Trở Về Thời Bắc Thuộc

Chương 66

3 tháng sau, mùa thu, năm Thiên Hán thứ 2, năm 99 TCN

Hãn đang nằm trên một bãi cỏ dùng để nuôi gia súc, tận hưởng làm gió mát thổi qua. Hai mắt nhắm lại, toàn thân cảm thấy nhẹ nhàng thư thái. Chợt, hắn mở mắt, liếc về bên trái, hắn nghe thấy có một tiếng gọi từ phía xa,

-Hãn, Hãn – Trâu từ đằng xa tiên lại

-Chuyện gì? – Hãn nói

-Đến rồi

-Đến là tốt chứ cần gì phải làm quá lên, mày lần đầu nhìn thấy à?

-Nếu như ngày thường tao hốt hoảng đến vậy làm gì? Lần này là…- Trâu giơ 4 ngón tay lên

-Ây da, nhiều vậy à? Lần này có vẻ chúng ta lỗ nặng rồi – Hãn cười

-Già làng đang tiến hành nhập vào, mày đến đó xem đi.

-Từ từ, không cần vội – Hãn nhẹ nhàng phủi những vụn cỏ dại trên áo nói

-Mày nhanh lên đi – Trâu vội giục

Theo Trâu trở về làng, băng qua những cánh đồng cao lương và lúa mới chín, Hãn nhìn rất hài lòng. Trong làng bắt đầu trở lên xôn xao. Công Xương, lão Cai và đám trẻ đang cố gắng di tản rất nhiều xe trâu nặng nề.

Trong đó là gì thì ai cũng biết. Sắt chứ còn gì nữa. 3 tháng kể từ khi Hãn trở về từ Liên Lâu, đều đặn hàng tháng đều có nhiều thuyền và người mang sắt từ Liên Lâu về đây, đám hải quan cũng không cản trở, vì tất nhiên những thứ này đều là hàng hợp pháp, họ chỉ không ngờ Diêm Thiết Phủ dám bán một lượng lớn sắt cho man dân như vậy.

-Cách của mày đúng là hiểm. – Trì hai mắt nhìn đoàn xe di chuyển, nhận ra Hãn đứng cạnh liền nói

-Cũng đâu có gì, một chút tiếu xảo thôi mà.

------------

Thành Long Biên, phủ Thái Thú.

Tại Long Biên, hỏi phủ Thái Thú ở đâu, mọi người đều sẽ chỉ vào căn nhà to lớn và rộng nhất bên trong khu nhà ở quý tộc và giới nhà giàu người Hán. Một căn Tứ Hợp Viện trải rộng đến 3ha, bao gồm 7 vườn và vô số các gian nhà lớn nhỏ, bên trong người hầu đi lại bận rộn cùng lính gác canh phòng cẩn mật

Tại một căn đình lớn được dựng bằng gỗ quý, nền lát đá hoa cương được mài nhẵn, các cột nhà được sơn đen, tại chính điện có nệm ngồi cùng một chiếc bàn sơn đen. Hai bên trái phải đều xếp một hàng bàn cùng nệm ngồi như vậy. Trên các rường cột được mắc thêm những tấm vải lụa váng óng trang trí, ánh sáng hắt vào khiến chúng có sự óng ánh mê người. Ở góc bên trái có đặt giá treo rất nhiều chuông thanh đồng lớn nhỏ, một nô tì dùng búa gõ nhẹ tạo nên những âm thanh ngân vang trong trẻo.

Tiếng nhạc du dương khiến tâm hồn thư thái nhưng không khí trong căn phòng trái ngược, thật khiến cho người ta cảm thấy nặng nề. Tại chính điện, một người đang ngồi trên nệm, mặc áo lụa đen với những đường may tinh tế và đẹp đẽ, trên hông đeo theo bội kiếm, hai mắt nhắm lại tận hưởng âm thanh trong trẻo từ những chiếc chuông thanh đồng. Những kẻ đứng hai bên thì lại không như vậy, ánh mắt họ hằn học nhìn vào người đang quỳ rạp người dưới chính điện

“Cạch”, một cuộn thẻ tre rơi trước mặt người này, kẻ đó là Tư Mã Kính. Một quân nhân đã ném cuộn thẻ này xuống. Mình mặc trọng giáp bằng sắt, trên giáp mũ có gắn vài lông chim ưng trên đỉnh. Dựa vào trang phục, người này phải ở cấp chỉ huy trở lên, tên là Mục Kim

-Tư Mã Kinh, ngươi còn gì để nói.

