Nữ Phụ Không Trộn Lẫn

Chương 95: Tú nương (17)

Vì muốn chứng tỏ bản thân thực sự là người có tiền chứ không phải là kẻ lừa đào ra giá cả lung tung, vị phú thương kinh thành kia liền ở lại cửa hàng Mạnh thị chờ gã sai vặt của mình đưa ngân phiếu đến. Mạnh trọng rót cho hắn một ly trà, một mặt ra vẻ cười nói trò chuyện một mặt lại âm thầm sai người đi hỏi thăm lai lịch của hắn.

Bên ngoài cửa hàng, một số bách tính bình thường đã bắt đầu giải tán. Bọn họ rất ít khi được nhìn thấy những bức tranh thêu khổng lồ như thế này cho nên mới xúm lại đây xem náo nhiệt, nhưng nếu một người níu bọn họ lại hỏi xem rốt cuộc bức tranh thêu này đẹp và độc đáo ở chỗ nào thì chẳng mấy ai trả lời được. Cái gì là phong cách nghệ thuật, cái gì là xu hướng thẩm mỹ, đối với bọn họ mà nói đều là những khái niệm quá mức trừu tượng, hoàn toàn không thể lý giải nổi. Trong mắt bọn họ, bức tranh khổng lồ này chỉ là bức vẽ về hình ảnh tuấn mã, một vài con được thêu bằng sợi tơ màu đen, phảng phất như đang phi nhanh trên đường trong những bức tranh thuỷ mặc, thoạt nhìn rất có khí thế nhưng nhìn kỹ lại cũng chỉ như vậy mà thôi.

Rất nhiều văn nhân mặc khách vẫn còn vây quanh trước cửa hàng thật lâu không có ý định giải tán, trong miệng ngâm nga mấy câu thơ linh tinh “Tuấn cốt thiên kim sản, danh vương ngàn dặm về. Sương khói từ đại mạc, vân điện phó hoàng kỳ…’’ nhìn qua có vẻ thao thao bất tuyệt, vô cùng buồn cười.

“Từ lâu ta đã được nghe nói rằng những bức tranh thêu của Mạnh cô nương hoàn toàn có thể so sánh với tranh của Ngô hoạ thánh*, lúc ấy ta còn tưởng đó chỉ là những lời mỹ từ tán dương có phần phóng đại phô trương, nhưng bây giờ được nhìn thấy mới biết hoá ra là do ta kiến thức hạn hẹp. Kỹ năng thêu thùa của Mạnh cô nương đây có thể nói là tốt nhất đương thời, không ai có thể sánh kịp.” Vị phú thương Kinh thành nhìn những văn nhân mặc khách như si như say ngoài kia một cái, sau đó lại giơ ngón tay cái về phía Mạnh Trọng.

* Ngô hoạ thánh ở đây chỉ Hoạ sĩ Ngô Đạo Tử của đời Đường, ông được vinh danh là “Bách đại họa thánh”.

Mạnh Trọng xua tay mỉm cười, đang định mở miệng nói vài lời khiêm tốn thì lại nghe một trận ồ thật to vang lên ngoài cửa, như thể có chuyện hệ trọng gì đó đã xảy ra, hai người lập tức đi ra ngoài xem xét.

Bởi vì bức tranh thêu của mình được bán ra ngoài với giá cả cao đến gần vạn lượng bạc, lại còn làm rung động nhiều văn nhân mặc khách, cộng thêm nhận được lời đánh giá là tú nương giỏi nhất đương thời, lúc này tâm trạng Mạnh Tư đang rất tốt, vì thế nàng cũng vui vẻ mỉm cười đẩy cửa sổ ra nhìn xem rốt cuộc là ai lại bị bức tranh thêu của mình làm kinh sợ đến thế. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc tiếp theo, toàn bộ biểu cảm trên khuôn mặt nàng hoàn toàn đông cứng lại, sau đó một cảm giác sợ hãi và bất lực không thể kiềm chế được trào dâng từ tận đáy lòng nàng.

