Đại Tạng Kinh

Chương 28: Kinh Pháp Tập Yếu Tụng ♦ Quyển 1

«

☸ PHẨM 1: VÔ THƯỜNG☸ PHẨM 2: ÁI DỤC☸ PHẨM 3: THAM DỤC☸ PHẨM 4: BUÔNG LUNG☸ PHẨM 5: YÊU THƯƠNG☸ PHẨM 6: TRÌ GIỚI☸ PHẨM 7: TU THIỆN☸ PHẨM 8: LỜI NÓI☸ PHẨM 9: HÀNH NGHIỆP☸ PHẨM 10: CHÍNH TÍN☸ PHẨM 11: ĐẠO NHÂN

Kinh Pháp Tập Yếu Tụng ♦ Quyển 1

☸ PHẨM 1: VÔ THƯỜNG

[1]

Khéo giác ngộ phiền não

Nên khởi lòng hoan hỷ

Nay nghe Ta soạn tập

Pháp tụng Phật tuyên nói

[2]

Như thế Phật Thế Tôn

Bậc thầy Nhất Thiết Trí

Từ bi vì hữu tình

Rộng nói lời chân thật

[3]

Tất cả hành vô thường

Đều là pháp hưng suy

Có sinh ắt phải tử

Tịch diệt an vui nhất

[4]

Như khi đuốc bốc cháy

Soi sáng nơi tăm tối

Đuốc tuệ không thắp sáng

Luôn bị phiền não che

[5]

Thân người như vật chứa

Phân tán khắp các nơi

Xương màu như bồ câu

Hãy nhìn có gì vui?

[6]

Ví như ở đầu đêm

Thần thức vào thai mẹ

Ngày ngày muôn biến đổi

Đã qua không trở lại

[7]

Sáng sớm thấy việc tốt

Tối đến chẳng thấy nữa

Hôm qua còn thấy họ

Chiều nay biết còn không

[8]

Vinh hoa cháy hừng hực

Vô thường đến bất chợt

Chẳng kể sang với hèn

Luôn bị tử thần rượt

[9]

Hoặc chết trong thai mẹ

Hoặc chết lúc chào đời

Cường tráng cũng chẳng thoát

Già nua cam tâm thọ

[10]

Dẫu già hay trẻ thơ

Cùng với người trung niên

Luôn bị chết đến nhiễu

Làm sao chẳng kinh sợ?

[11]

Mạng như quả tự chín

Luôn sợ bị rụng xuống

Có sinh ắt phải chết

Ai nào thoát miễn đâu?

[12]

Ví như người thợ gốm

Trộn đất nắn làm đồ

Chúng thảy rồi vỡ nát

Mạng sống cũng như vậy

[13]

Như người khảy đàn cầm

Vang ra muôn diệu âm

Dây đứt im bặt tiếng

Mạng sống cũng như vậy

[14]

Ví như kẻ tử tù

Siết lôi đến đô thị

Vùng vẫy liền bị gϊếŧ

Mạng sống cũng như vậy

[15]

Như nước sông chảy xiết

Trôi xuôi chẳng ngược dòng

Đời người cũng như thế

Qua rồi không trở lại

[16]

Các hoạn tụ làm thân

Sinh ra lắm khổ não

Đời người cũng như thế

Già chết luôn chực chờ

[17]

Bỏ ra bao công sức

Suốt đời mới đạt được

Như gậy đánh trên nước

Tạm hé rồi khép lại

[18]

Như người cầm roi trông

Chăn bò cho ăn cỏ

Già chết cũng như thế

Nuôi lớn rồi cướp đi

[19]

Phàm ai muốn lập đức

Ngày đêm chớ buông lung

Đã được làm thân người

Nhất tâm nghĩ vô thường

[20]

Đêm dài ai mất ngủ

Đường dài ai mệt mỏi

Ngu mê luân hồi mãi

Chẳng biết Phật Chính Pháp

[21]

Có tiền có con cái

Kẻ ngu mãi lo toan

Cả ta chẳng phải ta

Huống nữa tiền và con?

[22]

Trăm nghìn chẳng được một

Hào quý bất cứ ai

Tích trữ chứa tài sản

Không gì chẳng suy tàn

[23]

Giàu không phải thánh tài

Luôn bị vô thường truy

Ví như kẻ mù lòa

Chẳng thể tự quán sát

[24]

Tụ hội rồi ly tan

Cao vót sẽ phải rơi

Hễ sinh đều phải chết

Hữu tình cũng như thế

[25]

Làm ác đọa địa ngục

Làm thiện sinh lên trời

Nếu ai khéo tu thiện

Lậu tận đắc tịch diệt

[26]

Chư Phật cùng Bồ-tát

Duyên Giác và Thanh Văn

Còn xả thân hữu vi

Huống chi các hữu tình

[27]

Vào biển trú hư không

Dẫu vào tận hang núi

Chẳng có một nơi nào

Thoát miễn khỏi phải chết

[28]

Dẫu là đời hiện tại

Quá khứ cùng vị lai

Tất cả pháp hữu vi

Cuối cùng đều tận diệt

[29]

Người trí lìa trói buộc

Chính niệm luôn quán sát

Tư duy Đạo vô lậu

Đó là bậc chân trí

[30]

