên mỉm cười, chắp tay chào: “Anh A Kỳ!”

A Kỳ nở nụ cười ngờ nghệch: “Cậu Trịnh, ngài Đồng chờ cậu được một lúc

rồi đấy.”

Nhiều năm về trước khi Phan Cảnh Huyên bị Hồng Toàn Căn bắt cóc, Ngân

Xuyên và A Kỳ đã từng uống rượu với nhau, A Kỳ và Lưu Ngũ là những

trợ thủ đắc lực nhất của Đồng Xuân Giang, gần tới mức theo ông như hình

với bóng, bọn họ kiên định trung thành, đồng thời cũng bạo tàn nhẫn tâm,

khiến người ta không khỏi e sợ.

Đồng Xuân Giang đặt một gian phòng lớn tại Dữ Kỳ Trai, bày một bàn bài

nhưng phần mình không hề đánh, chỉ ngồi uống trà, nói chuyện với một

người đàn ông trẻ tuổi. Thấy Ngân Xuyên tiến vào, ông cười gật đầu với

anh: “Ông chủ Trịnh!”

Đồng Xuân Giang vẫn ôn hòa như mọi khi, nhưng sắc mặt người đàn ông

trẻ bên cạnh ông lại khá khó coi. Ngân Xuyên tươi cười niềm nở, chào hỏi

từng người: “Chào ngài Đồng, chào anh Tống.”

Hàng mày người đàn ông nọ khẽ nhướng lên, xem chừng rất ngạo mạn:

“Anh biết tôi là ai?”

Ngân Xuyên chỉ cười, chào mọi người xung quanh mới quay lại dặn người

làm: “Đun một ấm trà mới mang lên đây, thêm cả điểm tâm và hoa quả

nữa.” Rồi anh ghé lại ngó chiếu bạc, bốn người đang chơi bài là hai quản lý

có thâm niên của Phổ Huệ cùng hai quản lý đến từ Ngân hàng Phú Hưng,

họ đã buông xấp bài trong tay để đứng dậy từ sớm, Ngân Xuyên bèn ngồi

xuống vị trí được một người nhường lại, quay đầu liếc người đàn ông trẻ

nọ, anh cười, nói: “Để tôi thay mặt anh Tống chơi mấy ván.”

Đồng Xuân Giang vỗ ống tay áo, nháy mắt với người nọ: “Duẫn Đoan,

trước giờ cậu Trịnh không chơi bài cửu đâu, giờ đồng ý chơi giúp là xem

trọng cậu lắm đấy.”

Tống Duẫn Đoan khẽ hừ một tiếng.

Chơi được vài ván, Ngân Xuyên thắng được hơn hai nghìn đồng, mọi người

khen anh may mắn, anh cười: “Nào có, tất cả là nhờ có vận may của anh

Tống đây. Anh Tống…”

Tống Duẫn Đoan không đợi anh dứt lời đã đứng dậy, chắp tay nói: “Thưa

các vị, tôi xin cáo từ trước.” Đoạn, anh ta tự ý bỏ đi.

Cả căn phòng chợt lúng túng.

Đồng Xuân Giang buông ly trà trong tay xuống, mỉm cười nói: “Hay cậu

Trịnh đi dạo một vòng vườn hoa với tôi nhé?”

Đến quãng vắng, Ngân Xuyên mới áy náy nói: “Thành thật xin lỗi ngài

Đồng, không ngờ anh Tống và ngài lại có tình cảm sâu đậm với nhau như

vậy, tôi nhất định sẽ nghĩ cách bù đắp cho anh ấy.”

“Không ngờ ư?” Đồng Xuân Giang dửng dưng, “Cậu Trịnh khiêm nhường

quá, tôi thì lại thấy hình như trên đời này không có chuyện gì mà cậu không

ngờ tới được.”

Ngân Xuyên mỉm cười, thở dài: “Thật sự rất xin lỗi.”

Đồng Xuân Giang nói: “Bù đắp cho cậu ta, lấy gì để bù đắp đây, tiền sao?

Nhà họ Tống không bao giờ thiếu tiền, thằng bé này bị cha quản thúc từ

nhỏ, tính khí không được hòa nhã cho lắm, cậu ta đã bỏ không ít công sức

cho xưởng bông kia, đến tôi muốn chủ động giúp đỡ cũng bị cậu ta gạt đi.

Giờ cậu lại đột nhiên nhúng tay vào phá đám, còn sang xưởng bông cho đối

thủ của cậu ta, cơn tức tối oán hận của cậu ta không tan ngay được đâu. Giờ

đến tôi cũng chẳng biết phải làm gì với cậu ta.”

Ngân Xuyên nghĩ ngợi trong chốc lát rồi nói: “Tôi bằng lòng để lại cho anh

ấy hai kho dầu có vị trí tốt, kinh doanh ổn định, có thể làm ăn lâu dài

được.”

Đồng Xuân Giang như cười như không: “Cậu quả là không tiếc gì cho cậu

em rể kia nhỉ.”

