Cô Gái Trong Lồng

Chương 29

Lúc ba giờ sáng, Carl mở choàng mắt trong bóng tối. Đâu đó trong đầu anh có một hồi ức lờ mờ về chiếc áo ca rô đỏ cùng những khẩu súng bắn đinh, và cảm giác chắc chắn rằng một chiếc áo ở Sorø

có họa tiết ăn khớp. Tim anh đập như ngựa đua, tinh thần anh kiệt quệ: rõ ràng anh đang không được khỏe. Anh hoàn toàn không đủ sức lực để nghĩ đến vụ án đó, nhưng làm sao có thể ngăn được những cơn ác mộng và giấc ngủ trằn trọc đây?

Bây giờ anh còn phải đối phó với tay nhà báo Pelle Hyttested thối tha kia nữa. Hắn ta có đang bới móc đâu đó hay không? Liệu một trong những tít báo của tờ Gossip sắp tới có phải là về một thanh tra cảnh sát bê bối?

Thật là rồi. Chỉ nội chuyện nghĩ về nó cũng đủ khiến cho bụng dạ anh co thắt cứng dơ trong suốt phần còn lại của đêm.

- Trông anh có vẻ mệt mỏi. - Ông đội trưởng đội trọng án nói. Carl phẩy tay bác bỏ lời bình luận.

- Ồng có gọi Bak chưa?

- Anh ta sẽ có mặt trong vòng năm phút. - Marcus nói và chồm người tới trước. - Tôi nhận thấy anh chưa đăng ký khóa học quản lý. Sắp hạn chót rồi đấy.

- Vậy thì tôi chỉ việc đợi khóa tới, đúng không ạ?

- Anh thừa biết chúng tôi đã tính toán hết rồi mà, đúng không Carl? Khi đơn vị của anh bắt đầu cho thấy kết quả, lẽ đương nhiên anh sẽ nhận sự hỗ trợ của các đồng nghiệp cũ. Sẽ rất đáng tiếc nếu anh không có được uy quyền mà chức danh chánh thanh tra cảnh sát mang lại. Anh không có quyền lựa chọn đầu, Carl. Anh phải đi học khóa này.

- Ngồi gặm bút trong lớp học đầu có biến tôi thành một điều tra viên giỏi hơn?

- Anh là người lãnh đạo của một đơn vị mới ở đây, và chức vụ luôn đi kèm với gánh nặng. Anh sẽ đi học, khóa này, hoặc đi tìm một đơn vị điều tra khác.

Carl nhìn qua cửa sổ về phía cái tháp mạ vàng của trò rơi tự do trong công viên Tivoli, đang được hai công nhân chỉnh trang cho mùa du lịch mới. Anh mà bắt ông ta chơi trò đó bốn hay năm lần thôi, Marcus Jacobsen sẽ phải cầu xin sự thương xót của anh.

- Tôi sẽ cân nhắc chuyện này.

Bầu không khí có phần căng thẳng khi Børge Bak bước vào với chiếc áo da khoác gọn trên vai. Carl không đợi ông đội trưởng mở đâu câu chuyện mà tấn công luôn.

- Bak này, vụ Lynggaard các anh làm như hạch ấy. Có đầy dấu hiệu cho thấy vụ đó không bình thường.

Cả đám các anh bị mê ngủ hay sao?

Đôi mắt của Bak cứng rắn như thép, nhưng Carl không nao núng.

- Bây giờ tôi muốn biết liệu có gì trong vụ này mà anh chỉ giữ cho riêng mình hay không. - Anh nói tiếp. - Có ai đó hay 2 thứ gì đó ngáng trở khả năng điều tra thần thánh của anh không vậy, Børge?

Lúc này ông đội trưởng rõ ràng đang nghĩ đến việc chỉnh lại cái kính để có thể giấu mình phía sau nó, nhưng cái nhăn mặt của Bak buộc ông phải can thiệp.

- Thôi, chúng ta bỏ qua mấy lời nhận xét đúng kiểu của Carl vừa rồi, - ông nhướng mày và nhìn vào Carl,

- ta quá hiểu anh ấy mà. Carl vừa mới phát hiện ra anh chàng Daniel Hale đã chết kia không phải là người mà Merete Lynggaard gặp gỡ tại lâu đài Christiansborg. Một việc như thế lẽ ra phải được phát hiện trong

cuộc điều tra trước đó. Về chuyện này thì công nhận Carl đúng.

Đôi vai gù của Bak làm xuất hiện vài nếp nhăn trên chiếc áo da, dấu hiệu duy nhất cho thấy thông tin vừa rồi làm anh ta căng thẳng như thế nào.

Carl bồi tiếp:

- Chưa hết đầu, Børge. Anh có biết Daniel Hale là người đồng tính không? Anh có biết anh ta đang đi nước ngoài trong giai đoạn được cho là tiếp cận Merete Lynggaard không? Nếu anh bỏ công đi đối chiếu ảnh chụp của Hale với cô thư ký Søs Norup của Merete, hoặc với ông trưởng phái đoàn Bille Antvorskov, anh sẽ biết ngay có chuyện không ổn.

Bak chậm rãi ngồi xuống. Rõ ràng trong đầu anh ta đang quay cuồng nhiều suy nghĩ. Tất nhiên anh ta đã tham gia vào hàng đống các vụ điều tra khác kế từ vụ Merete, và khối lượng công việc ở đội trọng án luôn nặng nề, nhưng lần này anh ta sẽ phải nhượng bộ.

- Ông có cho rằng chúng ta vẫn có thể loại trừ khả năng án mạng được không? - Carl quay sang hỏi sếp. - Ông nghĩ sao, Marcus?

- Nói vậy tức là anh sẽ tiếp tục điều tra những tình tiết quanh cái chết của Daniel Hale, đúng không?

- Chúng tôi đã bắt đầu chuyện đó rồi. - Carl lại quay sang phía Bak. - Tôi có một người đồng đội đang nằm tại Viện Chấn thương tủy sống Hornbæk, và cậu ấy vẫn còn biết sử dụng bộ não. - Anh tung mấy tấm ảnh lên bàn, trước mặt Marcus. - Nếu không có Hardy, tôi đã không biết đến tay thợ ảnh có tên là Jonas Hess và thu được những tấm ảnh này. Chúng cho thấy Merete Lynggaard đã đem chiếc cặp của mình về nhà sau ngày làm việc cuối cùng ở Christiansborg. Chúng cũng ghi lại khoảnh khắc cô thư ký đồng tính của Merete thể hiện một mối quan tâm bất thường đối với sếp. Ngoài ra còn có những tấm ảnh cho thấy Merete đang nói chuyện với một người nào đó trên bậc thềm tòa nhà quốc hội chỉ vài hôm trước khi cô ấy biến mất.

