Đôi môi Tần Nghi Ninh run run, nhìn cửa thành và đường phố quen thuộc này, cảm giác khổ sở và chua xót trong lòng tựa nham thạch tràn khắp toàn thân.
Đây đúng là một nơi lắm tai nạn. Bách tính sinh sống ở nơi này, trừ bị chiến loạn quấy nhiễu thì còn không ngừng bị đủ loại thiên tai vô tình hành hạ.
Chẳng lẽ trời cao thực sự muốn đuổi tận gϊếŧ tuyệt mọi con người nơi đây?
Tuy nàng không ở kinh thành bao lâu, nhưng kể từ khi nhận tổ quy tông, nàng vẫn luôn coi nơi này là quê cũ, khoảng thời gian sinh sống ở đây, tuy ngắn ngủi nhưng lại phong phú sắc màu hơn cả quãng đời mười bốn năm dài trước đó, khiến nàng khắc sâu vào tâm trí.
Vậy nên trong đoàn người, Tần Nghi Ninh chính là người không hy vọng thấy cố đô trở nên như thế này nhất.
Bàng Kiêu ôm vai Tần Nghi Ninh, vỗ vỗ vào tai nàng, quay đầu hạ lệnh: “Chúng ta vào thành, tới nha môn trước.”
“Dạ.”
Trên con đường vốn bằng phẳng rộng rãi tự dưng xuất hiện một cái hố sâu, nhà cửa hai bên đường phần lớn đã thành tường nghiêng mái đổ.
Trên đường ngập ngụa mùi tử khí, trong không khí lẩn quẩn mùi vôi gai mũi, mùi khét chưa tan hết sau khi đốt thi thể và mùi hôi thối từ những xác chết chưa kịp xử lý.
Hiện đã là tháng Bảy, cố đô lại ở phương Nam, trong thời tiết thế này, chẳng bao lâu những thi thế vùi trong đống đổ nát sẽ phát ra mùi hôi thối khó có thể tưởng tượng.
Ấy thế mà trong hoàn cảnh ác liệt đến vậy, khắp bốn phía con đường đều đầy rẫy những lều lán xập xệ do bách tính dựng lên. Tất nhiên cũng có những nhà cửa không việc gì, nhiều lắm chỉ là tường nứt thành khe hở, tổng thể vẫn nhìn ra được hình dáng ban đầu. Thì dù sao cũng là nhà của những hộ danh gia giàu có.
Những sân viện còn nguyên vẹn kia, khi xây dựng và chọn lựa nguyên liệu đều được để tâm làm vô cùng cẩn thận. Còn dân chúng bình thường thì phần lớn chỉ ở nhà tranh vách đất, làm sao chịu được sức tàn phá của chuỗi động đất liên tục cỡ này?
Cả đoạn đường Tần Nghi Ninh vẫn luôn cau mày. Những con đường hoặc xa lạ hoặc quen thuộc kia, bây giờ tất cả đã thành một vùng đổ nát.
Bàng Kiêu biết nỗi khổ trong lòng nàng, dù sao nơi này cũng là quê cũ của nàng, bất giác ôm chặt vai nàng, vòng kín nàng trong ngực.
Mà trên đường họ đi tới “Thuận Thiên Phủ” khi xưa, hiện là “Nha môn Tri phủ kinh đô cũ”, tất cả những bách tính trông thấy họ thậm chí đều đã đói tới không còn sức để ngước mí mắt lên nhìn.
Họ thực sự đã quá đói.
Nguồn cung trong thành không đủ, con đường thông từ ngoài vào thành lại bế tắc, lương thực trong thành có hạn, những cửa tiệm còn tồn trữ lương thực đều đóng cửa không chịu bán, dù họ có tiền cũng không mua nổi gạo.
Mà cứu viện của triều đình thì vẫn chưa tới.
Họ là người Đại Yên đầu hàng Đại Chu, rất khó có cảm giác mình là người của Đại Chu.
Mà bây giờ, triều Đại Chu quả cũng hệt như họ suy đoán, lúc nguy nan chẳng thèm nhớ tới những dân chúng này. Cũng như Hoàng đế triều Yên khi xưa, không bao giờ để tâm tới sống chết của dân chúng.
Thế nên đổi một bầu trời thì có thể làm gì? Nên bị vứt bỏ thì vẫn bị vứt bỏ.
Dọc theo con đường này, nhìn thấy những người dân da mặt vàng vọt hai bên đường, ấn đường Bàng Kiêu đã lún vào mấy nếp nhăn.
“Lưu tẩu tử, Lưu tẩu tử.”
Đúng lúc ấy, ven đường bỗng truyền tới một hồi tiếng khóc yếu ớt.
Mọi người theo tiếng nhìn lại, thấy mấy nạn dân đang xông về một con hẻm nhỏ ở góc phố.
Trong hẻm, một người phụ nữ gầy chỉ còn da bọc xương dùng dây lưng treo cổ trên một nhánh cây to khỏe đã nghiêng đổ, đôi chân trần và ống quần rách rưới lắc lư dưới bóng cây xanh, dưới chân là mấy khối gạch đá tung tóe tán lạc.
Tần Nghi Ninh hét lên một tiếng kinh hãi, bịt chặt miệng.
Bàng Kiêu cũng lập tức bịt tay che kín hai mắt nàng.