Tù nhân bị siết trói

Muốn thoát nhưng vô ích

Cũng như cỗ xe cũ

Không lâu sẽ mục nát

[31]

Sắc mạo thành già nua

Tham luyến ngục gia đình

Chẳng hay cái chết đến

Kẻ ngu nào hiểu thấu

[32]

Dẫu sống đến trăm tuổi

Cũng bị chết bám theo

Già bệnh mãi áp bức

Hoạn nạn đến đời sau

[33]

Già suy quấn siết thân

Ngày đêm chịu lắm khổ

Đắng cay có nghìn thứ

Như cá vào tro lửa

[34]

Dòng sông chẳng tạm đình

Chảy xiết không trở lại

Dẫu yêu thân mủ dơ

Nhưng nó chẳng ở mãi

[35]

Bốn đại tụ làm thân

Vô thường chẳng dài lâu

Khi đất phân rã nó

Thức lìa còn dùng chi?

[36]

Thân này lắm phiền não

Mủ dơ luôn bệnh hoạn

Ngu mê yêu giữ mãi

Mà chẳng cầu tịch diệt

[37]

Năm này tuy còn đó

Đông hạ chẳng dừng lâu

Phàm phu tham dục lạc

Trong đó chẳng kinh sợ

[38]

Cha mẹ cùng anh em

Vợ con và quyến thuộc

Vô thường đến dắt đi

Không ai có thể cứu

[39]

Như thế các hữu tình

Động niệm tham vinh hoa

Vô thường già bệnh siết

Chẳng hiểu sinh khổ não

[40]

Cạo tóc làm Bhikṣu [bíc su]

Hãy nên tu Chỉ Quán

Ma vương chẳng thể dò

Liễu sinh qua bờ kia

☸ PHẨM 2: ÁI DỤC

[1]

Nguồn gốc của tham dục

Là do vọng tưởng sinh

Nếu tâm chẳng nghĩ tưởng

Ái dục sẽ không sinh

[2]

Do dục sinh phiền não

Do dục sinh sợ hãi

Lìa dục được giải thoát

Không sợ chẳng não phiền

[3]

Do ái sinh phiền não

Do ái sinh sợ hãi

Lìa ái được giải thoát

Không sợ chẳng não phiền

[4]

Quả trước ngọt, sau đắng

Ái dục cũng như thế

Sau chịu khổ địa ngục

Nung nướng vô số kiếp

[5]

Ngu mê tham ái dục

Thương luyến vợ với con

Trói buộc bởi ái nhiễm

Kiên cố khó lìa xa

[6]

Thánh hiền lìa ái dục

Trang nghiêm hàng quyến thuộc

Rời xa vợ với con

Tâm định khéo lợi ích

[7]

Tham dục khó giải thoát

Lìa dục chân xuất gia

Không ham thọ khoái lạc

Bậc trí chẳng tham muốn

[8]

Người thế gian tham dục

Mọi thứ chẳng tư duy

Nếu ai khéo điều phục

Đó mới là lìa dục

[9]

Nếu ai luôn tham dục

Trói buộc khó giải thoát

Duy tuệ khéo phân biệt

Đoạn phiền não chẳng sinh

[10]

Chính niệm luôn hưng khởi

Tịch tĩnh ác dễ trừ

Tự chế bằng giới Pháp

Không phạm thiện tăng trưởng

[11]

Ai luôn tham ái dục

Sẽ cùng với kẻ ngu

Niệm định chẳng buông lung

Thứ tự được vô lậu

[12]

Một niệm tu Chỉ Quán

Khéo lìa các tội cấu

Ngã mạn tự tiêu trừ

Giải thoát được an lạc

[13]

Nếu ai chẳng đoạn dục

Như da chạm lửa cháy

Thiêu rụi chỉ một niệm

Thọ tội vô số kiếp

[14]

Bhikṣu phòng dục lạc

Buông lung lắm ưu sầu

Nếu lìa xa ái dục

Chính niệm thọ an vui

[15]

Không chán sao biết đủ?

Không đủ sao có lạc?

Không lạc sao có ái?

Có ái sao có lạc?

[16]

Tịch tĩnh trí đầy đủ

Tăng trưởng Đạo vô lậu

Tham ái không biết chán

Phi pháp phải chết yểu

[17]

Thấy sắc tâm mê muội

Vô thường không tư duy

Kẻ ngu cho tốt đẹp

Nào biết đó chẳng thật

[18]

Kẻ ngu trói bởi tham

Chẳng mong qua bờ kia

Do tham tài với ái

Hại người cũng hại mình

[19]

Vui sướиɠ ở thế gian

Vui đó rất ít ỏi

Nếu so với trên trời

Kém xa nghìn vạn lần

[20]

Núi non biến thành vàng

Nhiều như núi Thiết Vi

Không thỏa kẻ tham lam

Chính giác mới hiểu thông

[21]

Khổ báo của thế gian

Đều do bởi tham dục

Người trí khéo điều phục

Hãy nên học như thế

☸ PHẨM 3: THAM DỤC

[1]

Tham lam khéo hiển hiện

Hữu tình có nghi lo

Nếu lại tăng ý tham

Trói buộc càng kiên cố

[2]