Chỉ thấy trước cửa hàng Đạm Yên đối diện cũng treo một bức tranh thêu khổng lồ với chiều rộng vào chiều cao khoảng chừng một trượng, trên nền vải bố màu đen có thêu một con mãnh thú tựa sư phi sư, tựa mã phi mã*, có vảy có bờm, hai mắt giận giữ, rít gào gầm rống. Trong miệng phun ra ngọn lửa cháy hừng hực, bốn chân giẫm lên hoa sen, trên người đều là những sợi lông màu vàng, dáng vẻ diện mạo khiến người khác không dám nhìn gần. Mà ngồi trên lưng con mãnh thú dữ tợn đáng sợ này lại là một vị Bồ Tát khoác trên mình chiếc áo lụa trắng tinh khiết, một tay xoắn cành liễu, một tay cầm bình Ngọc Tịnh, hai mắt hơi khép hờ, khóe miệng khẽ nhếch lên, như cười lại không cười, như khóc lại không khóc, vẻ mặt buồn vui lẫn lộn.

*Tựa sư phi sư, tựa mã phi mã: Vừa giống sư tử lại không giống sư tử, vừa giống ngựa lại không giống ngựa.

“Đây là Quan Âm Đại Sĩ và linh vật kim mao của ngài ấy!’’ Người qua đường ngửa đầu nhìn lên bức tranh thêu, vẻ mặt sợ hãi.

Tất cả mọi người đều bị khuôn mặt sống động như thật của con mãnh thú này dọa cho sợ hãi, chỉ thấy ngọn lửa đỏ rực hừng hực phản chiếu trong đôi mắt đen nhánh của nó như đang tìm kiếm người nào đó để nhai nuốt cắn xé; Miệng lớn ngậm máu đang gầm gào lộ ra những chiếc răng nanh sắc nhọn từng cái từng cái dựng thẳng đứng trông thật đáng sợ; Bộ bờm nơi cổ vừa dày vừa rậm mang đến cảm giác bồng bềnh phiêu đãng tựa như chỉ cần duỗi tay ra là có thể chạm vào cái xúc cảm mềm mại và mịn màng ấy; Bộ vảy bao phủ toàn bộ cơ thể từ một màu đen tinh khiết dần dần trở biến thành màu đỏ đậm, còn có những sợi tơ vàng xen lẫn ở giữa, thấp thoáng toả ra thứ ánh sáng mờ nhạt; Hai màu đỏ vàng này kéo dài cho tấn tận đuôi mới thực sự biến thành ngọn lửa, bốn móng vuốt sắc bén giống như những lưỡi kiếm thép trút giận giẫm đạp lên đóa sen hồng mềm mại, nơi miệng mũi lại rừng rực phun trào lửa khói.

Một con mãnh thú dữ tợn hung hãn tựa như có sức mạnh thể huỷ diệt cả thế giới, chỉ cần liếc mắt nhìn một cái cũng có thể khiến chân người như muốn nhũn ra, tất cả can đảm lập tức biến mất như thế nhưng đang ngồi ngay ngắn trên lưng nó lại là một vị Bồ Tát với tướng mạo điềm tĩnh bình yên, thần thái hiền hoà, chiếc áo cà sa của người bay phấp phới phiêu bồng trong không trung phảng phất như có thể mang đến một làn gió mát rượi dập tắt ngọn lửa hừng hực khắp cơ thể con mãnh thú, khiến những người qua đường sợ đến mức run bần bật này lập tức cảm nhận được cảm giác an toàn. Cái gọi là đại từ đại bi, hàng yêu phục ma có lẽ chính là như vậy chăng?

Bức tranh thêu khổng lồ này được chia làm hai nửa, nửa dưới là mãnh thú, nửa trên là Bồ Tát; Nửa dưới là hung ác, nửa trên là từ bi; Nửa dưới là lửa cháy, nửa trên là gió mát. Hai hình ảnh và phong cách hoàn toàn khác biệt vừa kỳ dị vừa hoàn mỹ được dung hoà vào nhau tạo thành một bức tranh mang màu sắc tươi sáng, phong cách đặc biệt với những đường kim mũi chỉ tinh xảo tuyệt diệu như thần.