-Mục đô úy, Kinh tôi chưa hiểu mình đã mắc tội gì.

(Đô úy là chức quan coi quản việc quân đội của một quận thời Tây Hán)

-Vẫn còn không nhận, người nhìn sẽ thấy…

Tư Mã Kính từ từ cầm cuộn thẻ tre lên đọc một hồi

-Hạ quan vẫn chưa tường.

-Còn dám giảo biện – Vị đô úy này toan rút đao ra chém

-Hmm – Người ngồi chính điện hừ nhẹ, mặt Mục Kim biến sắc liền lui lại - Tư Mã Kinh, bổn quan hỏi ngươi, số lượng sắt bán ra gần đây sao lại tăng nhiều đến vậy?

-Khởi bẩm đại nhân, gần đây dân chúng có nhu cầu rất nhiều vê nông cụ nên số lượng mới tăng.

-Ta không hỏi ngươi việc đó, cái ta muốn biết là tại sao ở Giao Châu nghèo nàn này, người mua sắt lại bất ngờ tăng đột biến như vậy? Ta nhớ chỉ mấy tháng trước, sổ sách còn chưa hết một cuộn, sao bây giờ lại nhiều thế này?

Người này nói, tay chỉ vào một chồng lớn các cuộn thẻ tre bên cạnh. Đây là thái thú 9 quận tại Giao Châu, Thạch Đái, người này đã ở tuổi tứ tuần, trên mặt hiện nên vẻ trầm tĩnh, một tay y đang vuốt nhẹ chòm râu dưới cằm, hai mắt tập trung vào Tư Mã Kinh như đang chờ câu trả lời.

Thái thú là chức quan coi quản 1 quận nhưng Thạch Đái lại được coi đến 9 quận là bởi vùng Giao Châu là một châu quận mới, khí hậu khác biệt, không thể một sớm một chiều có thể bình định. Chưa nói đến bình định, nội đến chuyện cai trị còn đang có vấn đề. Cử người xuống cai quản đất Nam Việt cũ là cách nói khác việc đi đày. Người đến thì thì ít mà người chết thì nhiều, lính tráng xuống đến Giao Châu đi 10 cũng chỉ còn 6-7, đám quan văn thân thể yếu đuối đến sống được ở Giao Châu đã là có phúc khí, thế nên mới có chuyện một mình Thạch Đái làm thái thú 9 quận

-Bẩm đại nhân, nhờ phúc của ngài, dân chúng gần đây cuộc sống no đủ, dư giả có một chút tiền mua sắt cũng là chuyện bình thường đáng mừng, cớ sao đại nhân lại có vẻ không vui như vậy

-Ta có thể vui sao? Ngươi làm quan chẳng lẽ không hiểu ý định của Hoàng Thượng?

-Hạ quan tất nhiên hiểu

-Hiểu mà người còn làm ra chuyện như vậy? - Người này chợt tức giận khiến Tư Mã Kinh càng cúi thấp xuống – Một lượng lớn nông cụ sắt lại được bán cho dân man, ngươi không hiểu nếu chúng có nhiều sắt như vậy sẽ khiến chúng ta không thể ngủ ngon hay sao?

-Đại nhân minh xét, hạ quan chưa từng bán số lượng lớn hơn 500 cân sắt cho bất kì một bộ tộc ở Giao Châu, những người đến mua phần lớn là các tù trưởng có thế lực ở địa phương, họ chỉ mua nhiều lắm là 200 cân mỗi lần, mà những lần đó cách nhau đến cả mấy năm, thứ họ mua đều là nông cụ, chưa kể dân man không biết rèn sắt, sao tạo nên nhiều sóng gió được.

-Giá sắt cao như thế nhưng có quá nhiều người man cùng mua trong một tháng, nhỏ thì vài chục, lớn thì vài trăm, ngươi không thấy lạ hay sao?

-Khởi bẩm đại nhân, việc này quả thực hạ quan có để ý nhưng không thể kiểm soát. Dân man mang tiền đến mua, không thể không bán.