“Cũng không chỉ vì mình cậu ta. Tôi không mong việc của anh Tống làm

ảnh hưởng tới tình cảm giữa tôi và ngài Đồng.” Ngân Xuyên chuyển chủ

đề, anh nói, “Giờ Phan Thịnh Đường vẫn chưa rõ tung tích, sống phải thấy

người chết phải thấy xác, đáng sợ nhất chính là cảnh bặt tăm bặt tín thế này,

có khi một ngày nào đó lão rắn độc này sẽ đột ngột ngoi lên cắn tôi, còn

phải phiền ngài Đồng lưu ý giúp cho.”

Đồng Xuân Giang nói: “Phan Thịnh Đường còn sống được bao lâu nữa?

Ông ta ôm một khoản tiền lớn bỏ trốn, số tiền này đủ để sống phần đời còn

lại một cách tử tế rồi, còn cậu thì vướng bận cái tính cách và tình cảm của

mình nên không thể buông tay phó mặc nhà họ Phan, cũng chẳng nửa

đường vứt bỏ phòng kế toán Hoa Phổ Huệ được, khoan bàn đến việc cậu

suýt ngồi tù vì chuyện này, mà thậm chí đến bây giờ cậu vẫn không thể toàn

tâm toàn ý kinh doanh hiệu buôn của mình. Nếu muốn báo thù, ông ta đã

đạt được mục đích từ lâu, giờ xông ra đâu giúp được gì cho Phan Thịnh

Đường?”

Gió nổi, bóng cây lay động, Ngân Xuyên nhìn mặt đất chằm chằm hồi lâu,

anh nói: “Con người ta luôn rất tham lam, thắng rồi lại muốn thắng nữa,

thua rồi lại chẳng bao giờ chịu phục. Thận trọng một chút không bao giờ

sai. Nguồn lực của ngài Đồng lớn mạnh là vậy mà sau bao lâu vẫn không

nghe ngóng được tin tức của ông ta và Ngô Phong Lâm, tôi cảm thấy rất bất

an.”

Đồng Xuân Giang cười nhạt: “Có khi bây giờ Phan Thịnh Đường còn mất

ăn mất ngủ hơn cả cậu, mà có thể ông ta đã chết rồi cũng nên. Ai biết sẽ có

chuyện gì xảy ra giữa ông ta và Ngô Phong Lâm, bắt tay trục lợi thì lấy đâu

ra lòng trung thành dài lâu.”

Ngân Xuyên cau mày, trầm tư không lên tiếng.

Có tiếng ồn ào vọng lại, cả hai người thoáng biến sắc, chẳng mấy chốc Lưu

Ngũ đã vội vã tiến vào. Thấy cả hai vẫn bình yên vô sự, Lưu Ngũ thở phào

nhẹ nhõm. Tiếp sau đó, A Kỳ xách một người đàn ông mặt dài, gò má nhọn

hoắt bước vào như xách một con gà, trán người này tướp táp mồ hôi lạnh,

tay trái bủn rủn rũ xuống, cổ tay sưng vù, xem chừng đã bị gãy xương. A

Kỳ trao con dao bao xanh đồng cho Đồng Xuân Giang: “Hỏi lai lịch hắn,

hắn không chịu nói, tôi lục soát được trên người hắn có thứ này.”

Đồng Xuân Giang chỉ liếc qua mà mắt đã tối sầm, ông nói: “Cứ làm theo

quy tắc đi.”

Ngân Xuyên chậm rãi lùi về sau một bước. A Kỳ bịt miệng người nọ lại, tay

phải bị tóm giật lên trên, rắc một tiếng, hai chân người nọ quẫy đạp trên mặt

đất, rêи ɾỉ gào khóc, ánh mắt đau đớn cùng cực, đôi mắt như cặp chuông

đồng của A Kỳ chẳng có lấy một gợn sóng, tiếp tục bẻ phần gãy đứt trên

cánh tay phải của kẻ này, lại một tiếng rắc nữa vang lên. Hai tay người này

đã bị phế, anh ta ngất xỉu vì đau đớn, miệng chảy máu ròng ròng, xem

chừng đã cắn phải lưỡi.

“Kéo hắn tới Tô giới Nhật. Lưu Ngũ, cậu chọn mấy người đi theo A Kỳ đi.”

Đồng Xuân Giang nói. Lưu Ngũ đáp vâng, A Kỳ khom người, tóm cổ áo kẻ

nọ kéo đi, quá trình ấy vừa nhanh vừa im ắng, trái hẳn với tiếng xào bài trò

chuyện trong những gian phòng riêng, sao mà đáng sợ tới kỳ lạ.

Đồng Xuân Giang liếc nhìn Ngân Xuyên, thấy gương mặt chàng trai trẻ này

vẫn bình tĩnh như nước, không mảy may sợ sệt, như thể chẳng gì có thể

khiến lòng anh gợn sóng, ông không khỏi thầm khen ngợi. Đồng Xuân

Giang giải thích: “Từ cuối năm ngoái đã có vài tên lãnh khách Nhật Bản

mua chuộc phản đồ của Thanh Bang, triệu tập đám côn đồ du đãng để thành

lập Viện Nghiên cứu Thương mại Viễn Đông, nghe nói tiền của chúng được

chính phủ Nhật trợ cấp, chúng ngấm ngầm kinh doanh ma túy và mại da^ʍ,

thu thập tin tình báo, việc gì cũng dám làm. Chúng muốn kéo tôi nhập bọn

nhưng đương nhiên tôi không đồng ý. Tên ban nãy là thám tử của người

Nhật, hằng ngày chúng đều đổi mấy người theo dõi tôi, có lẽ đang muốn

nhổ cái gai trong mắt là tôi đi.”