“Đây là Quan Âm Đại Sĩ và linh vật kim mao của ngài ấy!’’ Chẳng biết người nào đã run rẩy kêu lên một tiếng, sau đó có một vài tín đồ Phật giáo lập tức thành kính quỳ xuống đất, trong miệng không ngừng lẩm bẩm, vẻ mặt khó có thể kiềm chế được sự kích động của mình.

Trước đó những nhận thức của bọn họ về Quan Âm Đại Sĩ chỉ và linh vật kim mao của ngài ấy chỉ giới hạn ở những bức tượng Phật trong chùa miếu hoặc là những thần thoại xa xưa được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Tướng mạo của quan âm đại sĩ và linh vật của ngài ấy trông như thế nào trên đời này chẳng ai thể biết được. Nhưng bây giờ, nhìn thấy bức tranh thêu này, bọn họ lập tức hiểu được: Hoá ra Quan Âm Đại Sĩ lại từ bi như thế, thánh khiết như thế, hoá ra linh vật kim mao thực sự là do cương thi biến thành, dữ tợn như thế, hung hãn như thế.

Những nhân vật và mãnh thú chỉ tồn tại trong những câu chuyện thần thoại xa xưa ấy dường như đã phá vỡ ranh giới giữa trời đất, thực sự đi vào hiện thực, mang đến bọn họ một sự chấn động không thể nào ngờ đến.

Lại có người sửng sốt bật thốt thành lời: “Có phải Quan Âm Đại Sĩ thực sự sống trong bức tranh này không? Cho dù ta đứng ở chỗ nào thì đôi mắt của ngài ấy đều chăm chú nhìn vào ta, như thể ngài ấy thấy được ta vậy!’’

“Thực sự, thực sự là như thế!’’ Rất nhiều người đều theo sau phụ hoạ. Bọn họ sớm đã phát hiện một thứ ánh sáng mờ nhạt thấp thoáng phản chiếu trong đôi mắt khẽ khép mở của Quan Âm Đại Sĩ, bất kể nhìn từ góc độ nào đi chăng nữa thì tầm mắt của ngài ấy đều đối diện trực tiếp với tầm mắt người xem, thực sự là thần tiên thật rồi!

Các tín đồ quỳ gối ven đường cung kính dập đầu càng lúc càng nhiều, ngay cả những văn nhân mặc khách kia cũng đều im lặng đứng trong góc tường, vẻ mặt nghiêm túc thành tâm. Bọn họ hoàn toàn không dám tuỳ tiện bình luận một bức tranh kỳ diệu và tâm linh như thế, bởi vì con mãnh thú và quan âm đại sĩ trên bức nền vải bố kia thực sự quá mức chân thật, phảng phất như chỉ trong khoảnh khắc tiếp theo sẽ lập tức bay lên không trung, quan sát cuộc sống nơi trần gian.

Đường Chu Tước là một con phố tú phường nổi danh ở phủ Lâm An này, hai bên đường đi tất cả đều là những phường vải và cửa hàng thêu thùa lớn bé, đồng thời cũng tập trung toàn bộ tú nương và thương nhân buôn bán vải óc của phủ Lâm An. Cái gọi là “Người ngoài nghề xem náo nhiệt, người trong nghề xem môn đạo” chính là tất cả mọi người đều hiểu công việc của nhau, dĩ nhiên sẽ nhận ra được bức tranh thêu sống động như thật này thực chất không giống như những gì người ngoài nhìn thấy.