Hổ Tử vội vàng chạy tới hỏi chuyện, không lâu sau ủ rũ trở về, nhỏ giọng nói trong những tiếng khóc không ra hơi của đám nạn dân đằng kia:
“Người phụ nữ kia là quả phụ, chồng đã chết đói trong nạn đói năm ngoái, động đất tới, con trai và mẹ đều bị chôn trong căn nhà cũ, chỉ nàng do làm người hầu cho một gia đình giàu có mới may mắn thoát nạn. Nhưng giờ gia đình kia không nuôi nổi người hầu nên đuổi hết đi, vốn nàng ta đã không còn hy vọng sống, lại phải chịu đói như vậy nhiều ngày, trong lúc tuyệt vọng liền…”
Bàng Kiêu cau mày gật đầu: “Biết rồi. Đi thôi.”
Đoàn người tiếp tục tiến lên, bỏ những tiếng khóc yếu ớt kia lại đằng xa.
Nhưng trong thành thì có ở đâu thiếu những thảm kịch như thế?
Tường nha môn Tri phủ cũng bị động đất làm sụp một khoảng, rõ ràng là đã được sửa lại.
Cổng lớn nha môn khóa chặt, Bàng Kiêu liền cho người lên gõ cửa.
Bên trong có tiếng người uể oải đáp, biết có người đến, còn là quan Khâm sai thì vội vội vàng vàng dốc sức mở cửa.
Mấy người đàn ông sắc mặt trắng bệch sốt sắng nhìn ra sau lưng Bàng Kiêu, nhưng chỉ thấy một chiếc xe ngựa và ngựa đi không, không thấy lương thảo.
Trong mắt họ thoáng qua vẻ thất vọng nhưng vẫn cung kính mời người vào, lại cẩn thận đóng kỹ cửa.
Quan viên Lý Khải Thiên điều tới cố đô họ Củng tên Ưu, tự Trọng Đường, tuổi tác bốn mươi, là Tiến sĩ triều Bắc Ký, vẫn luôn được Lý Khải Thiên trọng dụng, phong làm Tri phủ cố đô, quản lý mấy huyện thành quanh đấy.
Thấy đoàn người Bàng Kiêu tới, Củng Ưu vội vàng ra hành lễ đón.
Song phương khách sáo một hồi thì tiến vào tiền thính.
Củng Ưu hỏi thẳng vào vấn đề: “Lần này tới, Vương gia có mang theo lương thảo?”
Bàng Kiêu cười khổ thở dài, lại không tiện nói thẳng là Lý Khải Thiên không đưa lương, hết cách đành bảo: “Bản vương lo lắng tình hình hiện nên tới trước, bộ Hộ chuẩn bị lương thảo hẳn sẽ đến sau.”
Củng Ưu không nghi ngờ, thở dài bảo: “Dọc đường chắc là không dễ đi?”
Nếu không cũng sẽ không đi lâu như vậy.
Bàng Kiêu nghe hiểu ý hắn, nụ cười càng cay đắng hơn: “Bản vương cũng chỉ được điều đại tới do thiếu người, lúc trước Thánh thượng đã định Khâm sai tới cứu nạn là Yên Quận vương, ai ngờ giữa đường Yên Quận vương lại mưu phản chạy trốn. Vì chuyện này nên mới trì hoãn ít ngày, sau Thánh thượng phong bản vương thành đại sứ tới cứu nạn, thay thế nhiệm vụ của Yên Quận vương.”
“Ra là như thế!” Lần này Củng Ưu đã hoàn toàn hiểu hết, “Yên Quận vương kia cũng thật quá mức vong ân phụ nghĩa, Thánh thượng trọng dụng và tin tưởng như vậy, nghĩ dù sao hắn cũng quen thuộc nơi này mới cho hắn tới, mục đích chỉ vì sự an ổn của dân chúng. Thế mà hắn thì hay rồi, lại dám nửa đường chạy trốn.”
Thấy Củng Ưu như vậy, Bàng Kiêu biết ngay hắn là người thẳng thắn, nhiệt huyết và chính trực. Hợp tác đi lại với người này, khéo sao cũng là việc hắn thích. w●ebtruy●enonlin●e●com
“Thôi, đừng nhắc tới hắn nữa.” Bàng Kiêu thở dài, lại hỏi: “Tình hình trong thành thế nào rồi? Bản vương đi tới đây, cả đường cũng không nhìn thấy trạm dịch phát cháo nào?”
Củng Ưu lắc đầu cười khổ, ảo não nói: “Vương gia có chỗ không biết. Đại Yên này đã bị móc rỗng từ lâu, sau nạn đói năm ngoái, bách tính đã vơi mất sáu phần, sáu phần đấy!”
Củng Ưu buồn bã ra dấu bằng ngón cái và ngón út tay phải: “Đại Yên mất nước thật không oan chút nào! Cẩu hôn quân không bản lĩnh, làm hại bách tính lang thang lưu lạc. Thật không dám giấu giếm, khi bản quan được cắt cử tới là vào mùa đông năm ngoái, mùa đông ấy, cả thành đều là một tòa thành chết! Không bùng nổ ôn dịch quy mô lớn đã là may phước ba đời.”
“Ai ngờ chỉ còn bốn phần người mà sang năm đã gặp ngay động đất. Lần này còn không biết có bao nhiêu người chết đây.”