Hoàn cảnh vô cùng hung hiểm nhưng lại được ông miêu tả một cách nhẹ

nhàng hờ hững tới vậy, Ngân Xuyên nghe mà thầm kinh hãi, anh nghiêm

nghị nói: “Nghe nói đến cả hiệu buôn Tây vốn Nhật cũng kiêm nhiệm vụ

nghe ngóng tin tình báo, dù chỉ là lời đồn thôi nhưng tôi vẫn phải cảnh giác,

dạo gần đây tôi đã bắt đầu hạn chế qua lại làm ăn với họ.”

“Ừ, làm vậy là đúng. Dân kinh doanh mà có nhận thức như vậy là rất hiếm

thấy.”

Ngân Xuyên nói: “Dân kinh doanh cũng nên rõ đúng sai. Trước nay phúc

họa quốc gia luôn gắn bó mật thiết với phúc họa con người, tổ đã rơi thì

trứng cũng chẳng còn. Ngài Đồng, xem ra ngài vẫn rất có thành kiến với

dân kinh doanh, quả thực trên đời này còn vô số gian thương thấy lợi quên

nghĩa, nhưng vẫn có người làm ăn náu thân mà không bỏ nghĩa khí đang

tồn tại. Hơn nữa, không phải ngài cũng là ‘dân kinh doanh’ đó sao?”

Đồng Xuân Giang mỉm cười nói: “Ngân Xuyên, cậu tài hoa hơn người, bản

tính lương thiện, có tài năng, có sự quyết đoán, nếu vào thời thái bình, chắc

chắn cậu sẽ có được những thành tựu không đong đếm nổi. Tiếc là thời thế

càng lúc càng loạn lạc. So với Phan Thịnh Đường, những chuyện phiền

lòng cậu không khống chế được sẽ mỗi lúc một nhiều, mong rằng cậu hãy

nhìn xa hơn, đừng đánh mất tâm tính mình vì những điều không như ý

trong nhất thời.”

Ngân Xuyên xúc động gật đầu: “Tôi sẽ ghi nhớ lời của ngài Đồng. Nhưng

tình cảnh ngài đang rất nguy hiểm, nhất định phải cẩn thận hơn.”

Đồng Xuân Giang bật cười: “Bị quấy nhiễu là chuyện khó tránh, nhưng nếu

muốn động đến Đồng Xuân Giang này thì e không dễ dàng tới vậy đâu.

Bang hội đã đề cao cảnh giác, các tô giới cũng bắt đầu tấn công đám người

này để bảo vệ trật tự, cậu không cần lo lắng quá.” Ông vỗ vai Ngân Xuyên,

“Đầu tháng sau là sinh nhật ba tuổi của con trai tôi, tới nhà tôi uống rượu

nhé.”

Ngân Xuyên cười: “Nhất định tôi sẽ tới chúc mừng.”

Những ngày giữa hạ đã qua đi, thời tiết bắt đầu bước vào độ thu sang với

nhiều thay đổi, trời cứ lúc mưa lúc nắng. Khu ngoại ô Hán Dương có một

vài công xưởng, Đức Anh bước ra từ một trong số đó, khi ấy trời đang mưa

như trút nước. Cậu ta che đầu bằng chiếc cặp da, men theo con đường nhỏ

lầy lội để bước lên làn đường đá sỏi cho xe chạy. Trước khi bước lên xe,

cậu ta không buồn lau nước mưa trên mặt mà chỉ giậm chân, lôi một tờ báo

trong xe ra lau bùn đất dính trên giày. Đến Hán Khẩu, cậu ta cũng không về

nhà ngay. Đức Anh lái xe tới Tô giới Đức, men theo một dãy nhà kiểu Âu

màu ngà để tìm ra tòa nhà nơi Ngân Xuyên đang sinh sống.

Mưa rơi không ngớt, nhưng khi cánh cổng tòa nhà đóng lại, tiếng mưa lại

chợt đứt đoạn. Bước khỏi thang máy, men theo mặt đá hoa đào bước vào

hành lang phía Nam, bắt gặp một căn hộ rất rộng. Mở cửa ra thấy Ngân

Xuyên đang đứng trước cửa sổ, tay bưng bộ trà cụ sứ, những tiếng lách

cách trong veo vang lên.

Đức Anh gõ cửa, Ngân Xuyên quay người lại, gật đầu với cậu ta:

“Hợp đồng ở kia, cậu xem đi, nếu không có vấn đề gì thì nội trong ba ngày

là có thể chuyển nhượng.”