Lìa tham khéo quán sát

Hết lo hết hoài nghi

Xả bỏ tham ái kia

Siết trói tự giải trừ

[3]

Lưới dục tự quấn lấy

Lọng ái tự phủ che

Phóng túng siết ở ngục

Như cá vào miệng rọ

Già chết luôn đến bức

Như nghé thèm sữa mẹ

[4]

Ai buông lung tham dục

Như vượn gặp cây quả

Ý tham càng kiên cố

Đi rồi lại quay về

[5]

Người bị ái thấm ướt

Tư tưởng càng lan xa

Ái dục sâu không đáy

Già chết chỉ tăng thêm

[6]

Tham dục sinh nói dối

Tham dục sinh keo kiệt

Nếu dùng trí phân biệt

Chính quán được an vui

[7]

Do tham thọ sinh tử

Rong ruổi thích dục lạc

Chúng sinh không mắt tuệ

Chẳng thể tự quán sát

[8]

Ngu mê chấp tham dục

Trầm luân sao biết rõ?

Thoáng chốc mà tu hành

Ma vương chẳng thể dò

[9]

Tham dục khó buông xả

Như nghé thương luyến mẹ

Lìa tham thoát trầm luân

Lìa tham được giải thoát

[10]

Do tham tăng tranh cãi

Do ái tăng hủy báng

Bhikṣu tu Chỉ Quán

Chứng đắc Đạo tịch diệt

[11]

Ý tham như ruộng tốt

Gặp gió mưa nhanh lớn

Tham ái nếu lìa xa

Phiền não chẳng thể xâm

[12]

Tham dục nếu ít ỏi

Như nước rớt trên sen

Phiền não kia dễ trừ

Mới xưng là bậc trí

[13]

Chặt cây không chặt rễ

Dẫu chặt vẫn mọc lên

Đoạn tham không tận gốc

Dẫu diệt vẫn còn sinh

[14]

Tham dục như trồng ruộng

Chăm bón trừ tập uế

Mầm ái nếu chẳng nhổ

Quả lành sẽ không bền

[15]

Tâm tham và tâm ái

Phân biệt gốc chẳng hai

Làm ác đều chịu khổ

Sao tâm không sám hối?

[16]

Tính tham làm hạt giống

Tính ái thọ bào thai

Hữu tình nhớ chẳng ngừng

Đến đi khó rời xa

[17]

Chư thiên và loài người

Nương ái mà lưu trụ

Ái đến, siết trói theo

Một niệm cũng chẳng dừng

Qua rồi sinh lo sầu

Vào ngục mới tự biết

[18]

Duyên ái chảy không dừng

Năm căn lưới dục che

Cành lá thêm đói khát

Ái khổ luôn mãi tăng

[19]

Như tự làm mũi tên

Quay lại hại thân họ

Tên tâm cũng như thế

Tên ái hại hữu tình

[20]

Như thế ai khéo biết

Ái khổ cùng ba cõi

Vô dục không nghĩ tưởng

Bhikṣu vượt thế gian

[21]

Như thế ai khéo biết

Ái khổ cùng ba cõi

Vô dục không nghĩ tưởng

Bhikṣu ý chuyên niệm

☸ PHẨM 4: BUÔNG LUNG

[1]

Giới là Đạo cam lộ

Buông lung là tử lộ

Không tham sẽ bất tử

Mất Đạo sẽ tự diệt

[2]

Người trí hành thắng Đạo

Vĩnh viễn chẳng buông lung

Hoan hỷ do không tham

Pháp lạc từ đây sinh

[3]

Tư duy luôn niệm Đạo

Dũng mãnh tu chính hạnh

Trượng phu vượt thế gian

Cát tường không gì hơn

[4]

Buông lung luôn tự cấm

Khéo trừ làm thánh hiền

Đã thăng lầu trí tuệ

Bỏ nguy liền được an

[5]

Người trí nhìn kẻ ngu

Như núi so với đất

Chính niệm lìa kiêu mạn

Bậc trí tu minh tuệ

[6]

Tinh tấn không buông lung

Chế phục tự điều tâm

Trí tuệ sinh định minh

Hố thẳm chẳng còn rơi

[7]

Chính niệm luôn hưng khởi

Thanh tịnh ác dễ diệt

Y Pháp tự chế phục

Không phạm tiếng thơm vang

[8]

Chuyên ý chớ buông lung

Hành trì giới của Phật

Vĩnh không ưu sầu khổ

Loạn niệm tất dừng nghỉ

[9]

Không gần pháp hữu lậu

Không cùng với buông lung

Không trồng gốc tà kiến

Không làm ác trên đời

[10]

Chính kiến tăng thượng Đạo

Dùng trí quán thế gian

Trải qua trăm nghìn đời

Vĩnh không đọa địa ngục

[11]

Người buông lung tu tập

Như kẻ ngu hội họp

Chính quán không tán loạn

Như tài chủ hộ báu

[12]

Chớ tham chớ đua tranh

Cũng đừng ham dục lạc

Tâm ý chẳng buông lung

Mới được an vui lớn

[13]

Tâm ý không phóng túng

Lậu tận được ý giải

Ma thừa lúc buông lung

Như sư tử vồ nai

[14]

Buông lung có bốn việc:

Vợ người thích xâm phạm,

Gặp họa chẳng phúc lợi,

Bị chê, dâʍ ɖu͙© tăng

[15]

Không phúc lợi đọa ác

Sợ ác sợ chút lạc

Gian da^ʍ luật trừng phạt

Khi chết đọa địa ngục

[16]

Bổn tính không tự tạo

Sáu căn không tự làm

Chẳng lo con đường tà

Kẻ ngu dốc sức cầu

[17]

Người trí như đèn sáng

Kẻ ngu nhờ đó thấy

Học rộng dẫn người đời

Như sáng dẫn kẻ mù

[18]

Nếu việc làm chẳng lành

Như kẻ không mắt kia

Bước trên đường gian nan

Hiểm lộ đầy kinh hoàng

[19]

Pháp lành nếu tăng trưởng

Chúng ma không cơ hội

Lậu tận chứng tịch diệt

Mới được quả chân thật

[20]

Pháp ác nếu tăng trưởng

Chúng ma luôn thừa cơ

Đánh mất Đạo tịch diệt

Thọ khổ vô cùng tận

[21]

Gọi là bậc trì Pháp

Không phải đọc tụng nhiều

Dẫu chỉ nghe ít thôi

Y Pháp thân hành trì

[22]

Dẫu tụng nhiều Kinh điển

Buông lung chẳng y Pháp

Như kẻ đếm bò người

Khó được Quả Đạo Nhân

[23]

Nếu nghe ác mà nhẫn

Phụng Pháp người tán dương

Tiêu trừ tham sân si

Kia được Quả Đạo Nhân

[24]

Ngợi khen ai tinh cần

Chê trách ai buông lung

Luôn được phúc trời người

Tối thượng thù thắng nhất

[25]

Nếu ai chẳng buông lung

Bậc trí luôn ngợi khen

Việc làm thiện tăng trưởng

Khéo sinh các Pháp lành

[26]

Nếu ai cứ buông lung

Việc làm chẳng lợi ích

Sáu căn an bất động

Mới gọi là bậc trí

[27]

Bhikṣu hãy cẩn thận

Buông lung lắm ưu phiền

Khéo thoát nạn bể sâu

Như voi ra khỏi bùn

[28]

Bhikṣu hãy cẩn thận

Buông lung lắm ưu phiền

Rũ bỏ các pháp ác

Như gió thổi lá rơi

[29]

Bhikṣu hãy cẩn thận

Buông lung lắm ưu phiền

Kết sử siết trói buộc

Như lửa đốt củi khô

[30]

Bhikṣu hãy cẩn thận

Buông lung lắm ưu phiền

Học Pháp theo thứ tự

Tận trừ các kết sử

[31]

Bhikṣu hãy cẩn thận

Buông lung lắm ưu phiền

Giải nghĩa phân biệt câu

Tịch tĩnh mãi an bình

[32]

Bhikṣu hãy cẩn thận

Buông lung lắm ưu phiền

Phiền não nếu tiêu trừ

Được tịch diệt an vui

[33]

Buông lung chẳng dấy khởi

Pháp lành hãy nên tu

Đời này đến đời sau

Hành Pháp được an vui

[34]

Buông lung chẳng dấy khởi

Phiền não tự điều phục

Pháp lành siêng tu học

Nhất định được tịch diệt

[35]

Buông lung mà tăng trưởng

Một niệm chẳng tạm dừng

Mạng chung đọa địa ngục

Một niệm cũng chẳng dừng

[36]

Lãng quên và buông lung

Uy nghi cũng chẳng giữ

Ham ngủ không tương ứng

Việc ấy sẽ chướng ngại

[37]

Luôn tránh những điều xấu

Chẳng để chúng phá hoại

Do tâm luôn điều phục

Trần cấu được tiêu trừ

[38]

Bhikṣu hãy cẩn thận

Trì giới chớ phá hoại

Tâm mình khéo thủ hộ

Đời này và đời sau

[39]

Bhikṣu chớ buông lung

Xuất gia vâng lời Phật

Khổ hạnh nhớ vô thường

Như voi rời hồ sen

[40]

Y Pháp luật tạng này

Chẳng để tâm buông lung

Tiêu diệt vòng sinh tử

Khổ não vĩnh dứt trừ

☸ PHẨM 5: YÊU THƯƠNG

[1]

Yêu thương sinh âu lo

Yêu thương sinh sợ hãi

Yêu thương nếu chẳng có

Lo sợ làm sao sinh?

[2]

Do ái sinh âu lo

Do ái sinh sợ hãi

Niệm ái nếu lìa xa

Liền bỏ ý cuồng mê

[3]

Phàm phu luôn ưu sầu

Cuộc đời lắm đắng cay

Đều do niệm ái ân

Vô niệm sẽ chẳng lo

[4]

Cho nên chớ khởi niệm

Bởi niệm tăng thêm ác

Siết buộc ai đã trừ

Vô niệm niệm chẳng sinh

[5]

Chính niệm vì phương tiện

Phi nghĩa không hiển quyền

Quyền tuệ vào đại nghĩa

Tự thành đệ nhất tôn

[6]

Không nên vướng yêu thương

Cũng đừng có oán ghét

Thương chẳng gặp thì lo

Ghét thấy nhau lại sầu

Ở trong nỗi sầu lo

Tiêu diệt các căn lành

[7]