- Anh chỉ vào tấm ảnh chụp cận khuôn mặt và đôi mắt tỏ vẻ khó chịu của Merete. - Đúng là chúng ta chỉ có ảnh chụp từ sau lưng người đàn ông, nhưng nếu đối chiếu chiều cao, vóc người và mái tóc, anh ta rất giống với Daniel Hale, cho dù anh ta không phải là Hale. - Đến đây Carl đặt một tấm ảnh chụp Hale được lấy từ trong tờ rơi của InterLab xuống bên cạnh những tấm kia.

- Bây giờ anh nghe tôi hỏi đây, Børge Bak: anh không thấy kỳ lạ khi chiếc cặp của Merete biến mất ở đâu đó giữa christiansborg và Stevns à? Bởi vì anh không hể đi tìm nó, đúng không? Anh không thấy lạ khi Daniel Hale thiệt mạng ngay sau khi Merete biến mất một ngày hay sao?

Bak nhún vai. Tất nhiên anh ta có thấy, chỉ là anh ta không muốn thừa nhận.

- Cặp xách biến mất là chuyện thường. Cô ta có thể bỏ quên nó ở một cây xăng, hoặc đâu đó trên đường về nhà. Chúng tôi đã lục soát nhà của Merete cũng như chiếc xe hơi nằm lại trên phà. Chúng tôi đã làm những gì có thể.

- À, phải rồi. OK, anh nói là Merete có lẽ đã bỏ quên nó ở một trạm xăng, nhưng anh có chắc chuyện đó không? Theo như những gì tôi thấy trong sao kê ngân hàng thì cô ấy không thanh toán gì hết trên đường về nhà hôm đó. Anh đã không làm hết mình trong vụ này, Bak à.

Lúc này trông anh ta như sắp nổ tung.

- Tôi đã nói với anh là chúng tôi bỏ rất nhiều công sức đi tìm cái cặp đó.

- Tôi nghĩ cả Bak và tôi đều đã nhận ra chúng ta còn nhiều việc phải làm trong vụ này. - Marcus cố gắng giảng hòa.

“Chúng ta” á? Giờ thì tất cả mọi người đều bị lôi vào vụ này sao?

Carl quay mặt đi chỗ khác. Không, tất nhiên thủ trưởng của anh không có ý đó. Bởi lẽ sẽ không có sự hỗ trợ nào từ trên gác. Carl hiểu quá rõ cách vận hành của mọi chuyện tại cái trụ sở này.

- Tôi sẽ hỏi anh lần nữa, Bak. Anh có nghĩ chúng ta đã xem xét hết mọi thứ hay chưa? Anh không đưa Hale vào trong báo cáo, và trong đó cũng không hề ghi lại những quan sát của nhân viên bảo trợ xã hội Karen Mortensen đối với Uffe Lynggaard. Ngoài ra có còn thứ gì bị bỏ sót nữa hay không, hả Børge? Anh có thể cho tôi biết được không? Tôi cần sự hỗ trợ ngay bây giờ. Anh có hiểu không?

Bak đưa mắt nhìn xuống sàn và gãi mũi. Trong vài giây, anh ta đưa bàn tay còn lại lên vuốt tóc. Anh ta có thể nhảy cẫng và làm om sòm lên vì những ám chỉ và cáo buộc chống lại mình. Chuyện đó hoàn toàn có thể hiểu được, nhưng ở tình huống này, Bak tỏ ra mình là một cảnh sát chân chính. Ngay lúc này, tâm trí anh ta đang ở đâu đó thật xa.

Marcus Jacobsen đưa mắt nhìn Carl với ngụ ý “cứ từ từ đã”, và anh cũng không nói gì nữa. Anh đống ý với ông đội trưởng. Bak cần một chút thời gian để nghĩ.

Hai người ngồi đó được một phút thì Bak đưa tay lên tóc.

- Vết trượt bánh. - Anh ta lên tiếng. - Vết trượt bánh trong vụ tai nạn của Daniel Hale.

- Sao nào?

Bak ngẩng lên.

- Như đã ghi trong biên bản, trên đường không hề có dấu vết trượt bánh của cả hai chiếc xe, dù chỉ lờ mờ cũng không. Cứ như thể Daniel Hale đã không chú ý và lấn sang làn xe ngược chiều. Thế là “Rầm!” - Anh ta vỗ tay một cái. - Không ai kịp phản ứng trước khi hai chiếc xe đâm sầm vào nhau. Kết luận là như vậy.

- Phải, báo cáo của cảnh sát đã ghi như vậy. Tại sao anh nhấc đến chuyện này?

- Tôi đang lái xe qua chỗ xảy ra tai nạn vài tuần lễ sau đó thì chợt nhớ tới chi tiết đó và dừng lại để xem xét một chút.

- Rồi sao?

- Đúng như báo cáo đã viết, không hể có vết trượt bánh, nhưng cũng khá dễ dàng để xác định nơi vụ tai nạn xảy ra. Người ta còn chưa mang cái cây bị gãy và cháy xém đi, bức tường cũng chưa được sửa chữa, và dấu vết của chiếc xe kia vẫn còn nguyên dưới ruộng.

- Nhưng? Bak gật đầu.

- Nhưng rồi tôi nhận thấy thật ra có một vài dấu vết ở cách đó khoảng hai mươi lăm mét, về hướng Tảstrup. Chúng khá mờ, nhưng tôi có thể xác định là chúng khá ngắn, chỉ dài khoảng năm mươi xen-ti-mét. Và tôi đã tự hỏi những dấu vết đó liệu có liên quan với vụ tai nạn kia hay không.

Carl gặp khó khăn trong việc theo kịp Bak và cảm thấy bực bội khi bị ông sếp qua mặt.

- Chúng là những dấu vết để lại của một người cố tránh một vụ đâm xe? - Marcus hỏi.

- Rất có thể. - Bak gật đầu.

- Như vậy, ý anh là Hale đã suýt đâm phải một cái gì đó, mà chúng ta vẫn chưa biết, nhưng rồi anh ta đạp phanh và tránh kịp nó? - Marcus hỏi tiếp.

- Vâng.

- Thế rồi có một chiếc xe ở làn đường ngược lại? - Ông đội trưởng gật gù. Có lý lắm. Carl giơ tay lên.

- Báo cáo ghi nhận vụ đâm xe xảy ra ở làn đường ngược lại. Nhưng có vẻ như anh cho rằng sự thật không

phải như vậy. Theo anh nó xảy ra ở vạch ngăn cách, và chiếc xe chạy ngược chiều không có gì làm ở đó, đúng không?

Bak hít một hơi thật sâu.