Sắc trời nhá nhem, cửa sổ thủy tinh anh ánh sắc mưa lất phất, phản chiếu đồ

nội thất trong căn hộ. Đèn đang mở, cánh cửa hông bên cửa sổ chắc nối

thông với phòng ngủ, ánh đèn chiếu lên lớp viền vàng của đồng hồ treo

tường, sợi kim tuyến trên hoa văn xô pha rực rỡ chói mắt, sàn gỗ không lấm

một hạt bụi. Đức Anh do dự trong chốc lát, cậu ta mở chiếc cặp táp trong

tay, rút một tờ giấy vụn ra lau đế giày rồi mới bước vào phòng. Đức Anh

cầm lấy bản hợp đồng trên bàn lật xem. Ngân Xuyên đặt ly trà xuống rồi

ngồi lên xô pha, thờ ơ đánh giá cậu ta, anh hỏi: “Cậu tới Hán Khẩu từ bao

giờ?”

“Khoảng mười mấy tuổi, chắc là năm mười hai, mười ba.” Đức Anh vừa

xem vừa nói.

“Cậu thích nơi này không?”

Đức Anh nói: “Cũng không tới mức thích, nhưng gia đình đã an cư ở đây

nên cũng từ từ có cảm tình.”

“Tôi rất thích thành phố này.” Ngân Xuyên quay đầu nhìn ra cửa, “Tôi tới

đây năm sáu tuổi, trừ mấy năm du học thì gần như không bao giờ rời khỏi

nơi đây. Tôi gắn bó với căn nhà ở Hán Khẩu từ nhỏ tới lớn, quen thuộc với

nó tới mức không thể quen thuộc hơn được nữa, tôi ghi tạc trong lòng mỗi

viên gạch, mỗi miếng ngói, mỗi cây cột, mỗi xó xỉnh nơi đây. Đây là một

nơi rất đặc biệt, tô giới của năm quốc gia nằm ngay bên bờ Trường Giang,

chỉ cần bước lên bất cứ con thuyền chở hàng nước ngoài nào là coi như

đồng nghĩa với rời khỏi lãnh thổ. Nó nằm giữa trung tâm Trung Quốc,

nhưng dường như không chỉ thuộc về mình Trung Quốc, chúng ta như bị

giới hạn giữa hai bờ Trường Giang, nhưng thực chất không phải như vậy.

Thật sự rất thú vị.”

Đức Anh nói: “Anh là con người xuất chúng, còn trẻ nhường này mà đã có

một hiệu buôn Tây của riêng mình, đương nhiên anh sẽ thích Hán Khẩu.

Anh nói nơi đây thú vị cũng chỉ vì nó giúp anh đạt được mọi thứ anh muốn

mà thôi.” Cậu ta lật tới trang cuối của tập tài liệu, xem kỹ một lát rồi ngẩng

đầu, nói, “Ổn rồi. Cảm ơn anh.”

“Vậy thì chúc mừng cậu. Cậu chuẩn bị trở thành chủ nhân của xưởng bông

rồi… Không phải cậu cũng đã có được thứ mình muốn rồi sao?”

“Nhờ phúc của anh, em biết ơn còn không hết.”

Lúc nói khuôn miệng vẫn nở nụ cười, nhưng nghe lại như đang nghiến răng

nghiến lợi.

“Nghe nói vì giúp em mà anh đã đắc tội với rất nhiều người, em không có

gì để báo đáp anh, nếu anh đồng ý nhận cổ phần của xưởng bông…”

Ngân Xuyên nhún vai: “Tôi không nghĩ cậu thật sự bằng lòng cho tôi cổ

phần.”

“Anh sai rồi, thật ra em đã không còn muốn có xưởng bông này cho lắm.”

Ngân Xuyên nở nụ cười dửng dưng: “Tại sao? Cậu còn sợ tôi báo thù ư?

Cậu không cần để bụng chuyện trước kia nữa, với tôi nỗi đau xá© ŧᏂịŧ chẳng

đáng là gì, hơn nữa… tôi thật sự có lỗi với cậu, cậu có oán hận tôi cũng là

lẽ đương nhiên.”

Đức Anh cười khà khà.

Ngân Xuyên chân thành nói: “Tôi biết cậu muốn có sự nghiệp của riêng

mình, tôi cũng bằng lòng giúp cậu toại nguyện. Tôi đoạt xưởng bông đó

hoàn toàn là vì muốn giúp đỡ cậu, những chuyện còn lại tôi tuyệt đối không

nhúng tay vào. Nhưng tôi muốn nhắc cậu chuyện này.”

“Anh nói đi.”

“Một xưởng bông bé nhỏ giá trị mười thỏi vàng sẽ không có triển vọng đâu,

tôi lập cho cậu một danh sách, trong đó là các tiền bối đức cao vọng trọng

đang có tiền bạc dư dả, cậu nên thành lập ban hội đồng quản trị cho xưởng

bông, để những tiền bối này đầu tư cho cậu, mở rộng quy mô xưởng, như

vậy mới có thể tính kế lâu dài.”

“Vậy sao? Vậy em muốn hỏi anh một câu, tại sao lại giúp em?”