Niệm ái đến đời sau

Bạn bè và thân quyến

Đêm dài sầu lo nghĩ

Biệt ly khổ lắm thay

[8]

Nhớ tưởng hình sắc đẹp

Chư thiên sống cõi kia

Vui sướиɠ rồi cũng hết

Lại bị tử thần truy

[9]

Nếu ai ngày lẫn đêm

Tiêu diệt niệm ái sắc

Tự nhổ tận gốc sâu

Không đi con đường chết

[10]

Bất thiện bảo rằng thiện

Ái dục bảo chẳng ái

Nếu ai chấp trước sắc

Họ bị buông lung sai

[11]

Ai nghĩ về dục lạc

Nhưng không muốn cùng ác

Điều ấy khó đạt được

Dục lạc là gốc ác

[12]

Ai muốn hộ ý niệm

Khéo nên tự thủ hộ

Ví như giữ thành lũy

Hào sâu tường kiên cố

[13]

Ai muốn hộ ý niệm

Ẩn tàng vẫn kiên cố

Ví như phòng vệ thành

Trong ngoài đều kiên cố

[14]

Hãy tự khéo phòng hộ

Về sau khỏi hối tiếc

Xao lãng sinh ưu sầu

Thoáng chốc đọa địa ngục

[15]

Đi tìm khắp mọi nơi

Không có một ai nào

Không thương bản thân họ

Xem mình như mạng họ

Bởi thế chớ hại người

[16]

Tất cả đều sợ chết

Chẳng ai không sợ đau

Lấy mình làm thí dụ

Chớ đánh chớ gϊếŧ hại

[17]

Như người đi rất lâu

Từ xa về bình an

Quyến thuộc ra chào đón

Niềm nở mừng trở về

[18]

Ai khéo tu phúc đức

Từ đây đến nơi kia

Tự mình thọ phúc lạc

Như quyến thuộc đến mừng

[19]

Tu tập theo Thánh giáo

Ngăn trừ điều bất thiện

Kính mến ai gần Đạo

Chớ thân ai xa Đạo

[20]

Chính Đạo gần với xa

Chỗ trụ có khác nhau

Gần Đạo sinh lên trời

Xa Đạo đọa địa ngục

[21]

Trì Pháp, giới thành tựu

Thành tín thích tu tập

Ai khéo tự giữ giới

Được người kính mến thương

[22]

Sở dĩ người kính mến

Đều do bởi việc lành

Đời này được tiếng thơm

Đời sau sinh lên trời

[23]

Giáo Pháp luôn phụng trì

Đình chỉ việc phi pháp

Người thiện hãy nhớ đến

Kẻ ác phải tránh xa

[24]

Người thiện và kẻ ác

Cả hai có gì khác?

Người thiện sinh lên trời

Kẻ ác đọa địa ngục

☸ PHẨM 6: TRÌ GIỚI

[1]

Bậc trí khéo hộ giới

Sẽ được ba phúc báo

Lợi lành tiếng thơm vang

Mạng chung sinh lên trời

[2]

Nên thấy người trì giới

Hộ giới trí tuệ sinh

Thành tựu chính tri kiến

Họ được an vui lành

[3]

Trì giới được an lạc

Khiến thân chẳng não phiền

Đêm nằm điềm tĩnh yên

Thức dậy thường an vui

[4]

Giới luôn mang an vui

Giữ giới sẽ bình an

Tuệ minh người quý nhất

Phúc đức chẳng thể cướp

[5]

Điều gì là cực thiện?

Tu gì được an lạc?

Thứ gì trân quý nhất?

Cái gì chẳng thể đoạt?

[6]

Giới hạnh là cực thiện

Trì giới được an lạc

Trí tuệ trân quý nhất

Phúc đức chẳng thể đoạt

[7]

Giữ giới hành bố thí

Tu phúc tích phúc điền

Từ đó qua bờ kia

Thường đến nơi an vui

[8]

Bhikṣu lập giới đức

Thủ hộ nhϊếp các căn

Ăn uống biết chừng mực

Ngủ thức ý tương ứng

[9]

Tâm ý luôn tỉnh giác

Sáng tối siêng tu học

Lậu tận ý giải thoát

Sẽ đắc Đạo tịch diệt

[10]

Người trí giữ giới cấm

Chuyên tâm tu trí tuệ

Bhikṣu không nhiệt não

Trừ sạch mọi khổ đau

[11]

Dùng giới hàng phục tâm

Thủ hộ chính định ý

Nhất tâm tu Chỉ Quán

Không quên là chính trí

[12]

Trừ sạch các tội cấu

Nhổ tận chớ sinh nghi

Trọn đời cầu giới Pháp

Thánh niệm chớ lìa xa

[13]

Giới định tuệ giải thoát

Phải nên khéo quán sát

Trần cấu đều đã lìa

Diệt trừ họa ba cõi

[14]

Giải thoát mọi ràng buộc

Si mê diệt trừ sạch

Vượt khỏi các cảnh ma

Chiếu sáng như mặt trời

[15]

Ngã mạn với cuồng mê

Bhikṣu phải xa lánh

Tu hành giới định tuệ

Tinh cần chớ lìa xa

[16]

