Chuyện Xứ Lang Biang 3: Chủ Nhân Núi Lưng Chừng

Chương 64

Sau này nghĩ lại, Nguyên không hiểu tại sao lúc đó nó không rớt ra khỏi lưng ngựa, cả con khỉ Chacha nữa. Chỉ biết một lúc thì đầu nó thôi choáng váng, đà xoay của con ngựa có vẻ chậm lại, tiếng gió vù vù bên tai dịu dần rồi im hẳn. Đợi đến khi ruột gan thôi nhộn nhạo, Nguyên mới từ từ mở mắt ra, ngạc nhiên thấy nó đã ở giữa một thảo nguyên bát ngát. Hoa, rất nhiều hoa, có thứ nó biết tên có thứ nó mới nhìn thấy lần đầu nhưng tất cả đều một màu vàng với sắc đậm nhạt khác nhau, hoa mọc xen lẫn với cỏ đuôi chồn trải dài trước mắt như một tấm thảm xinh đẹp của nhiên nhiên. Ở làng Ke của nó cũng có những thung lũng đầy hoa nhưng không nhiều và đẹp như thế này.

Nguyên thầm so sánh và đưa mắt nhìn ra xa. Cuối cánh đồng hoa là dãy đồi trọc, cây xanh rải rác nằm xen kẽ với đất đỏ khiến những ngọn đồi trông như những cái đầu bị hói. Xa hơn nữa là núi đá, xanh màu da trời với những làn mây trắng uốn éo lững lờ trên đỉnh như những tấm voan trắng mềm mại.

Có lẽ đây là núi Lưng Chừng? Nguyên tự hỏi và cúi đầu nhìn con ngựa bạch đang ung dung gặm cỏ, bụng thầm nghĩ giá như mà con ngựa này biết nói.

Lóng ngóng một lát, Nguyên cũng tuột được khỏi lưng ngựa. Nó ngồi bệt xuống cỏ, với Kăply trên tay và con Chacha ngồi xổm bên cạnh, loay hoay không biết phải làm gì và nên bắt đầu mọi thứ từ đâu. Nó ngỡ ngàng nhận ra nó luôn nung nấu đến được núi Lưng Chừng nhưng khi đã đến được đây rồi thì nó bỗng thấy tất cả những gì hiện ra trong đầu giống như một cái nút vừa rối nùi vừa mơ hồ đến mức không thể gỡ nổi.

Kể từ ngày lạc đến xứ Lang Biang, chưa bao giờ Nguyên rơi vào cảnh một thân một mình như thế này. Trước đây, nó luôn luôn có K’Tub, Êmê bên cạnh, lại được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của Suku và Păng Ting. Nếu không có ai thì ít ra nó cũng có Kăply, nghĩa là cũng có một đứa bên cạnh để bàn bạc, trao đổi, tệ lắm thì cũng có chỗ để bày tỏ và chia sẻ ý nghĩ của mình.

Nguyên cứ ngồi thần ra, mặc ánh nắng trượt dần xuống vai rồi xuống đùi nó. Lòng Nguyên ngập tràn lo lắng khi nó nghĩ đến chủ nhân núi Lưng Chừng.

Nếu còn sống đến ngày nay, hẳn chủ nhân núi Lưng Chừng đã hơn bảy trăm tuổi rồi. Không biết ngài là đàn ông hay đàn bà và tính nết có quái dị lắm không. Chủ nhân núi Lưng Chừng là chiến binh giữ đền đời thứ nhất, Nguyên rất hy vọng ngài là người tốt, hiển nhiên rồi, chiến binh giữ đền không thể là người xấu được. Nó nhớ lại những gì sử gia Ama Pô ghi chép về cuộc đối đầu dai dẳng giữa chủ nhân núi Lưng Chừng và trùm Hắc Ám Bajaraka Đầu Bự hồi sáu trăm năm trước, mường tượng lại những trận ác chiến chắc là rung trời chuyển đất giữa hai phù thủy kiệt xuất. Nghĩ ngợi lan man một hồi, Nguyên lại ngạc nhiên không hiểu sao gần đây trùm Bastu lại học được thần chú kim cương vốn đã thất truyền và điều đó bỗng nhiên làm nó hoang mang ghê gớm. Nếu trùm Bastu có dính dáng đến chủ nhân núi Lưng Chừng thì hổng biết số phận xứ Lang Biang sẽ ra sao, có lẽ là banh ta lông hết cả đám, và số phận của nó nữa, chắc là nó bỏ xác tại đây mất.

Giả dụ điều đó xảy ra thì nó sẽ không còn cơ hội đem xác Kăply về làng Ke, nếu chẳng may thằng bạn thân yêu của nó qua đời sau thời hạn ba ngày kể từ lúc bị con basilic mổ trúng. Nguyên buồn rầu nghĩ, rồi tự nhiên nó chợt nhớ đến con chim vàng bay ra từ cái xác Kăply chiều hôm qua, đầu óc bỗng chốc rối bời, cảm thấy cuộc sống càng ngày càng kỳ quặc, không thể giải thích nổi, nói chung là tất cả giống như thi nhau tuột khỏi tầm hiểu biết của nó.

Lâu thật lâu, lâu lắm, Nguyên mới ôm cái xác Kăply lọ mọ đứng lên, rảo bước tiến về phía trước, giữa cánh đồng hoa, tin rằng bước đi như vậy sẽ giúp làm dịu đi cơn bão trong lòng hoặc ít ra là không nghĩ đến nó nữa. Trong khi hai con ngựa bạch vẫn thản nhiên gặm cỏ, hoàn toàn không quan tâm Nguyên làm gì hay đi đâu thì con Chacha theo sát sau lưng Nguyên, vẫn nhảy nhót nhưng không luôn mồm khọt khẹt như mọi khi, có vẻ như nó cũng linh cảm được nó và Nguyên đang lạc vào một chốn vô cùng thần bí.