“Tôi là người làm ăn, tôi sẽ không giúp ai không công. Trước đó xưởng

bông của cậu phải mua lượng máy xử lý bông trị giá hai mươi nghìn thỏi

vàng và ba trăm chiếc máy xử lý sợi giá bốn trăm nghìn đồng của tôi. Để

giảm áp lực cho cậu, khoản tiền này có thể thanh toán dần trong vòng năm

năm.”

Đức Anh ngơ ngác rồi lại chậm rãi nở một nụ cười ẩn ý: “Đây mới chính là

Trịnh Ngân Xuyên mà tôi biết, thật ra cổ phần xưởng bông với anh có cũng

được mà không có cũng chẳng sao, thứ anh thật sự mong muốn là quyền

khống chế tôi, khiến tôi không thể rời anh ra, cũng như người nhà họ Phan

không thể rời khỏi anh vậy.”

Ngân Xuyên thờ ơ: “Tôi không có ý gì khác, chỉ mong cậu có thể lưu lại

Hán Khẩu, có một sự nghiệp thật vững chắc.”

“Sự nghiệp của tôi vững chắc hay không thì liên quan gì đến anh?”

Ngân Xuyên không nói thêm lời thừa, anh bước tới trước bàn làm việc, mở

ngăn kéo rút một tập tài liệu khác ra, vứt mạnh xuống bàn: “Đây là hợp

đồng mua máy xử lý bông và máy xử lý vải, cậu có thể từ chối, dù sao nếu

sau này cậu có ngã đau thì cũng có người tới cầu xin tôi giúp cậu.”

Đức Anh siết chặt tay, gân xanh nổi chằng chịt, cậu ta nhìn Ngân Xuyên

chằm chằm, gằn giọng: “Vậy thì, hẳn anh cũng biết rất rõ không phải tôi

không có cách khiến người đó hận anh suốt đời đâu.”

Căn phòng chợt chìm vào im lặng trong phút chốc, đó là sự im lặng sắc bén,

đầy mùi thuốc súng. Ngân Xuyên chậm rãi ngước mắt.

Đức Anh phe phẩy bản hợp đồng: “Tôi ký hợp đồng này, tôi có thể mua lô

máy móc đó, nhưng xin anh hãy nhớ lời tôi nói ban nãy, đừng có ép tôi.”

Ngân Xuyên phì cười: “Em rể à, từ nãy tới giờ tôi chỉ bàn chuyện làm ăn

với cậu, cậu lại cứ liên tưởng sang những việc khác. Cậu cứ không chịu

hiểu thế này thì e cuối cùng chẳng làm ăn được gì đâu.”

Tay Đức Anh không ngừng run rẩy, nhưng cậu ta vẫn cố gắng kiềm chế cơn

phẫn nộ, khẽ khom mình rồi quay người bỏ đi. Ngân Xuyên ngồi bất động

hồi lâu rồi chợt cầm ly trà bên tay lên, ném mạnh vào hốc tường đối diện.

Sau khi thuận lợi mua được xưởng bông Lợi Sinh, sự sầu não và kiềm nén

Đức Anh tích tụ lâu ngày cũng dần tan biến nhờ sự nghiệp khởi sắc. Đến

Cảnh Ninh cũng phát hiện ánh hào quang trong mắt cậu ta vào những ngày

tân hôn cũng không rực rỡ được như bây giờ.

Việc kinh doanh vừa được bàn giao, Đức Anh đã vội vã lợi dụng quan hệ

với hiệu buôn Tây Thịnh Xương để nhận lấy một đơn đặt hàng lớn xuất

khẩu sang Mỹ, nhưng việc tiêu thụ tại Trung Quốc lại rất khó khăn. Sau

năm 1931, người Nhật Bản thừa lúc sản lượng cây bông vải Hồ Bắc giảm

đột ngột để thúc đẩy bán phá giá một cách trắng trợn, khiến giá thị trường

của sợi bông giảm mạnh. Xưởng bông vốn Hoa bị hủy hoại bởi giá bán rẻ

mạt, để chiến đấu trực diện với công xưởng vốn Nhật, Đức Anh quyết định

thành lập điểm tiêu thụ tại Thường Đức, Trùng Khánh. Do nhà xưởng còn

đang trong giai đoạn chuyển giao, hội đồng quản trị vừa mới thành lập nên

phân chia cổ quyền cùng lợi ích vẫn tồn tại nhiều tranh cãi, cậu ta chỉ đành

bận rộn chạy quanh hiệu buôn Tây và xưởng bông, có lúc làm việc tới tận

nửa đêm mới về nhà. Nhưng dù có về muộn tới mức nào cậu ta cũng sẽ tới

phòng em bé để ngắm con gái. Có lần Cảnh Ninh nửa đêm thức dậy cho

con bú, thấy cậu ta đang nằm nhoài ra ngủ trên thành chiếc giường nhỏ,

phát ra tiếng ngáy khe khẽ, tay còn đang đặt trên người đứa bé. Nhìn hai

gương mặt một lớn một nhỏ đang say ngủ, Cảnh Ninh cũng không khỏi

rung động.