- Lúc ấy tôi đã cho là như vậy, nhưng rồi lại nghĩ khác đi. Tuy nhiên, bây giờ ngồi suy xét lại, tôi nhận ra đó là một khả năng. Có thứ gì đó, hoặc ai đó đã tiến vào làn đường của Hale, khiến anh ta phải đổi hướng và chiếc xe chạy hướng ngược lại đâm thẳng vào xe của anh ta ngay cạnh vạch kẻ đường mà không giảm tốc độ. Thậm chí có thể là cố ý. Có thể chúng tôi đã tìm được những dấu vết của sự tăng tốc độ ở làn đường ngược chiều, nếu đi tiếp khoảng một trăm mét. Có thể chiếc xe kia đã tăng tốc để có mặt đúng vị trí và đâm vào xe của Hale khi anh ta chạy chệch ra giữa đường nhằm tránh đâm phải cái gì đó hoặc ai đó.

- Và nếu đó là một người bước ra đường, nếu người đó thông đồng với kẻ đã đâm xe vào Hale, thì đây không còn là một vụ tai nạn nữa. Đây là một vụ gϊếŧ người. Nếu đúng như vậy, ta có lý do để tin rằng vụ Merete Lynggaard mất tích cũng là một phần của tội ác. - Marcus kết luận và hý hoáy ghi chú.

- Có thể lắm. - Bak nhăn nhó. Lúc này anh ta tỏ ra không thoải mái. Carl đứng dậy.

- Do không có nhân chứng nên chúng ta sẽ không tìm thêm được gì. Ngay bây giờ chúng tôi đang tìm

kiếm người lái chiếc xe kia. - Anh quay sang đối diện với Bak, người dường như đang thu mình lại trong chiếc áo khoác da.

- Tôi nghi rằng mọi việc có thể đã xảy ra theo cách anh mô tả, Bak. Do vậy tôi chỉ muốn anh biết là anh đã giúp tôi rất nhiều, bất chấp mọi thứ. Hãy đến gặp tôi nếu anh nhớ ra được bất cứ chi tiết nào khác, được không?

Bak trịnh trọng gật đầu. Đây không phải là chuyện danh tiếng cá nhân của anh ta, mà là chuyện thực hiện cho đàng hoàng một nhiệm vụ. Anh ta xứng đáng được tôn trọng vì điều này.

Carl gần như muốn vỗ nhẹ vào vai Bak.

- Thưa sếp, tôi có tin tốt và tin xấu sau chuyến đi Stevns. - Assad nói. Carl thở dài.

- Tôi nghe cái nào trước cũng được. Anh cứ nói.

Assad tựa người vào mép bàn làm việc của Carl. Cứ cái đà này không lâu nữa anh ta sẽ ngồi hẳn lên đầu gối anh mất.

- OK, tin xấu trước. - Bình thường thì anh ta hay nở nụ cười kiểu đó kèm theo một tin xấu, và phá lên cười khi thông báo tin tốt.

- Người đã đâm vào xe của Daniel Hale cũng đã chết. - Assad tuyên bố và háo hức chờ xem phản ứng của Carl. - Lis đã gọi điện thông báo chuyện đó. Tôi ghi lại đây này. - Anh chàng chỉ vào một mớ ký tự Ả Rập mà rất có thể chỉ là dự báo tuyết rơi trên quần đảo Lofoten sáng hôm sau.

Carl không buồn phản ứng. Thật phiền phức và cũng rất điển hình. Đương nhiên là anh ta đã chết. Anh còn trông mong điều gì khác kia chứ? Rằng anh ta vẫn còn sống và sẽ lập tức thú nhận rằng mình đã giả dạng Hale, ám sát Lynggaard, sau đó thủ tiêu luôn Hale chắc? Thật vớ vẩn!

- Lis cho biết hắn ta là một tên giang hồ tỉnh lẻ. Theo cô ấy, hắn cũng đã từng ngồi tù vài lần vì vi phạm luật giao thông. Anh có hiểu mấy chữ “giang hồ tỉnh lẻ” không?

Carl uể oải gật đầu.

- Tốt rồi.

Nói đoạn Assad tiếp tục đọc thành tiếng những dòng chữ tượng hình của mình. Có lẽ một lúc nào đó Carl phải đề nghị anh ta ghi chú bằng tiếng Đan Mạch.

- Hắn sống tại Skaevinge, phía bắc Zealand. Người ta phát hiện hắn đã chết trên giường với rất nhiều chất nôn trong khí quản và lượng côn cực cao trong máu. Hắn cũng nốc cả thuốc nữa.

- Tôi hiểu rồi. Chuyện này xảy ra khi nào?

- Không lâu sau vụ tai nạn. Theo báo cáo thì người ta cho rằng nguyên nhân là do vụ tai nạn.

- Ý anh là hắn tự tử vì vụ tai nạn?

- Phải. Do stress hậu thương chấn.

- Cái đó là stress hậu chấn thương, Assad.

Carl gõ ngón tay trên bàn và nhắm mắt lại. Có thể đã có ba người trên đường khi vụ đâm xe xảy ra, và đây thực chất là một án mạng. Nếu vậy, tên côn đồ kia có lý do để uống say đến chết. Nhưng còn người thứ ba, kẻ đã lao ra trước đầu xe của Daniel Hale, nếu quả thực đó là điều đã xảy ra? Người này cũng đã tự sát bằng bia rượu à?

- Tên hắn là gì?

- Dennis. Dennis Knudsen. Hai mươi bảy tuổi khi chết.

- Anh có địa chỉ của hắn chứ? Hắn có họ hàng hay gia đình gì không?

- Có. Hắn sống với bố mẹ. - Assad mỉm cười. - Rất nhiều thanh niên hai mươi bảy tuổi ở Damas cũng làm thế.

Carl nhướng mày. Kinh nghiệm sống tại Trung Đông xa xôi của Assad nên được dành cho một cuộc nói chuyện khác.

- Anh đã nói là anh có tin tốt.

Như đã dự đoán, anh chàng cười ngoác miệng đến tận mang tai. Một cách hãnh diện, có thể nói như vậy.

- Nó đây.

Assad đưa cho Carl chiếc túi nhựa màu đen mà nãy giờ anh chàng để dưới sàn.

- Ô, cái gì thế này? Bốn mươi cân vừng à?

Carl đứng lên, thò tay vào trong túi nhựa, và lập tức chạm phải một cái quai xách. Đã nghi ngờ sẵn, anh rùng mình khi lôi vật đó ra.

Đúng như anh đã nghĩ, nó là một chiếc cặp đã cũ. Giống y như trong tấm ảnh của Jonas Hess, với một vết rách bên hông và một vết khác ở phần nắp.

- Trời đất quỷ thẩn ơi, Assad! - Carl thốt lên và từ từ ngồi xuống. - Cuốn sổ của cô ta có ở trong này không vậy?

Anh cảm thấy tay mình run lên khi Assad gật đầu. Tưởng như thứ trong tay anh là chiếc chén thánh.