Đã chẳng tự buông lung

Hữu lậu chớ nhớ nghĩ

Cho nên xả uẩn cái

Như thế không chướng ngại

[17]

Bhikṣu giữ giới cấm

Ai luôn học như thế

Tiến thẳng vào tịch diệt

Nhanh được tâm thanh tịnh

[18]

Hoa hương chẳng ngược gió

Phù dung với hương đàn

Đức hương ngược làn gió

Hiền đức hương tỏa khắp

[19]

Hương mộc và hương đàn

Cùng hương hoa sen xanh

Tuy ngửi thật ngát thơm

Không bằng giới đức hương

[20]

Nếu ai siêng trì giới

Thanh tịnh chẳng buông lung

Chính trí được giải thoát

Đó là nơi an vui

[21]

Đạo này là tối thượng

Thiền định trừ tà ma

Khó lường hiền thánh đức

Thông đạt Tám Chính Đạo

☸ PHẨM 7: TU THIỆN

[1]

Diệt trừ thân làm ác

Chính hạnh tự gìn giữ

Thân nghiệp ai thủ hộ

Thân luôn tu việc lành

[2]

Diệt trừ lời xấu ác

Chính ngữ tự gìn giữ

Ngữ nghiệp ai thủ hộ

Miệng luôn nói lời êm

[3]

Diệt trừ ý nghĩ ác

Chính niệm tự gìn giữ

Ý nghiệp ai thủ hộ

Tâm luôn nhớ niệm lành

[4]

Trừ bỏ ác của thân

Trừ bỏ ác của ngữ

Cũng trừ ác của ý

Và các pháp xấu ác

[5]

Thân luôn làm việc lành

Ngữ luôn nói lời lành

Ý luôn nhớ niệm lành

Vô dục sạch các lậu

[6]

Thân luôn làm việc lành

Ngữ ý nghiệp cũng thế

Đời này và đời sau

Mãi sinh ở chốn lành

[7]

Lòng từ không gϊếŧ hại

Thân nghiệp luôn khéo nhϊếp

Đó là chốn bất tử

Nơi đến chẳng hoạn nạn

[8]

Lòng từ không gϊếŧ hại

Gìn giữ ngữ ý nghiệp

Đó là chốn bất tử

Nơi đến chẳng hoạn nạn

[9]

Thuở xưa thân tạo ác

Hãy nên tự hối hận

Nay thân không buông lung

Trí sinh tội diệt trừ

[10]

Thuở xưa ngữ tạo ác

Hãy nên tự hối hận

Nay nếu không nói dối

Trí sinh tội diệt trừ

[11]

Thuở xưa ý tạo ác

Hãy nên tự hối hận

Nay ý luôn thanh tịnh

Trí sinh tội diệt trừ

[12]

Cẩn thận gìn giữ thân

Cẩn thận gìn giữ ngữ

Cẩn thận gìn giữ ý

Tất cả kết cũng vậy

Đó là chốn bất tử

Nơi đến chẳng hoạn nạn

[13]

Lành thay khéo hộ thân

Lành thay khéo hộ ngữ

Lành thay khéo hộ ý

Lành thay hộ tất cả

Bhikṣu hộ tất cả

Khéo trừ mọi khổ não

[14]

Hộ ngữ ý thanh tịnh

Thân mãi không làm ác

Khéo tịnh ba nghiệp này

Là Đạo Đại Tiên nói

☸ PHẨM 8: LỜI NÓI

[1]

Nói dối gần địa ngục

Đã làm mà nói không

Hai tội, sau đều thọ

Nghiệp đó tự lôi đi

[2]

Lòng ác ai luôn giữ

Như rìu ở trong miệng

Cho nên tự trảm thân

Do bởi nói lời ác

[3]

Thuyết Pháp làm người vui

Lời nói vô lượng nghĩa

Dẫu ta bị uất nhục

Không thẹn nghi thức này

[4]

Khen ác ca việc xấu

Cả hai đều xấu ác

Miệng lưỡi ưa tranh đấu

Về sau tất chẳng an

[5]

Tranh giành đoạt chút lợi

Như mất tài bảo giấu

Từ đó sinh tranh đấu

Khiến tâm hướng đường ác

[6]

Thánh hiền ai phỉ báng

Ngữ ý thốt nguyện ác

Sẽ đọa ngục lạnh buốt

Đến mãi trăm nghìn đời

[7]

Vô đạo đọa đường ác

Tự tăng địa ngục khổ

Lìa si tu nhẫn ý

Chính niệm tức không phạm

[8]

Nếu cậy nội bảo tạng

Nương hiền thánh sinh sống

Kẻ ngu đọa đường ác

Do bởi tạo tà kiến

[9]

Nay mất hội Pháp lành

Dẫu lập thệ nguyện cầu

Vĩnh không thấy Bốn Đế

Huống nữa thấy cứu cánh

[10]

Trúc lau sinh quả khô

Trở lại hại thân nó

Lời nói hãy tốt lành

Đừng nói lời ác ôn

[11]

Làm lành được giải thoát

Làm ác bị trói buộc

Hiểu suốt làm thánh hiền

Đó là thoát não phiền

Thánh hiền hiểu chẳng giống

Như kẻ ngu được hiểu

[12]