-Giảo biện, ngươi không biết đuổi chúng đi sao? – Mục Kim nói

-Mục đô úy, ngài chẳng lẽ không biết. Người đến mua có cả người Hán chúng ta. Nếu chúng ta chỉ bán cho người Hán mà không bán cho người Việt, rõ ý chúng ta đang khinh thường họ. Hoàng thượng hao tâm tổn sức nghĩ mọi cách vỗ về dân man mới được an ổn như hiện tại. Nếu chúng ta làm vậy, há chẳng phải có cớ cho chúng làm loạn hay sao? Lúc đó, chúng ta có 10 cái đầu cũng không đủ cho Hoàng Thượng chém – Tư Mã Kính nói, hai tay đặt vào nhau đưa lên cung kính hướng về phương Bắc.

Căn phòng yên lặng hồi lâu. Không ai nói câu gì, sắc mặt đều ngưng trọng chỉ duy có vị ngồi trên chính điện vẫn trầm ngâm. Lời của Tư Mã Kinh không phải không có đạo lý. Tàn dư Nam Việt vẫn còn lần khuất chỉ cần một mâu thuận nhỏ giữa Hán Việt, chúng sẽ dựa vào đó mà kích động dân chúng. Quan trọng hơn là đám tù trưởng, những kẻ này là những kẻ dễ bị kích động nhất cũng dễ bị mua chuộc nhất. Chúng dễ kích động vì mất lợi nhỏ cũng như dễ mua chuộc vì rất tham tiền tài.

Nhà Hán khi chinh phục các vùng biên ngoại, vì để tránh sự bất mãn và vỗ yên các dân tộc bị chinh phục, thi hành chính sách tự quản địa phương tại các huyện và không đυ.ng chạm đến văn hóa, Hán Man bình đẳng. Người phương Bắc là những bậc thầy về đồng hóa các dân tộc. Nhiều người lầm tưởng đồng hóa là thay đổi phong tục tập quán và con người bằng vũ lực nhưng thực tế đơn giản hơn rất nhiều. Các nền văn minh thấp thường bị cuốn hút bởi những nền văn minh tiên tiến hơn và có xu hướng chịu ảnh hưởng cực lớn hoặc học theo các nền văn minh tiên tiến đó.

Thời kì Bắc thuộc cũng như vậy. Văn minh người Hán phải công nhận cao hơn người Việt rất nhiều, nên người Việt dần dần chấp nhận phong tục Hán một cách chọn lọc. Nếu không có làm quá thì chỉ cần ngồi chờ kẻ bị chinh phạt chuyển quốc tịch thành người Hán thôi. Nhưng không đơn giản như thế phần lớn các cuộc khởi nghĩa, chống đối thời Bắc thuộc này đều vì một nguyên nhân duy nhất “quan bức dân phản”, chứ chẳng tồn tại thứ gọi là tinh thần dân tộc nào cả.

Tham lam là bản chất của con người, Giao Châu hẻo lánh xa xôi, khí hậu khắc nghiệt nhưng là một xứ có sản vật phong phú, các quan lại đến Giao Châu, 10 người đến 7-8 người ra sức bóp nặn, từ thuế khóa nặng, đến sưu dịch triền miên, cùng xung đột lợi ích và sắc tộc với các tù trưởng khiến nơi này rất dễ loạn. Thạch Đái còn là một trường hợp chấp nhận được, không có công cũng chẳng có tội với dân Việt, nhưng nhìn xem hắn đã giàu đến cỡ nào rồi.

Hô hào Hán-Việt bình đẳng nhưng lại hạn chế cho người Việt có sắt. Người đất Nam dù nhận thức có kém đi nữa nhưng không ngu đến mức không hiểu sắt tốt hơn đồng. Có thứ này làm việc gì cũng dễ nhưng tất cả mỏ quặng đều là của nhà nước. Dù họ không biết rèn sắt nhưng lại rất muốn có nông cụ bằng sắt. Giá cao thì không nói nhưng nếu các tù trưởng có tiền mà không bán thì lại quá trái đạo lý rồi. Ở chỗ khác bán sao ở đây lại nói không bán, chỉ bán cho người Hán không bán cho người Việt, đó là ý gì? Ai cũng hiểu được, và thứ xung đột nhỏ nhoi này rất có thể châm ngòi cho sự bùng nổ bất mãn vốn đã khó kiểm soát, thì với bản tính của dân Việt lúc này, đoán xem họ sẽ làm gì?