Trong thực tế, chữ “nhà” thực chất chỉ là cuộc sống thường nhật. Từ một

khái niệm mơ hồ lúc mới đầu, thậm chí là sự nhục nhã thất bại không sao

diễn tả được thành lời, ngày tháng qua đi, đến lúc này nó mới hóa thành

một tia hy vọng.

Dù đã có ngoại trang độc lập nhưng nghề chính quản lý hiệu buôn Tây vẫn

liên quan tới giao dịch, Đức Anh phải có một nơi làm việc tiện trao đổi

công chuyện ở trung tâm thành phố Hán Khẩu, đây cũng là văn phòng làm

việc để giữ thể diện cho cậu ta. Cảnh Ninh quyết định giúp chồng mình tìm

một căn nhà phù hợp tại tô giới, chuyện này không cần cô đích thân ra tay,

dù sao cô cũng là con nhà mại bản nức tiếng, hỏi han thân thích hay bạn bè

là sẽ có đủ tin tức, chỉ tiếc những căn nhà nọ thường quá đắt đỏ, hoặc có vị

trí không đẹp, Đức Anh đưa người đi xem mấy chỗ nhưng đều chưa ưng ý

lắm.

Tuy vậy, Đức Anh vẫn có vẻ rất thoải mái, cậu ta dịu dàng an ủi cô: “Không

phải sốt ruột đâu, dù sao giờ còn nhiều chuyện vặt chưa xử lý, mấy hôm

nay anh còn phải tới Trùng Khánh một chuyến, cứ dùng tạm phòng làm

việc ở xưởng đã.”

Cảnh Ninh cau mày, nói: “Trên thương trường, mặt mũi của dân kinh doanh

vô cùng quan trọng, văn phòng là trang phục, là đạo cụ của anh, không thể

tạm bợ được.”

Đức Anh nắm lấy tay cô: “Ninh Ninh, anh biết mà, em đừng lo lắng nữa.”

Cảnh Ninh thấy dường như cậu ta vẫn không để tâm, cô không nén nổi, nói:

“Anh phải nghĩ cho kỹ, người như cha hoặc anh cả em dù kiếm được nhiều

tiền nhưng ngày ngày phải bày mưu tính kế với người khác, sống khổ sở

lắm. Anh hà tất phải học theo họ? Thật ra em thấy anh chỉ cần yên tâm lo

liệu công xưởng, hoặc là an phận làm quản lý, nếu muốn chiếm lợi từ cả hai

phía ắt sẽ được cái nọ mất cái kia, anh xem anh mệt tới mức gầy rộc cả…”

Cô còn chưa nói xong đã thấy lòng bàn tay Đức Anh lạnh ngắt như băng,

ngẩng đầu lên, mắt cậu ta còn lạnh lẽo hơn.

“Em…” Cô muốn nói rồi lại thôi, “Đức Anh, em thật lòng nghĩ cho anh

mà.”

Đức Anh buông tay cô, quay mặt đi, trầm lặng hồi lâu mới nói: “Anh đi

xem Tiểu Quai thế nào.”

Cậu ta vào phòng em bé, chẳng mấy chốc đã lại nghe thấy tiếng ê a của trẻ

con, sau đó là âm thanh bước chân đi xuống nhà, cậu ta bế Tiểu Quai ra

vườn hoa. Cảnh Ninh ngồi đơn độc một lát, đầu óc cô trống rỗng.

Cuối thu, thời tiết thanh mát, Đức Anh trải tấm đệm lót lên bãi cỏ trong

vườn hoa rồi đặt Tiểu Quai xuống. Tiểu Quai mặc áσ ɭóŧ màu vàng tơ, đội

một chiếc mũ nhỏ, bé phấn chấn bò trên đệm, cứ chốc chốc lại vươn tay lần

sờ những bông bồ công anh bên cạnh, chuỗi vòng ngọc nhiều màu kêu tinh

tang, khi những cánh bồ công anh bị gió thổi bay tứ phía, cặp mắt đen láy

của bé lại tròn xoe, kinh ngạc ngắm nhìn, không biết nên phản ứng ra sao.

Đức Anh nở nụ cười, đôi mắt trong veo không vương bụi trần của đứa bé

như mang một thứ sức mạnh vỗ về trấn an người ta.

Tiểu Quai nghiêng đầu ngơ ngác, rồi lại chợt vui vẻ vung tay khua khoắng,

bé vừa nhìn thấy mẹ. Cảnh Ninh tiến lại, tay cầm chai nước hoa, mỉm cười

nói: “Dù trời mát nhưng vẫn có côn trùng nhỏ, đừng để nó cắn cục vàng của

chúng ta.”

Đức Anh cầm chai nước hoa, rót một ít ra tay rồi nhẹ nhàng xoa lên cùi nhỏ

như ngó sen của Tiểu Quai: “Da cục vàng đẹp quá, giống như hoa hồng

vậy.”