Bhikṣu thu nhϊếp ý

Lời nói không vội vã

Nghĩa lý hợp như Pháp

Lời ấy ngọt dịu êm

[13]

Lời chính giáo đứng đầu

Lời Pháp nghĩa là hai

Lời từ ái là ba

Lời thành tín là bốn

[14]

Lời nói ai khéo dùng

Họ tất không chiêu hoạn

Cũng chẳng xung khắc người

Đây là lời thiện xảo

[15]

Lời nói hợp với ý

Cũng làm người hoan hỷ

Đừng khiến tâm hướng ác

Lời nói người tin vui

[16]

Chí thành giảng cam lộ

Như Pháp chẳng lỗi lầm

Lời nói hợp Pháp nghĩa

Là gần gốc của Đạo

[17]

Ai giảng như Phật dạy

Cát tường được diệt độ

Tất khéo đoạn phiền não

Đó là lời tối thượng

☸ PHẨM 9: HÀNH NGHIỆP

[1]

Nên lìa xa một pháp

Đó là người nói dối

Không ác gì chẳng làm

Đời sau khổ chẳng tha

[2]

Thà nuốt viên sắt nóng

Khát uống nước đồng sôi

Không lấy thân phạm giới

Thọ nhận đồ cúng dường

[3]

Kẻ phạm giới buông lung

Như miếng thịt trên đời

Chẳng sợ tội, chẳng thẹn

Sau chịu khổ địa ngục

[4]

Nếu ai sợ khổ báo

Cũng chẳng thích chịu khổ

Chớ tạo những việc ác

Khiến sau phải hối tiếc

[5]

Ưa thích làm việc ác

Tự làm bảo người làm

Khổ báo chẳng thoát miễn

Muốn trốn có ích gì?

[6]

Trên trời dưới biển sâu

Ẩn náu núi đá cao

Chẳng có một nơi nào

Thoát khỏi nghiệp ác xưa

[7]

Chúng sinh chịu khổ não

Già chết không thoát miễn

Chỉ có bậc thượng trí

Vô niệm đoạn ác tà

[8]

Nói dối tham hối lộ

Việc làm không chân chính

Vu khống người lương thiện

Phạt oan bậc thiện sĩ

Tội siết những kẻ đó

Tự lọt hố hiểm sâu

[9]

Việc làm của phàm phu

Bất luận tốt hay xấu

Thảy đều vì bản thân

Quả báo luôn ứng theo

[10]

Di chuyển uốn thân hình

Duy bóng luôn theo thân

Hoặc đi hoặc đứng dậy

Hình bóng chẳng lìa xa

Không chỉ bóng theo hình

Hình cũng tự theo bóng

Do làm việc lành dữ

Vĩnh không lìa khỏi thân

[11]

Tham dục ăn vị độc

Chẳng nghe lời dạy bảo

Bị độc gây tổn hại

Sau mới tự tỏ ngộ

[12]

Kẻ ngu chẳng hiểu rõ

Làm ác chẳng nghe dạy

Khi chịu khổ địa ngục

Sau mới nhớ lời khuyên

[13]

Vui cười làm việc ác

Đã tạo thân chịu lấy

Gào khóc thọ tội báo

Tùy nghiệp tội đến vây

[14]

Ác báo không vội đến

Ví như vắt sữa bò

Nghiệp tội tại âm gian

Như lửa dưới tro tàn

[15]

Ác báo chẳng liền đến

Như mũi kiếm bén kia

Chẳng lo ở đời sau

Sẽ chịu lấy khổ báo

[16]

Làm ác ác trói buộc

Làm ác chẳng tỉnh ngộ

Cực ác biết ác đến

Thọ ác của gốc ác

[17]

Như sắt bị rỉ sét

Trở lại ăn thân nó

Ác sinh từ nơi tâm

Trở lại hủy thân đó

☸ PHẨM 10: CHÍNH TÍN

[1]

Tín giới tàm quý tài

Là Pháp thánh hiền khen

Đạo này bậc trí giảng

Giúp người sinh lên trời

[2]

Kẻ ngu chẳng tu thiện

Bố thí cũng chẳng khen

Chính trực tùy hỷ thí

Đời sau được an vui

[3]

Tín tâm trưởng dưỡng Đạo

Niệm Pháp trụ an lạc

Ai gần đắc thượng trí

Trường thọ giữa thánh hiền

[4]

Nghiệp gì là cao quý?

Tu gì được an lạc?

Pháp gì được giải thoát?

Thọ gì là tối thượng?

[5]

Tín tâm trưởng dưỡng Đạo

Niệm Pháp trụ an lạc

Chân thật đắc thượng trí

Trường thọ giữa thánh hiền

[6]

Tín tâm mới đắc Đạo

Tự chứng Pháp diệt độ

Đắc tuệ do khéo nghe

Cởi bỏ mọi buộc ràng

[7]

Tín tâm và giới Pháp

Tuệ ý khéo tu hành

Trượng phu đoạn phiền não

Nhân đó thoát luân hồi

[8]

Tín khiến giới thành tựu

Cũng được thọ và tuệ

Nơi nơi khéo hành Đạo

Chốn chốn người cúng dường

[9]

Thí với đấu tương tranh

Nghiệp này trí chẳng ở

Khi thí chẳng khi đấu

Nhanh thí sao do dự?