Khuôn mặt sống động như thật của Quan Âm Đại Sĩ, khi đôi mắt khẽ khép lại sẽ tạo thành một số nếp nhăn nhỏ nhỏ ở khoé mắt, lúc khoé miệng nhếch lên, lúm đồng tiền sẽ thấp thoáng xuất hiện hai bên gò má, khiến người ta nhìn vào giống hệt như làn da thực sự. Có thể sử dụng kim chỉ đạt đến trình độ này, ngay cả những tú nương chuyên phụ trách điêu khắc phần mặt người cũng không thể nào làm được; lông bờm kim mao của linh vật bồng bềnh mềm mại, từng cái từng cái rõ ràng tựa như thật, rõ ràng là châm pháp độc đáo mà Tô tú nương sáng tạo đã thất truyền; Trên đỉnh đầu Quan Âm Đại Sĩ mơ hồ phát ra một vầng hào quang, những đường thêu ngay ngắn đều đặn, bóng loáng như gương, chính xác là kỹ thuật rải châm; Linh vật kim mao được bao phủ vảy khắp cả người, kết cấu không đồng đều, màu sắc vô cùng tự nhiên, đây là phương pháp thêu đâm xô và thêu kim tuyến. Ngoài ra, trong đoá hoa sen đang nở rộ và ngọn lửa thiêu đốt hừng hực lần lượt sử dụng các phương pháp sảm (trộn lân) châm, thi châm, toàn (xoay) châm…

Một bức tranh thêu này gần như đã bao quát toàn bộ phương pháp thêu thùa được biết đến trên thế gian này, cách phối hợp vận dụng màu sắc nhuần nhuyễn hài hoà, hình tượng nhân vật sống động như thật, kết cấu bố cục chặt chẽ rõ ràng, nếu phải kể ra tất các các tú nương hay danh họa hàng đầu đương thời cũng không có bất cứ tác phẩm nào của ai có thể sánh được với Lâm Đạm bây giờ. Dưới sự nổi bật của một tác phẩm xuất sắc như thế này, bức tranh tuấn mã đen trắng kia lại có vẻ đơn điệu nhàm chán, bình thường chẳng có gì mới lạ. Mà kỹ năng thêu thùa của Mạnh Tư so với kỹ năng thêu thùa vô cùng tuyệt diệu của Lâm Đạm trông cùng bình thường đến tột cùng.

“Châm pháp thêu lông, châm pháp của Diệp thị… Đếm nhẫm kỹ càng một chút thì có đến ba mươi, bốn mươi loại châm pháp! Ngươi mau nói cho ta biết, có phải ta đã nhìn lầm rồi không?’’ Một vị tú nương giữ chặt người kế bên mình hỏi.

“Ta cũng đang rất mơ hồ! Ta còn tưởng rằng mình đã nhìn lần rồi!’’

“Chúng ta không hề nhìn lần, đó là sự thật?’’ Hai người liếc mắt nhìn nhau, vẻ mặt chấn động.

“Quá tuyệt, thực sự quá tuyệt! Lâm Đại Phúc đã sinh ra một nữ nhi cực kỳ xuất sắc! Với kỹ năng thêu thùa siêu phàm như thế, sớm muộn gì cũng có một ngày Lâm gia có thể khôi phục lại sự cường thịnh ngày xưa!’’ Một vài ông chủ tiệm vải tụ tập chung một chỗ khẽ thì thầm với nhau, trong lòng cũng âm thầm hạ quyết tâm sau này không làm khó Lâm Đạm nữa.

Lúc này Mạnh Tư sớm đã nhìn đến ngây người, một lúc lâu sau mới thất tha thất thiểu chạy xuống lầu, vội vàng đến gần, ngửa đầu nhìn bức tranh thêu kia, sau đó lần lượt phân biệt từng loại châm pháp mà Lâm Đạm đã sử dụng trong tác phẩm của mình, sắc mặt càng lúc càng trắng bệch, cho đến khi hoàn toàn mất đi huyết sắc. Nỗi sợ hãi trong mắt nàng đã hoàn toàn ngưng đọng trên gương mặt, nhìn bức tranh thêu này giống như đang nhìn một ngọn núi cao vời vợi, trong lòng không ngừng trào dâng một cảm giác bất lực khó có thể vượt qua được.