Cảnh Ninh nằm xuống, nhẹ nhàng bế con gái lên, kéo bé lại trước mình, để

đôi chân nhỏ mềm mại dẫm lên người mình. Đứa bé nhỏ xíu mềm mại là

thế, đứng cũng không vững, cứ ngã xuống trước ngực cô suốt, Cảnh Ninh

bật cười.

Đức Anh cụp mắt nhìn cô, đôi mắt cậu ta ánh lên cả tình yêu và nỗi đau

khổ.

“Khi nào thì anh tới Trùng Khánh?” Cảnh Ninh khẽ hỏi.

“Đầu tháng sau, anh muốn nhân hiện tại hiệu buôn Tây vẫn chưa nhiều việc

lắm để quyết định điểm tiêu thụ cho sớm, như vậy cũng đỡ tốn công hơn.”

“Vậy chắc em cũng nên tiếp tục nghe ngóng tin tức bất động sản, anh cứ lo

chuyện của anh, em cũng tìm chút việc để làm.”

Đức Anh khẽ thở than: “Ninh Ninh, anh đúng là rất cứng đầu.”

Cảnh Ninh khẽ vỗ bờ vai bé nhỏ của con gái: “Tiểu Quai, Tiểu Quai à, đợi

cha có văn phòng mới mẹ sẽ bế Tiểu Quai đi xem cha làm việc nhé, có

được không?”

“A ha!” Tiểu Quai vui vẻ reo lên, bàn chân bé nhỏ giẫm xuống nhưng lại

loạng choạng suýt đá vào miệng mẹ, Đức Anh vội vươn tay bé bé lên.

Đêm đó, Cảnh Ninh đột nhiên giật mình tỉnh giấc, tay Đức Anh lần vào lớp

váy ngủ lụa crepe de chine trắng muốt của cô, men theo đôi chân cô, cô

rùng mình theo bản năng, nhưng lần này Đức Anh không từ bỏ như trước,

trái lại, cậu ta đè lên người cô, siết chặt lấy cô.

Cậu ta hôn cô, vụng về nhưng cương quyết, miệng cậu ta có mùi thuốc lá

rất hắc. Cậu ta không hề ngủ, còn lén đi hút thuốc. Cô không biết cậu ta bắt

đầu biết hút thuốc từ bao giờ. Sau phút sợ hãi ngắn ngủi, cô từ bỏ việc giãy

giụa, giữ im lặng, chỉ cố gắng thuận theo, cậu ta thở gấp, gọi tên cô, lúng

búng bày tỏ tình yêu và nỗi tương tư dành cho cô, đây không phải lần đầu

tiên, ánh trăng phác họa cái bóng đang nhấp nhô phập phồng, không phân

biệt được ai với ai, nhưng cậu ta chưa từng thành công.

Lần này cũng vậy.

Nếu đã định trước là sẽ giá lạnh như băng, tại sao lần nào đến đêm lại gần

cô cũng sẽ nóng bừng như lửa đốt? Nếu đã định trước là sẽ nuốt cay đắng

vào lòng, tại sao cứ để cậu ta nếm được ảo giác ngọt ngào? Đức Anh buông

Cảnh Ninh, thất bại trở mình, đưa lưng về phía cô, cô nhẹ nhàng đặt tay lên

vai cậu ta, mong có thể an ủi, nhưng lại bị cậu ta bực bội gạt đi, “cốp” một

tiếng, tay cô va vào tủ đầu giường.

Nghe tiếng cô kêu đau, Đức Anh lập tức có cảm giác như đang bị tạt một

gáo nước lạnh vào đầu, cậu ta chợt bừng tỉnh, vội vã quay người lại: “Anh

sai rồi, anh xin lỗi, trời ơi, sao anh lại làm vậy với em.”

Cảnh Ninh nhịn đau, gượng cười: “Em không sao.”

“Chắc em đau lắm, để anh xem,” cậu ta vươn người định bật đèn bàn, cô lại

ấn tay cậu ta lại: “Bỏ đi, đi ngủ thôi.”

Đức Anh ngơ ngác thu tay lại, rồi dừng lại giữa không trung như không biết

mình nên đặt tay ở đâu, sau đó, cậu ta chợt tát cho mình một bạt tai.

Cảnh Ninh ngồi phắt dậy, cô vô cùng sợ hãi. Thấy cô nhìn, cậu ta lại tát cho

mình thêm một cái, lần này còn mạnh hơn.

Cảnh Ninh co mình ra sau, tuyệt vọng, thất vọng, đau khổ và bất lực, những

cảm xúc phức tạp này đan xen quấn quýt, chèn ép cô tới độ chỉ muốn bật

khóc, nhưng cô gắng gượng kiềm chế, run rẩy thốt: “Anh đừng như vậy.”

“Giờ anh có thể bật đèn nhìn tay em được chưa?” Đức Anh bình tĩnh hỏi.

“Anh bật đi.” Môi cô run rẩy, “Anh muốn làm gì cũng được.”

Đức Anh bật đèn, nhìn kỹ cổ tay cô, mu bàn tay mềm mại trắng nõn đã bị

xước, cậu ta chán nản nói:

“Anh nói một đằng làm một nẻo, anh đã bảo sẽ đối xử tốt với em, vậy mà

cuối cùng lại làm em bị thương.”