[10]

So sánh lợi xuất thế

Tín tuệ là trí mẫu

Tài này cao quý thượng

Gia sản vốn chẳng thường

[11]

Muốn thấy chư thánh hiền

Thích nghe giáo Pháp mầu

Khéo xả tâm cấu trược

Đó mới là tin sâu

[12]

Có tín mới vượt sông

Phúc ấy khó xâm đoạt

Giặc cướp khéo ngăn trừ

Nhàn tĩnh Đạo Nhân lạc

[13]

Đạo Nhân luôn đến đây

Người trí thấy vui mừng

Và những ai tin sâu

Nghe Pháp sinh hoan hỷ

[14]

Nếu ai ôm áo não

Mong người dâng y thực

Kẻ đó ngủ đêm ngày

Chẳng thể nhập chính định

[15]

Nếu ai muốn đoạn dục

Như chặt đứt cây cọ

Người kia ngày lẫn đêm

Tất sẽ nhập chính định

[16]

Bất tín chẳng tu hành

Lời thật ưa bác bỏ

Như vụng về múc nước

Khuấy suối nổi bùn dơ

[17]

Bậc trí tu tín tuệ

Khát ngưỡng Đạo thanh cao

Như khéo múc nước suối

Nhẹ nhàng chẳng khuấy tung

[18]

Tín tuệ không nhiễm ác

Chỉ gần bậc hiền minh

Điều hay nên học hỏi

Việc xấu phải lánh xa

[19]

Kính tin không tham dục

Tịch tĩnh tự tư duy

Lìa xa kẻ bất tín

Tín tâm nên hành trì



Vô Thường, Ái Dục, với Tham Dục

Buông Lung, Yêu Thương, và Trì Giới

Tu Thiện, Lời Nói, cùng Hành Nghiệp

Cộng chung Chính Tín là mười phẩm

☸ PHẨM 11: ĐẠO NHÂN

[1]

Trừ lậu hàng phục người

Lìa dục là tịnh hạnh

Chẳng phạm giới của Phật

Không nguyện gì chẳng thành

[2]

Tu hành nếu chểnh mảng

Làm thiện với bất thiện

Tịnh hạnh chẳng thanh tịnh

Không được quả báo lớn

[3]

Tất cả nghiệp chểnh mảng

Trừ sạch ý hạ liệt

Tu tập hạnh thanh tịnh

Đắc Quả liễu sinh tử

[4]

Ví như cầm kiếm bén

Cầm lơi sẽ cắt tay

Đạo Nhân không giữ giới

Địa ngục siết lôi đi

[5]

Ví như cầm kiếm bén

Cầm chặt không cắt tay

Đạo Nhân giữ giới cấm

Sắp đến Đạo tịch diệt

[6]

Không hiểu tức chẳng liễu

Đạo Nhân trí kém cỏi

Tư tưởng lắm nhiễu loạn

Kẻ ngu tới khổ não

[7]

Đạo Nhân tu Pháp gì?

Nếu ý không chế phục

Từng bước nhiễm trần lao

Chỉ chạy theo tư tưởng

[8]

Tu khó bỏ ác khó

Tại gia sống cũng khó

Hợp hội đồng lợi khó

Khó nhất vượt ba cõi

[9]

Pháp y khoác trên vai

Làm ác chẳng ngừng nghỉ

Ai luôn làm điều ác

Khi chết đọa địa ngục

[10]

Sợ tội luôn kinh hãi

Giả danh làm Đạo Nhân

Pháp y khoác lên thân

Như cắt vỏ cây cọ

[11]

Gọi là bậc trưởng lão

Không phải tuổi tác cao

Già nua tóc bạc trắng

Ngu si chẳng biết tội

[12]

Ai khéo biết tội phúc

Luôn tu hạnh thanh tịnh

Hiểu rộng thuần thanh khiết

Đó gọi là trưởng lão

[13]

Gọi là bậc Đạo Nhân

Không phải cạo râu tóc

Nói dối nhiều tham ái

Tham dục như phàm phu

[14]

Người đời gọi Đạo Nhân

Ông cũng bảo Đạo Nhân

Tuy thân giống Đạo Nhân

Như hạc chờ bắt cá

[15]

Như lìa thật chẳng lìa

Pháp y trừ chẳng trừ

Cầm bát thật chẳng cầm

Chẳng tục chẳng Đạo Nhân

[16]

Ai gọi là Đạo Nhân

Tiêu trừ tội lớn nhỏ

Thủ hộ các căn lành

Là bậc chân tịnh hạnh

[17]

Gọi là bậc Đạo Nhân

Tâm an vọng tưởng diệt

Cấu uế tiêu trừ sạch

Xứng gọi bậc xuất gia

Kinh Pháp Tập Yếu Tụng ♦ Hết quyển 1

Soạn tập: Tôn giả Pháp Cứu

Dịch sang cổ văn: Pháp sư Thiên Tức Tai (?-1000)

Dịch sang tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

Dịch nghĩa: 19/10/2014 ◊ Cập nhật: 21/8/2021

☸ Cách đọc âm tiếng Phạn

Bhikṣu: bíc su