Carl nhìn chiếc cặp chăm chú. Bình tĩnh nào, Carl tự nhủ trước khi gỡ khóa và mở nắp ra. Tất cả đều còn đó. Cuốn sổ ghi lịch hẹn bọc bìa da màu nâu, chiếc điện thoại Siemens và cục sạc, tập giấy nháp, vài chiếc bút bi, và một hộp khăn giấy. Đây đúng là chén thánh.

- Làm thế nào…? - Anh chỉ nói được có thế.

Anh bắt đầu tự hỏi mình có nền đưa nó cho bên pháp y để kiểm tra trước hay không. Giọng nói của Assad dường như vọng đến từ một nơi rất xa:

- Đầu tiên tôi đến gặp Helle Andersen. Cô ta không có nhà, nhưng chồng cô ta đã gọi điện thoại cho cô ta. Anh ta bị đau lưng nên phải nằm trên giường. Khi cô ta quay về, tôi đã giơ ảnh của Daniel Hale ra, nhưng cô ta không nhớ có từng nhìn thấy anh ta trước kia hay không.

Carl nhìn chiếc cặp và những thứ đựng bên trong. Kiên nhẫn đi, anh tự nhủ. Rồi Assad sẽ kể đến chiếc cặp thôi.

- Uffe có ở đó khi người đàn ông đem lá thư tới không? Anh có nhớ hỏi cô ta chuyện đó không vậy? - Anh cố giữ cho Assad đi đúng hướng.

Anh chàng trợ lý gật đầu.

- Có chứ. Cô ta bảo Uffe đứng ngay bên cạnh cô ta trong suốt thời gian đó. Cậu ta rất quan tâm. Cậu ta luôn như thế mỗi khi chuông cửa reng.

- Cô ta có thấy người đàn ông cầm thư giống như Hale không? Assad nhãn mũi. Bắt chước Helle Andersen giỏi lắm!

- Không nhiều lắm. Chỉ giống chút chút thôi. Người cầm thư có lẽ trẻ hơn anh ta. Mái tóc sẫm hơn một

chút, và nam tính hơn. Cô ta cũng nói gì đó về cái cằm và đôi mắt, nhưng tất cả chỉ có vậy.

- Thế rồi anh hỏi cô ta về chiếc cặp, đúng không? Nụ cười xuất hiện trở lại trên khuôn mặt Assad.

- Đúng. Cô ta không biết nó ở đâu. Cô ta vẫn còn nhớ nó, nhưng không biết liệu Merete Lynggaard có mang nó về nhà vào buổi tối cuối cùng hay không. Bởi vì cô ta không có mặt ở đó, anh còn nhớ chứ?

- Assad, nói luôn đi. Anh tìm thấy nó ở đâu?

- Bên cạnh cái lò sưởi, trong phòng để đồ linh tinh của họ.

- Anh đã đi tới ngôi nhà ở Magleby để gặp người buôn đó cổ? Assad gật đầu.

- Helle Andersen bảo là Merete Lynggaard luôn luôn làm như thế. Sau nhiều năm trời, cô ta đã nhận ra điều đó. Merete luôn tháo giày trong phòng để đồ, nhưng trước hết sẽ quan sát bên trong nhà qua cửa sổ, để xem tình hình Uffe. Cô ấy luôn cởi bộ đồ đi làm và bỏ lại trên máy giặt. Không phải vì nó bẩn, mà vì chỗ của nó là ở đó. Sau đó Merete sẽ khoác áo choàng và cùng ngồi xem phim với cậu em trai.

- Vậy còn chiếc cặp?

- À, cái đó thì Helle Andersen không biết. Cô ta chưa bao giờ để ý chỗ Merete cất cặp, nhưng cho rằng nó phải ở trong tiền sảnh hoặc trong phòng để đồ linh tinh.

- Làm thế quái nào anh tìm được nó cạnh lò sưởi trong phòng để đô, khi mà toàn bộ Đội Phản ứng nhanh không thể tìm thấy? Nó có dễ thấy không? Và tại sao nó vẫn còn ở nguyên chỗ đó? Tôi có cảm giác là mấy tay buôn đồ cổ đó rất kỹ tính trong việc dọn nhà. Anh tìm thấy nó như thế nào?

- Người buôn đồ cổ đã để tôi tự do ngó nghiêng quanh nhà, nên tôi đã dùng suy luận của mình. - Assad gõ ngón tay vào đầu. Tôi đá giày, treo áo khoác vào móc trong phòng để đổ. Giả vờ vậy thôi, vì cái móc

không còn ở đó nữa. Tôi hình dung Merete có thể mỗi tay xách một thứ. Giấy tờ một bên, và chiếc cặp ở bên còn lại. Thế rồi tôi nghĩ cô ấy không thể cởϊ áσ khoác nếu như trước hết không bỏ đồ trong tay xuống trước.

- Và cái lò sưởi là thứ nằm ở gần nhất?

- Đúng vậy. Ngay bên cạnh tôi.

- Nhưng sau đó, chẳng lẽ Merete không cầm theo cái cặp vào phòng khách hoặc phòng làm việc à?

- Từ từ đã, sếp. Tôi sắp kể đến đó đây. Tôi đưa mắt nhìn lò sưởi, nhưng chiếc cặp cũng không có ở đó, tất nhiên rồi. Tôi cũng nghĩ nó ở đó. Nhưng anh có biết tôi nhìn thấy gì không?

Carl chỉ giương mắt nhìn. Rõ ràng Assad sẽ tự trả lời câu hỏi của mình.

- Tôi nhận thấy lò sưởi cách trần nhà ít nhất một mét.

- Giỏi lắm. - Carl nói một cách miễn cưỡng.

- Và rồi tôi nhận ra Merete sẽ không để chiếc cặp nằm trên cái lò sưởi dơ bẩn, vì đó là cặp của bố cô ấy.

- Tôi chưa hiểu lắm.

- Cô ấy không để nó nằm trên lò sưởi, mà đặt nó đứng trên đó. Như kiểu anh để nó đứng trên mặt đất ấy.

Trên lò sưởi có nhiều chỗ trống cho việc đó.

- Vậy là cô ấy đã làm như thế, và chiếc cặp đã rơi ra phía sau lò sưởi. Nụ cười của Assad là quá đủ cho một lời xác nhận.

- Vết rách kia còn mới. Anh nhìn mà xem.

Carl đóng nắp và xoay cặp lại. Vết rách cũng không mới cho lắm, theo nhận định của anh.

- Tôi đã lau cặp vì nó bị bám bụi, nên vết rách trông hơi sẵm màu. Nhưng nó có vẻ rất mới khi tôi tìm thấy chiếc cặp. Thật mà sếp.

- Quỷ tha ma bắt anh đi, Assad. Anh đã lau cặp sao? Tôi đoán anh cũng đã chạm tay vào những thứ ở bên trong?