Mạnh Trọng kéo muội muội của mình ra phía sau lưng mình, rất muốn nói mấy câu an ủi nàng hoặc hạ thấp Lâm Đạm vài câu nhưng lúc mở miệng lại phát hiện mình không thể tìm được bất cứ từ ngữ nào. Ngay cả người mù cũng có thể nhìn ra được kỹ năng hội hoạ và tay nghề của Lâm Đạm sớm đã vượt qua Mạnh Tư một khoảng cách khá xa. Lúc Mạnh Tư vẫn còn đang vẽ lại tác phẩm của người khác thì Lâm Đạm đã có thể tự sáng tạo, lúc Mạnh Tư vẫn còn đang mày mò nghiên cứu phương pháp thêu gia truyền của Mạnh gia thì Lâm Đạm đã có thể nhìn thấy những kỹ thuật thêu đã thất truyền từ lâu.

Hai bức tranh thêu được treo đối diện nhau, một bức không người nhìn ngó, một bức lại thu hút đám đông vây xung quanh; Một bức chỉ có những văn nhân mặc khách mới có thể nhìn thấu, một bức lại người người khen không dứt miệng. Rốt cuộc bức nào đẹp hơn bức nào là chuyện còn có thể bàn cãi nữa hay sao?

Nhìn thấy muội muội hai mắt đỏ bừng, dáng vẻ như muốn té xỉu, Mạnh Trọng vô cùng hận chính bản thân mình tại sao lại mang bức tranh của nàng trưng bày ra ngoài. Nếu không mang ra ngoài, muội muội chắc chắn sẽ không phải chịu cú đả kích này, tình cảnh trước mắt có gì khác so với việc công khai xử tội nàng cơ chứ? Tài năng vẽ tranh và thêu thùa của nàng bị người qua đường đem ra so sánh từng cái từng cái một, sau đó bỡn cợt không đúng tí nào. Từ này về sau, nàng còn có thể cầm kim thêu hoa nữa sao? Còn có đủ tự tin ngồi trước giá thêu thêu thùa sao? Còn cửa hàng Mạnh thị không có con át chủ bài là nàng, sẽ phải tiếp tục như thế nào đây?

Trong khoảng thời gian ngắn ngủi, Mạnh Trọng đã suy nghĩ rất nhiều nhưng không đợi hắn làm rõ bất cứ vấn đề nào thì vị phú thương kinh thành trước đó vẫn luôn miệng khen ngợi bức tranh thêu của Mạnh Tư lại cười mỉa nói: “Mạnh lão bản, bức tranh thêu này của cửa hàng ngươi ta không muốn mua nữa, ngươi giữ lại mà dùng đi.’’ Vừa dứt lời đã vọt đến đối diện, cao giọng hô: “Vị chưởng quầy này, ta ra giá 8000 lượng bạc mua bức Quan Âm Đại Sĩ này!’’

Nghe thấy hắn ra giá cả, lúc này tất cả mọi người mới tỉnh táo lại, tiếp đó ầm ĩ hẳn lên. Một tác phẩm phật quang chiếu khắp nơi, linh tính bức người như thế ai mà không muốn mang về nhà mình cơ chứ? Nghe nói những bức họa càng giống thật thì càng có linh tính, đôi mắt của vị Quan Âm Đại Sĩ trong bức tranh thêu này tựa như đang cử động, lông mao run rẩy của linh vật kim mao phía dưới như muốn sống dậy, nếu treo trog nhà thành tâm thành kính cung phụng, đương nhiên có thể tạo ra phúc khí!

Bức tranh tuấn mã kia mua về nhà cũng chỉ có thể bỏ xó, nhưng nếu có thể mua bức tranh này mang về thì đó chính là bảo vật giữ nhà, sau đó truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, càng lúc càng trở nên kỳ diệu! Mua, nhất định phải mua!

Mấy vị phu nhân trước đó chỉ đơn giản là ngồi xem náo nhiệt cũng không thể ngồi yên, đồng loạt chạy đến trước cửa hàng Đạm Yên, liên tục trả giá: “8000 lượng là cái thá gì, ta ra giá một vạn lượng.’’

“Ta một vạn một ngàn lượng!’’

“Ta một vạn hai ngàn lượng!’’

“….”

Đỗ Như Yên trực tiếp nhìn đến choáng váng, Lâm Đạm cũng cầm lòng không đậu xoa xoa lòng bàn tay, cố gắng kiềm chế nội tâm đang kích động của mình.