Cũng chiểu theo luật của Hán Võ Đế, nơi nào để xảy ra phản loạn, thì thái thú, đô úy nơi đó đem chém đầu tiên. Bộ luật kỳ lạ này xuất phát từ việc có quá nhiều cuộc nổi loạn của nông dân trong thời của Hán Võ Đế, và ông cho rằng chính đám quan tại địa phương đã cố tình nâng thêm thuế gấp nhiều lần khi ông ra lệnh tăng thuế, dân phu để chu cấp cho quân đội chống Hung Nô khiến lòng dân bất mãn. Lúc này mối quan tâm duy nhất của Hoàng Đế chỉ có Hung Nô, những cuộc nổi loạn nhỏ ở hậu phương chắc chắn sẽ không dễ chịu gì mà khiến Hoàng Đế giận dữ

-Ta lại thấy, nhất định có kẻ đang giở trò. Nhưng ta lại không biết kẻ nào lại có tiềm lực to lớn đến vậy?

-Đại nhân, chúng ta có cần cho người điều tra không?

-Nên thế. Tư Mã Kinh – Người ngồi tại chính điện nói

-Có hạ quan – Tư Mã Kinh cung kính

-Từ hôm nay, đặt ra hạn ngạch, không phân biệt Hán – Việt, mỗi tháng chỉ được bán 500 cân, bán hơn số này, coi chừng cái đầu của ngươi, lý do thì người tự nghĩ đi

-Hạ quan tuân lệnh, chỉ là…- Tư Mã Kinh nói thêm

-Hửm – Thạch Đái lườm

-Hạ quan lĩnh mệnh – Tư Mã Kính cung kính

-Mục Kim!!

-Có mạt tướng – Mục Kim lớn giọng

-Ta muốn ngươi phái người thăm dò xem kẻ nào giật dây. Tìm được thì nói với Bạch Kỷ để hắn giải quyết

-Dạ!! – Mục Kim đáp

Mục Kim và Tư Mã Kinh cùng rời ra khỏi nghị định. Mặt của Tư Mã Kinh vẫn còn chưa hết sợ hãi. Muc Kim nhìn hắn, nhếch mép cười rồi đi trước. Hú hồn, cứ tưởng phải chết rồi chứ.

“Cậu Hãn, lần này cậu suýt hại chết ta rồi” – Tư Mã Kinh nói thầm

Nghĩ lại hồi đó, không ngờ cách giải quyết laị đơn giản đến vậy. Không mua lớn được thì xẻ nhỏ ra mà mua. Nếu bình thường bán liền một lúc mấy ngàn cân sắt cho một tộc, đảm bảo thứ chờ hắn không phải là Thạch Đái đại nhân mà là tên đao phủ nào đó. Nhưng bán cho nhiều người thì lại là chuyện khác.

Trong 3 tháng qua, hắn và Công Xương chạy đôn chạy đáo, cốt để lôi kéo thuê người và các tộc trưởng hỗ trợ. Những người này sẽ dùng thân phận của mình để đi mua sắt, một người bình thường cấp đủ tiền để mua khoảng dưới 10 cân, mỗi thủ lĩnh thì cấp cho đủ tiền để mua cả trăm cân. Vòng qua vòng lại, cả cái đất An Định, lẫn Chu Diên, Câu Lậu, trên dưới cả trăm thủ lĩnh, vài ngàn người được thuê. Lần đầu tiên, các mối quan hệ của Công Xương bắt đầu có tác dụng, việc mở lời dễ dàng cùng với vài món quá đẹp đẽ khiến đám tù trưởng, thủ lĩnh nhận lời. Tất nhiên đó mới là quà ra mắt, giá “thuê” không hề rẻ, mỗi người được thêm 20% giá trị.

Để đề phòng có kẻ gian nhận tiền không làm, Hãn đã chuyển tiền trước cho Tư Mã Kinh. Những kẻ được thuê chỉ cần đến nơi nhận đồ, xác nhận với quan đại tư nông ở đó, đóng dấu và ra về. Sắt mua về sẽ được trao đổi qua lại cho nhiều người trong mạng lưới. Đây chính là muốn “để lâu cứt trâu cũng hóa bùn”. Cũng là để tránh tai mắt của những kẻ không mong đơi. Chế độ thị tộc cũng giống như làng xã, kẻ lạ bước vào ai cũng biết, bị phát giác cực nhanh, đi theo dõi lại bị người ta phát hiện thì còn gì vô dụng hơn. Những người được thuê cũng vì thế mà đề phòng. Sau khi đủ 1 tháng trao đổi lẫn lộn, nơi đến cuối cùng cũng chính tộc của Công Xương hoặc qua đại diện của y