Assad gật đầu, nhưng ngượng nghịu hơn.

- Assad. - Carl hít một hơi để không tỏ ra quá nghiêm khắc. - Lần tới, khi anh tìm được một vật chứng quan trọng, làm ơn đừng có táy máy tay chân.

- Nghĩa là sao ạ?

- Là sờ mó, lục lọi ấy, khỉ gió. Anh có thể phá hủy một chứng cứ giá trị nếu làm thế. Anh có hiểu không? Assad gật đầu, vẻ nhiệt tình đã biến mất.

- Tôi lau bụi bằng ống tay áo mà sếp.

- OK. Nhanh trí đấy. Vậy anh nghĩ vết rách còn lại cũng có nguyên nhân tương tự?

Anh xoay cặp lại. Hai vết rách đúng là rất giống nhau. Vậy là vết rách cũ không phải do vụ tai nạn hồi năm 1986.

- Vâng. Tôi nghĩ đây không phải là lần đầu tiên nó bị rơi ra phía sau lò sưởi. Tôi tìm thấy nó bị kẹt cứng giữa đám ống dẫn phía sau lò sưởi dẩu. Tôi đã phải lôi kéo một lúc mới lấy nó ra được. Merete cũng vậy, tôi nghĩ thế.

- Không lẽ nó chỉ bị rơi hai lần?

- Cũng có thể nhiều hơn, vì trong phòng có gió khi mở cửa ra vào, nhưng có lẽ không phải lần nào nó cũng rơi chổng đáy lên trời.

- Ta hãy quay lại câu hỏi kia của tôi. Tại sao Merete không cầm theo cái cặp vào trong nhà?

- Merete muốn được thảnh thơi khi ở nhà. Cô ấy không muốn nghe thấy tiếng chuông điện thoại. - Assad nhướng mày, làm cho đôi mắt mở to hơn. - Tôi nghĩ là thế.

Carl quan sát bên trong chiếc cặp. Merete đã mang nó về nhà, đó là một việc hợp lý. Trong cặp có sổ ghi lịch hẹn và tập giấy nháp, những thứ có thể hữu ích trong một số trường hợp. Nhưng Merete thường xuyên đem nhiều tài liệu về nhà đọc, có hàng đống việc mà cô có thể làm. Cô có điện thoại cố định, nhưng rất ít người biết được số máy. Điện thoại di động của cô để dành cho một mạng lưới rộng hơn, đó chính là số điện thoại liên hệ trên danh thϊếp của cô.

- Anh nghĩ từ trong nhà Merete không thể nghe thấy tiếng chuông điện thoại nếu bỏ cặp lại trong phòng để đồ à?

- Không thể. - Assad đáp bằng tiếng Anh.

Carl không biết tay trợ lý của mình cũng nói được tiếng Anh.

- A, các anh đây rồi. Hai người đang trò chuyện thân mật đấy à? - Một giọng nói vui vẻ vang lên phía sau lưng họ.

Cả Carl lẫn Assad đều không nghe thấy tiếng chân của Lis trên hành lang.

- Tôi có mấy thứ nữa cho anh đây. Chúng đến từ phòng cảnh sát đông nam Jutland. - Mùi nước hoa của cô tràn ngập căn phòng, có thể cạnh tranh được với mùi hương trầm của Assad, nhưng đem lại một hiệu quả khác hẳn. - Họ xin lỗi vì sự chậm trễ, một vài nhân viên của họ đang nghỉ ốm.

Lis đưa bìa hồ sơ cho Assad. Anh chàng háo hức đón lấy, rồi nhìn Carl với ánh mắt có thể làm một vị thánh cũng phải ghen tị.

Carl nhìn đôi môi ướŧ áŧ của Lis và cố nhớ xem lần cuối cùng mình được gần gũi với phái nữ là khi nào. Hình ảnh căn hộ hai phòng màu hồng thuộc về một người phụ nữ đã ly dị chợt hiện lên rõ mổn một trong đầu anh. Ở đó có cả vài nhánh oải hương để trong một bát nước, nến thơm mùi trà, và chiếc đèn đầu giường có chụp vải màu đỏ rực. Nhưng anh đã quên mất gương mặt của nữ chủ nhân.

- Anh đã nói gì với Bak vậy, Carl? - Lis hỏi.

Anh bị lôi ra khỏi giấc mộng ướŧ áŧ và nhìn vào đôi mắt xanh nhạt của cô thư ký, lúc này đã hơi thám đi một chút.

- Bak á? Anh ta đang khóc thút thít trên gác sao?

- Không hề. Anh ta đã về nhà rồi. Nhưng các cảnh sát khác bảo anh ta trắng bệch như hồn ma sau khi nói chuyện với anh trong phòng đội trưởng.

Carl cắm sạc chiếc điện thoại của Merete Lynggaard, thẩm hi vọng pin của nó chưa bị hỏng. Những ngón tay - có hoặc không được che bởi ống tay áo - của Assad đã háo hức chạm vào mọi thứ trong cặp, nên việc giám định pháp y sẽ là vô vọng. Các chứng cứ đã bị phá hủy.

Chỉ có ba trang trong tập giấy nháp là có viết chữ, phần còn lại trống trơn. Các ghi chép chủ yếu là về những người làm dịch vụ chăm sóc tại nhà và giờ giấc của họ. Thật đáng thất vọng, và nó cho thấy cuộc sống thường ngày mà Merete bỏ lại sau lưng.

Tiếp đó, anh cho tay vào trong một ngăn cặp và lấy ra ba, bốn mảnh giấy vo viên. Cái đẵu tiên là một biên lai đề ngày 3 tháng Tư năm 2001, của một chiếc áo hiệu Jack &Jones.

Còn lại là hai tờ giấy A4 bị vo tròn, giống như thứ nằm dưới đáy cặp của bất kỳ cậu học sinh nào. Nét chữ viết tay bằng chì, hơi khó đọc, và đương nhiên không để ngày tháng.

Carl chĩa đèn bàn vào mảnh giấy A4 thứ nhất, sau đó vuốt phẳng nó lại một chút. Chỉ có vài chữ trên đó. “Chúng ta nói chuyện sau phần trình bày về cải cách thuế của tôi nhé?” Người viết ký tên là T.B. Có vô số khả năng, nhưng Tage Baggesen có thể là khả năng đúng. Ít nhất Carl cũng tin như thế.

Anh mỉm cười. Hay lắm. Baggesen muốn nói chuyện với Merete Lynggaard à? Chuyện đó chẳng dẫn anh ta tới đâu cả.