Cảnh Ninh hé môi nhưng không thể phát ra âm thanh, cô lo bất cứ tiếng

động nào, bất cứ cử chỉ nào của mình cũng sẽ kích động cậu ta. Hơi lạnh

buổi đêm men theo vách tường, mỗi lúc một giá buốt, một con thiêu thân

bay vòng quanh chiếc đèn bàn. Cô ngồi đó, đầu bù tóc rối, trông thật chật

vật, cô biết rõ cuộc hôn nhân này còn gượng gạo, còn thảm hại hơn cả bộ

dạng của cô lúc này.

Đức Anh ngơ ngác nhìn vết thương trên tay cô, cậu ta không nói năng gì,

đến tận khi tiếng khóc của Tiểu Quai vọng lại từ căn phòng trẻ con cách

vách cậu ta mới sực tỉnh. Thấy Cảnh Ninh định xuống giường, cậu ta ngăn

lại: “Em đừng đi, để anh.” Cậu ta vào phòng tắm chỉnh trang lại thật nhanh

rồi ra ngoài bế con vào. Cảnh Ninh cho con bú sữa, cậu ta tự giác tránh đi,

ra đứng trước cửa sổ, bên ngoài cửa là màn đêm vô tận, nỗi cô độc chói lòa

như ánh trăng, gió thổi lá cây xào xạc, hai thế giới được kết nối bởi ánh

trăng cứ thoắt sáng thoắt tối, như đang bể nát, tan tành.

Cảnh Ninh nhìn bóng lưng cậu ta, nói: “Anh lấy cho em một chiếc khăn

sạch trong giỏ trúc.”

Đức Anh đi lấy một chiếc khăn nhỏ, những chiếc khăn này là của cậu ta

mua cho con. Chất vải rất mềm mại, đều có màu hồng nhạt. Cậu ta mua hai

hộp khăn lớn như vậy để lau mặt, lau nước miếng cho Tiểu Quai. Ai cũng

có thể thấy được tình yêu gần như cố chấp của cậu ta dành cho con gái, cậu

ta cũng trở nên rất sạch sẽ, luôn đích thân giám sát người làm đun sôi bình

sữa của Tiểu Quai lên ba lần, yếm dãi vừa ướt là sẽ thay cái mới ngay.

Cảnh Ninh sửa sang lại quần áo, vươn tay nhận lấy khăn. Đức Anh không

đưa cô, cậu ta cầm một góc khăn cẩn thận lau khuôn miệng và chiếc mũi

mềm mại của Tiểu Quai, Tiểu Quai hài lòng ợ một tiếng, đôi mắt đen nhìn

cậu ta. Đức Anh cảm thấy lòng mình như được sưởi ấm bởi ánh dương.

Đứa bé này thật lòng yêu cậu ta, ỷ lại cậu ta. Chỉ khi đối mặt với đứa bé ấy

cậu ta mới quên mất mình thất bại tới mức nào.

Cậu ta đón lấy đứa trẻ, ôm bé trong lòng mình. Ánh mắt Đức Anh trở nên

ấm áp, cậu ta khẽ đung đưa tay, đến khi bé thoải mái nhắm mắt lại.

“Đi ngủ thôi.” Cậu ta quay đầu, dịu dàng nói.

Cảnh Ninh chậm rãi vươn tay, ôm eo Đức Anh: “Em sẽ sống thật bình yên

với anh, em sẽ làm vậy, tin em đi.”

“Nhưng anh không cần em xót thương anh, anh đã không còn là Từ Đức

Anh của ngày nhỏ nữa rồi,” cậu ta nhắm mắt, đau khổ nói, “anh có lòng tự

trọng, có hoài bão của mình, Ninh Ninh, anh rất yêu em, anh hy vọng em

cũng yêu anh như vậy, như một người vợ yêu chồng của mình.”

Yêu là gì? Cậu ta nói yêu cô, nhưng cô chỉ thầm tự hỏi mình câu này. Cô

từng cho rằng cô đang rất gần với chữ yêu, gần tới mức không có khoảng

cách, đến tận khi cơ thể cô chằng chịt vết thương, cô mới bắt đầu nghi ngờ,

rốt cuộc tình yêu có ý nghĩa gì. Người đàn ông bên cạnh là chồng cô, là cha

của con cô, cô không thể bài xích cậu ta, nhưng mỗi đêm khi cậu ta bước

vào phòng, cô đều không thể kìm lòng mà nghĩ: Cậu ta lại tới rồi, liệu cậu

ta có chạm vào mình không, liệu cậu ta có lại đau khổ như vậy không. Sự

ghét bỏ và sợ hãi, phiền não và đồng cảm như một bầy chim liên tục vỗ

cánh, giày vò cô hằng đêm. Hôn nhân khiến hai người họ phải ngủ bên

nhau, nhưng rốt cuộc vị trí của tình yêu ở đâu?

Cô không biết mình nên trả lời cậu ta ra sao, cô tựa trán lên lưng cậu ta,

chìm sâu vào tĩnh lặng.