--------

Làng chính của Công Xương,

Từ khi có sắt được chuyển đến, đám thợ rèn bắt đầu có rất nhiều việc phải làm. Hãn cũng vậy, những nông cụ sắt này toàn là hàng kém chất lượng, được làm bằng gang ủ. Tốt thì cũng có nhưng không bền lắm. Cày đất, chặt cây đúng là hơn rất nhiều các công cụ bằng đồng. Tốc độ khai hoang được đẩy lên nhanh chóng. Bây giờ đã có thêm 2 đồn điền mới, ở các nơi khác, cũng được thêm 1 đồn mới. Thế là phải phân chia lại người và nông cụ để cày cấy

Trong 3 tháng, Hãn cũng tăng cường mua thêm trâu bò và tạo nông cụ. Các nông cụ đều làm bằng gỗ cứng, đến chiếc cày cũng vậy. Sắt mua về, một phần dùng để mở rộng khai hoang và sản xuất, một phần cho lò rèn tạo các ống thổi thủy tinh. Bây giờ đã xây được 30 lò mới, tổng cộng hơn 50 lò thổi rồi, nguyên liệu cũng có phần thay đổi. Những người làm thủy tinh phát hiện ra rằng tro của rong biển có đặc tính tương đối giống với tro của trấu và các loại gỗ cứng. Nhưng để làm thì cần qua vài bước lọc và sơ chế. Hãn đã từng thấy qua cách của họ, đúng như họ nói, cách này có tốt nhưng lại tạo thêm nhiều màu sắc không mong đợi và cần phải tăng nhiệt độ nấu nên cao hơn để thủy tinh có thể chảy ra mà chế tác.

Đồng thời, người của Kassym cũng đã đến đây học việc, và lão đã mang thêm cho hắn vài thứ rất tốt. Lão nói đồ của Hãn màu sắc rất hạn chế nên đã mang một số loại bột và đất tạo màu để cho thêm vào, tạo ra nhiều màu sắc hơn. Việc cho tỉ lệ và cách thức thế nào còn tùy thuộc xem Hãn có nhiệt tình chỉ bảo với đám thợ của lão hay không.

Hắn đã được giới thiệu qua, số đất và bột tạo màu này có thể tạo nhiều màu sắc khác nhau, có để đổ nhiều loại vào cùng lúc để tạo ra thêm màu khác nưa, cũng như cần có các bước và điều kiện rõ ràng để màu đó xuất hiện, chứ không phải chỉ trộn vào mà được.

Những thứ này dường như không thể tìm thấy được ở Giao Châu, chí ít là với trình độ hiện tại của hắn và của người ở Giao Châu thì tìm những vật liệu này là không thể. Hắn đúng là ở tương lai, đọc cũng nhiều thứ nhưng những thứ này lại thuộc chuyên môn nên hắn chịu.

Hiện tại, sau 3 tháng, hắn đã thu được hơn 5600 cân sắt, mua được số này đúng là không đơn giản chút nào, cộng tiền lại trong 3 tháng hắn đã đốt hơn vài vạn lạng bạc, số bạc dùng để mua chuyến cuối cùng cũng còn chưa thanh toán hết cho Tư Mã Kinh, vẫn còn thiếu một nửa. Hắn đã giao ước sẽ trả dần dần và tạm thời sẽ dừng nhập thêm.

Với số sắt này, hắn có đủ sức để hoàn thành kế hoạch của mình. Hắn muốn thực hiện “Cách Mạng Nông Nghiệp” để hoàn toàn loại bỏ vấn đề thiếu lương thực luôn tồn tại cho tộc. Nói đến”Cách Mạng Nông Nghiệp” thì có vẻ cao xa, hiện đại nhưng thực tế lại rất đơn giản, ngay từ khi bắt đầu từ thế kỉ 19, vốn đã không có quá nhiều công nghệ ứng dụng vào do thức công nghệ tiên tiến nhất thời đó chỉ có đầu máy hơi nước, nhưng chúng đã thay đổi đáng kể tình hình ở Châu Âu, dân số tăng vọt từ sau Cái Chết Đen do nạn đói không còn là mối lo thường trực, dân chúng bắt đầu quan tâm hơn đến nghệ thuật như âm nhạc, hội họa và cả sinh sản 