Carl vuốt lại mảnh giấy thứ hai và nhanh chóng đọc lướt nội dung. Nó cho anh một cảm giác khác hẳn. Lần này giọng diệu rất riêng tư. Baggesen có vẻ đang rơi vào tuyệt vọng. “Tôi không rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu em công khai điều đó, Merete. Xin em đừng làm thế. T.B.”

Anh cầm mảnh giấy cuối cùng lên. Nét chữ trên đó đã gần như biến mất, như thể nó đã được lấy ra khỏi cặp nhiều lần. Anh lật tới lật lui mảnh giấy, chậm rãi đọc từng chữ.

“Tôi nghĩ chúng ta đã hiểu nhau, Merete. Toàn bộ chuyện này làm tôi đau đớn sâu sắc. Tôi xin em một lần nữa: hãy giữ nó cho riêng mình. Tôi đang thực hiện xóa bỏ hoàn toàn nó”.

Lần này thì người viết không ký tên, nhưng không nghi ngờ gì nữa, vì nét chữ là một. Carl vớ lấy điện thoại và gọi cho Kurt Hansen.

Một thư ký văn phòng của đảng Bảo thủ nghe máy. Cô lịch sự nói với Carl rằng ngài Kurt Hansen không thể nói chuyện điện thoại vào lúc này và hỏi xem anh có muốn chờ máy không. Theo như cô thư ký cho biết, cuộc họp của ông sắp kết thúc trong vài phút nữa.

Carl nhìn những mảnh giấy trước mặt trong khi giữ ống nghe bên tai. Chúng đã nẳm trong chiếc cặp từ

tháng Ba năm 2002, và có lẽ đã được viết từ cả năm trời trước đó. Có thể đó là một chuyện vớ vẩn, nhưng cũng có thể không. Có thể Merete Lynggaard giữ chúng vì chúng quan trọng, nhưng cũng có thể không.

Sau khi chờ máy vài phút, Carl nghe thấy một tiếng tách, và chất giọng không lẫn vào đâu được của Kurt Hansen vang lên.

- Tôi có thể giúp gì cho anh đây, Carl? - Ông hỏi luôn, bỏ qua màn chào hỏi.

- Làm thế nào tôi có thể tìm được thời điểm Tage Baggesen đề xuất một đạo luật cải cách thuế?

- Việc quái gì anh phải biết chuyện đó, Carl? - Ông bật cười. - Chẳng có gì chán cho bằng những tư tưởng về thuế má của đám trung dung cấp tiến.

- Tôi cần xác định một mốc thời gian cụ thế.

- À, thế thì hơi khó đấy. Baggesen đề xuất luật như gà đè ấy. - Hansen lại cười vang. - Thôi, không đùa nữa. Baggesen phụ trách mảng chính sách giao thông ít nhất cũng phải nãm năm rồi. Tôi không biết anh ta rút khỏi mảng thuế khi nào nữa. Chờ chút. - Ông đặt tay lên ống nghe trong khi thì thào gì đó với một người khác trong văn phòng.

- Chúng tôi nghĩ là đầu năm 2001, dưới thời của chính phủ cũ. Hồi đó anh ta có nhiều cơ hội hơn để làm mấy cái trò vớ vẩn đó. Chúng tôi đoán là khoảng tháng Ba, tháng Tư năm 2001.

Carl hài lòng gật đầu.

- OK, Kurt. Nó khớp với điều tôi đang nghĩ trong đầu. Cảm ơn ông. Ông chuyển máy cho tôi gặp Tage Baggesen được không?

Anh nghe thấy vài tiếng bíp trước khi được nôi máy với một cô thư ký khác. Cô này cho biết Tage Baggesen đang có chuyến công tác học hỏi kinh nghiệm về hệ thống xe điện ở Hungary, Thụy Sĩ và Đức. Anh ta sẽ quay về vào thứ Hai tới.

Chuyến công tác học hỏi kinh nghiệm á? Hệ thống xe điện nào? Một chuyến du lịch thì có, Carl dám chắc như vậy. Nói thế cho nhanh.

- Tôi cần số điện thoại di động của anh ấy. Cô vui lòng cung cấp cho tôi được không?

- Tôi không nghĩ mình được phép làm điều đó.

- Cô nghe này, cô đang nói chuyện không phải với một gã nông dân ất ơ. Tôi có thể tìm ra số điện thoại đó chỉ trong vài phút, nếu buộc phải làm thế. Nhưng cô không nghĩ Tage Baggesen sẽ rất phiến lòng khi biết được cánh thư ký văn phòng các cô lại đi từ chối hỗ trự tôi sao?

Tín hiệu liên lạc không được tốt, nhưng Carl vẫn có thể nhận thấy giọng nói của Baggesen không tỏ ra nhiệt tình chút nào.

- Tôi đang có một vài lời nhắn cũ ở đây, và tôi cần nghe lời giải thích của anh. - Carl nói với giọng mềm mỏng, vì anh có thể đoán được phản ứng của Baggesen. - Củng không có gì đặc biệt, chỉ là cho đúng quy trình thôi.

- Anh nói đi. - Giọng điệu căng thẳng cho thấy Baggesen đang cố gắng không liên hệ với cuộc nói chuyện giữa họ ba ngày trước đó.

Carl đọc các lời nhắn, từng cái một. Khi anh đọc cái cuối cùng, Baggesen dường như ngưng thở ở đầu dây bên kia.

- Baggesen? Anh còn đó không?

Carl chỉ nghe thấy tiếng tút tút. Baggesen đã gác máy.

Miễn là anh ta không nhảy xuống sông, Carl thầm nghĩ và cố nhớ xem con sông nào chảy ngang qua Budapest. Anh lấy tờ danh sách đối tượng tình nghi xuống và điền hai chữ T.B. vào mục số bốn - “Các đồng nghiệp” tại Christiansborg.

Anh vừa mới gác máy thì điện thoại lại đổ chuông.

- Beate Lunderskov đây.

Carl hoàn toàn không biết cô ta là ai.

- Chúng tôi đã kiểm tra ổ cứng máy tính cũ của Merete Lynggaard, nhưng rất tiếc phải nói với anh rằng nó đã được xóa sạch trơn.

Giờ thì Carl đã nhớ ra cô ta là một trong số các nhân viên nữ ở văn phòng đảng Dân chủ.

- Tôi tưởng các cô giữ lại ổ cứng vì muốn lưu giữ những dữ liệu của nó.

- Đúng là như vậy nhưng hình như không ai nói cho thư ký của Merete biết. Cái cô Søs Norup ấy.

- Cò nói vậy là sao?

- Bởi vì chính cô ta là người đã xóa dữ liệu trong ổ cứng, theo như những gì được ghi rành rành trên đó: “được định dạng ngày 20 tháng Ba, 2002, Søs Norup”. Tôi đang cầm nó trong tay.

- Tức là gần ba tuần sau khi Merete mất tích.

- Vâng.

Børge Bak và đội của anh ta đúng là đô ăn hại. Bọn họ không tuân theo bất kỳ quy trình nào khi điều tra vụ này hay sao?

- Chúng ta có thể gửi nó đi kiểm tra một cách kỹ lưỡng hơn được không? Hẳn là phải có người nào đó có thể phục hồi dữ liệu đã bị xóa. - Carl nói.

- Tôi nghĩ chuyện đó đã được làm rồi. Đợi tôi một chút. - Carl nghe thấy tiếng sột soạt, sau đó giọng nói ở đâu dây bên kia lại vang lên. - Đúng rồi, đây là báo cáo. Họ đã cố gắng phục hôi dữ liệu tại tiệm Down Under ở Store Kongensgade vào đầu tháng Tư năm 2002. Có hẳn một đoạn giải thích chi tiết về lý do vì sao chuyện đó không thành công. Anh có muốn tôi đọc không?

- Không cần đầu. - Carl đáp. - Søs Norup rõ ràng rất thạo việc.

- Hẳn rồi. Cô ta là một người rất kỹ tính. Carl cảm ơn cô thư ký rồi gác máy.

Anh ngồi thẫn thờ một lúc trước khi châm thuốc. Rồi anh cầm lấy cuốn sổ ghi lịch hẹn đã cũ sờn của

Merete Lynggaard đang nằm trên bàn, mở nó ra một cách gần như tôn kính. Đó luôn là điều mà anh cảm thấy khi có cơ hội được xem xét một manh mối có liên hệ với những ngày cuối đời của một nạn nhân.

Giống như những ghi chú mà anh đã từng thấy, nét chữ viết tay trong sổ khá khó đọc và được viết một cách vội vã. Những chữ viết hoa được viết rất tháu. Các chữ cái N và G thậm chí không được đóng nét, nhiều câu chữ bị viết sít vào nhau. Carl bắt đầu với cuộc họp cùng nhóm nghiên cứu nhau thai vào ngày thứ Tư, 20 tháng Hai năm 2002. Trên cùng trang giấy, ở phía dưới có ghi: “quán Bankeråt, 6:30 p.m”. Chỉ có vậy.

Ở ngày hôm sau, gần như không có dòng nào là không được viết kín. Đúng là một lịch làm việc dày đặc, Carl có thể thấy điều đó. Nhưng không có ghi chú mang tính cá nhân nào cả.

Khi xem gần đến ngày làm việc cuối cùng của Merete, cảm giác tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm Carl. Hoàn toàn không có một manh mối nào. Anh lật xem trang cuối cùng. Thứ Sáu, ngày 1 tháng Ba, năm 2002. Hai cuộc họp ủy ban, và một cuộc họp với các nhà vận động hành lang. Chỉ có thế. Mọi thứ khác đã biến mất cùng với Merete.

Carl đẩy cuốn sổ ra xa và nhìn vào chiếc cặp trống rỗng. Không lẽ nó đã mất năm năm chờ đợi phía sau lò sưởi một cách vô ích ư? Anh lại cầm cuốn sổ lên và lật nhanh qua các trang còn lại. Merete Lynggaard chỉ sử dụng phần lịch và danh bạ điện thoại ở phía sau.

Anh bắt đầu lần theo các số điện thoại từ đầu. Lẽ ra Carl có thể nhảy thẳng đến mục D hoặc H, nhưng anh muốn trì hoãn sự thất vọng của mình. Trong các mục A, B, c anh có thể nhận ra chín mươi phần trăm trong số những cái tên. Danh bạ này khá giống với cái của anh, vốn bị áp đảo bởi những cái tên như jesper hay Vigga và cả đống người sống ở Rønneholt Park. Không khó để nhận ra Merete không có nhiều bạn bè. Hay đúng hơn là không có một người bạn nào. Một phụ nữ xinh đẹp với cậu em trai bị tổn thương não và hàng núi công việc - ngoài ra không gì khác. Anh xem đến mục D và thừa hiểu mình sẽ không tìm thấy số điện thoại của Daniel Hale ở đây. Merete không ghi danh bạ theo tên, khác với Vigga. Trên đời này ai lại đi tìm số điện thoại của thủ tướng Thụy Điển ở mục G do cái tên Göran của ông ta kia chứ? Ngoại trừ Vigga, tất nhiên rồi.

Thế rồi anh thấy nó. Khi lật sang mục H, anh biết ngay vụ án này đã đi đến một bước ngoặt. Họ đã nói đến tai nạn, họ đã nói đến tự tử, để rồi rốt cuộc vẩn chỉ thu được con số không tròn trĩnh. Những manh mối dọc đường cho thấy một điều gì đó kỳ lạ trong vụ này, nhưng chính trang danh bạ này là thứ thể hiện rõ nhất. Toàn bộ lịch hẹn đều được ghi vội vàng với những con số và chữ cái mà ngay cả con trai riêng của vợ Carl cũng có thể viết đẹp hơn. Kiểu chữ của Merete không có một chút gì để gọi là đẹp, khác hẳn với những gì có thể mong đợi ở một ngôi sao đang lên như cô. Nhưng cô rất kiên định với những gì mình đã viết trong

sổ. Không có chỗ nào bị gạch xóa hay chỉnh sửa. Cô luôn biết mình muốn viết ra điều gì. Có cần nhắc và không mắc lỗi. Ngoại trừ ở đây, trong mục H của danh bạ điện thoại. Carl không chắc liệu nó có liên quan gì với Daniel Hale không, nhưng sâu thẳm trong anh, nơi mà mọi cảnh sát điều tra huy động nguồn dự trữ cuối cùng, anh biết mình đã bắn trúng hồng tầm. Merete đã bôi đen một cái tên trong mục H. Nó không thể đọc được nữa, nhưng bên dưới lớp mực là tên của Daniel Hale cùng với một số điện thoại. Carl chắc chắn điều đó.

Anh mỉm cười. Vậy là rốt cuộc anh vẫn phải nhờ đến sự giúp đỡ của tổ pháp y. Tốt hơn họ nên làm cho tốt, và thật nhanh.

- Assad. - Anh gọi tay trợ lý. - Anh vào đây tôi bảo.

Trong hành lang vang lên tiếng xủng xoẻng, rồi Assad xuất hiện trên ngưỡng cửa với một chiếc xô, tay đi đôi găng cao su màu xanh.

- Tôi có việc cho anh đây. Đội kỹ thuật hình sự cần tìm ra cách để đọc số điện thoại này. - Anh chỉ vào chỗ bị bôi đen trong sổ. - Lis sẽ cho anh biết cần phải làm những thủ tục gì. Hãy bảo bọn họ làm nhanh nhất có thể.

Carl thận trọng gõ cửa phòng Jesper, nhưng không có ai trả lời. Tất nhiên rồi, thằng bé không có nhà, như thường lệ, anh nghĩ bụng và ghi nhận sự thiếu vắng những âm thanh lớn đến cả trăm decibel bình thường vẫn vang dội trong phòng. Nhưng hóa ra anh nhầm, anh nhận ngay ra điều đó khi mở cửa.

Đứa con gái đang được Jesper mân mê bộ ngực sau lớp vải áo hét toáng lên, trong khi nét mắt giận dữ của thằng bé nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng của tình huống.

- Xin lỗi. - Carl miễn cưỡng nói trong khi Jesper gỡ tay ra và đôi má của con bé đỏ như màu nến của tấm áp phích vẽ hình Che Guevara treo trên tường phía sau hai đứa. Carl biết mặt nó. Con bé không quá mười bốn tuổi, nhưng trông như đã hai mươi. Nhà nó ở Cedervangen. Mẹ nó có lẽ đã từng có thời trông giống như nó, nhưng giờ đây đã cay đắng nhận ra rằng khuôn mặt già trước tuổi không phải lúc nào cũng là một ưu điểm.

- Dượng làm cái quái gì ở đây vậy? - Jesper hét lên và nhảy phóc ra khỏi chiếc ghế sofa kiêm giường nằm.

Carl lại xin lỗi và lưu ý rằng anh đã gõ cửa đúng như phép lịch sự bắt buộc, nhưng anh vẫn cảm thấy khoảng cách giữa hai thế hệ đang chẻ ngôi nhà ra làm đôi.

- Hai đứa… Cứ tiếp tục. Dượng chỉ có một câu hỏi nhanh dành cho con thôi, Jesper. Con còn nhớ mình cất bộ Playmobil cũ ở đâu không?

Jesper trông như thể sẵn sàng ném một quả lựu đạn vào ông bố dượng. Ngay cả Carl cũng cảm thấy câu hỏi của mình thật vô duyên.

Anh gật đầu xin lỗi con bé.

- Dượng biết chuyện này nghe có vẻ kỳ cục, nhưng dượng cần nó cho cuộc điều tra. - Anh liếc sang phía Jesper, thằng bé đang nhìn anh với ánh mắt tóe lửa. - Con còn giữ mấy cái đồ chơi bằng nhựa đó không, Jesper? Dượng sẵn sàng trả tiền cho chúng.

- Dượng ra khỏi đây mau. Đi xuống nhà tìm Morten ấy. Có thể dượng sẽ mua được vài thứ từ anh ta.

Nhưng dượng sẽ phải trà một khoản kha khá đấy.

Carl nhíu mày. Một khoản kha khá?

Đã hơn một năm rưỡi nay Carl không gõ cửa nhà Morten. Mặc dù anh chàng thuê nhà di chuyển tự do trên gác như một thành viên trong gia đình, căn phòng dưới hầm của anh là thứ bất khả xâm phạm đối với Carl. Xét cho cùng, Morten luôn trả tiền thuê nhà sòng phẳng, nên Carl cũng chẳng cần quan tâm tới con người của anh chàng hoặc những thói quen có thể làm ảnh hưởng đến địa vị của anh ta. Và đó là lý do anh giữ khoảng cách.

Nhưng những lo lắng của Carl hóa ra là thừa, vì chỗ ở của Morten hóa ra nhàm chán một cách bất thường. Nếu bỏ qua hai gã đàn ông cơ bắp và những cô nàng ngực bự trên tấm áp phích cao cả mét, căn hộ dưới hầm của Morten cũng giống như nhà của bất kỳ ông bà già nào trong ngõ Prins Valdemar.

Khi Carl hỏi Morten về chỗ đồ chơi Playmobil cuajesper, anh chàng dẫn anh đến phòng xông hơi. Mọi ngôi nhà ở Rønneholt Park đều được trang bị phòng xông hơi, nhưng trong chín mươi chín phần trăm

trường hợp chúng bị phá bỏ hoặc biến thành kho chứa đồ linh tinh.

- Anh vào trong này mà xem. - Morten vừa nói vừa trịnh trọng mở cửa phòng xông hơi, cho thấy những chiếc kệ san sát nhau từ sàn nhà lên tới trần được chất kín những món đồ chơi vốn đầy rẫy ở các khu chợ trời vài năm trước đây. Những mô hình nhỏ trong quả trứng sô cô la Kinder, các nhân vật trong phim Chiến tranh giữa các vì sao, Ninja rùa, và đồ chơi Playmobil. Một nửa lượng đồ nhựa có trong nhà đều tập trung cả trên những chiếc kệ này.

- Anh thấy không, ở đây có hai bộ nhân vật nguyên thủy trong loạt mô hình được trình làng ở hội chợ đồ chơi Nürnberg năm 1974. - Morten tự hào cầm lên hai bức tượng nhỏ đội mũ bảo hiểm. - Số 3219 với cuốc chim và số 3220 với cây gậy bạc của cảnh sát công lộ còn nguyên. Sợ chưa?

Carl gật đầu. Anh không thể nghĩ ra được chữ nào hợp hơn.

- Chỉ còn thiếu mất số 3218 là em đủ tất cả ngành nghề. Em mua hộp 3201 và 3203 từ jesper. Nhìn xem này, trông chúng có tuyệt không? Thật khó mà tin thằng bé đã từng chơi với chúng.

Carl lắc đầu. Anh đã tốn hàng đống tiền cho mớ đồ chơi này.

- Thế mà nó chỉ bán cho em với giá hai ngàn. Thằng bé thật là tốt bụng.

Carl nhìn dãy kệ. Nếu được, anh sẽ cho cả Morten lẫn Jesper một bài thuyết giảng ra trò, nhắc nhở hai đứa rằng anh từng kiếm được có hai krone cho cả một giờ đóng hổ rải phần, vào cái thời mà một chiếc xúc xích với hai cái bánh mì có giá một krone tám mươi øre.

- Tôi có thể mượn vài cái cho đến mai được không? Mấy cái kia chẳng hạn. - Anh chỉ tay về phía một gia đình nhỏ có chó và nhiều thứ khác.

Morten Holland nhìn Carl như thể anh đã mất trí.

- Anh có điên không vậy, Carl? Cái hộp số 3965 đó được sản xuất năm 2000. Em SƯU tập trọn bộ, với căn nhà, ban công và mọi thứ. - Anh chàng chỉ tay vào cái kệ trên cùng.

Đúng là ngôi nhà bằng nhựa đang nằm trên đó một cách đường bệ.

- Cậu có thứ gì khác mà tôi có thể mượn được không? Chỉ cho tới tối mai thôi? Morten lại thể hiện vẻ sững sờ lạ lùng đó trên khuôn mặt.

Chắc Carl cũng sẽ nhận được phản ứng giống như thế nếu anh xin phép được đá một cú thật mạnh vào mông anh chàng.