Nguyên ngập ngừng đi tới, thận trọng dò dẫm từng bước, mắt dáo dác nhìn quanh, cố đoán xem những cây táo vàng người ta đồn đãi mọc ở hướng nào, mặc dù nó thừa biết nếu phát hiện ra, nó cũng không có cách nào hái được những quả táo kỳ diệu đó. Păng Ting đã nói rồi, đang canh giữ những quả táo vàng trên núi Lưng Chừng là con rồng Ouroboros, mà nọc độc chứa trong móng của con rồng này được liệt vào ba loại kỳ độc của thế gian, ngang với nọc độc của con basilic và nhựa độc của quả hiến sinh.

Nhưng dù thế nào thì mình cũng phải tìm cho ra những cây táo vàng đã. Nguyên nghĩ, cố xốc lại can đảm và tiếp tục lần tới. Chẳng mấy chốc nó đã vượt qua cánh đồng hoa và bắt gặp mình đang đứng lớ ngớ dưới chân ngọn đồi trọc gần nhất. Vẫn không có một bóng người hay bóng thú vật nào. Bên tay trái nó, kẹp giữa hai ngọn đồi là con đường nhỏ, hai bên mọc một loại cây như cây thông nhưng thấp chùn chụt, lá dày và dài quét đất.

Nguyên lần theo con đường nhỏ đi xuôi xuống, chẳng bao lâu trông thấy trước mặt một thung lũng hẹp, không có các loại cây lớn, một bãi cỏ xanh mượt lốm đốm hoa dại li ti trải từ chân đồi bên này đến vách đá đối diện như một tấm thảm bằng nhung.

Gọi là vách đá nhưng thực ra sườn núi cuối thung trông như một bức tranh ghép từ những phiến đá lớn, giữa các khe đá và trên mặt đá, suối róc rách tuôn xuống từ trên cao tạo thành một thác nước mảnh mai và hiền hòa.

Đang ngồi trên phiến đá chính giữa, mặc nước bắn tung tóe trên đầu, mê mải khua chân vào làn nước trắng xóa để đùa nghịch, là một thằng nhóc khoảng mười tuổi. Nguyên chới với khi nhận ra thằng nhóc đó chính là thầy Akô Nô.

Nguyên hoàn toàn không ngờ có người trong thung, càng bất ngờ hơn khi người đó lại là vị giáo-sư-nhóc-tì này. Nó hoảng hốt thụt người vào sau cây thông lùn, trố mắt ngó ra, tim dộng binh binh.

Nguyên bắt gặp hàng đống câu hỏi nảy ra trong óc nhưng nó không trả lời được câu hỏi nào. Đầu nó tự nhiên trống rỗng như một chiếc hộp đã dốc hết đồ chứa bên trong. Tại sao thầy Akô Nô lại đến đây? Đến đây bằng cách nào và để làm gì? Và làm sao mà thầy biết được núi Lưng Chừng nằm ở đâu nếu không có con ngựa bay của Yan Dran dẫn đường? Thầy đã gặp chủ nhân núi Lưng Chừng chưa và có đúng là thầy vẫn sống sót sau khi gặp ngài? Nguyên nhớ là khi tụi nó chuẩn bị rời khỏi trường Đămri để bắt đầu cuộc hành trình gian khổ đến núi Lưng Chừng, thầy Akô Nô cũng có mặt ở đó, cùng với thầy N’Trang Long và thầy Haifai, thậm chí nó còn nhớ thầy hét om sòm, chúc Păng Ting lên đường bình an, ờ mà thầy cũng ngộ thiệt, cả đống đứa ra đi mà thầy chẳng chúc ai, chỉ chúc mỗi con nhỏ Păng Ting. Như vậy hổng biết thầy có biết là mình đã có mặt ở hòn núi huyền bí này chưa? Ờ, biết đâu thầy cố tình đi tìm mình? Nguyên lại chìm vào những suy nghĩ miên man, chuyện nọ xọ chuyện kia, suốt một lúc lâu nó bần thần vắt óc như người ta vắt một múi chanh nhưng hổng chảy ra được chút nước nào.

Ở trên tảng đá trước mặt, thầy Akô Nô vẫn hồn nhiên đùa giỡn, hoàn toàn là một đứa bé, quần áo và mái tóc trái đào ướt đẫm, những tràng cười thích thú chốc chốc lại vang lên, ngân nga không dứt do đập vào vách đá rồi dội ngược trở ra, lan dài trong gió.

Nguyên nghe tim mình nhảy tưng tưng. Nó biết thầy Akô Nô vẫn có tính cách của một đứa trẻ con, dù thầy là một siêu phù thủy và đang giảng dạy lớp Cao cấp 1 trường Đămri. Mà một đứa trẻ con khi đã vui chơi thì bất kể trời đất. Suốt một lúc lâu, thầy Akô Nô cứ cười như nắc nẻ trên phiến đá, trong khi Nguyên bụng giật thon thót, cứ phải đảo mắt nhìn quanh, sợ tiếng cười của thầy đánh động chủ nhân núi Lưng Chừng hoặc khiến con rồng Ouroboros mò tới.

Nguyên nhìn quanh quất như vậy cả chục lần. Đến lần thứ mười một thì nó không nhúc nhích cái cổ được nữa. Cổ nó cứng đơ và miệng há ra khi nhìn thấy ba cái chấm màu đỏ hiện ra ở bên tay trái, trên một con đường khác dẫn vào thung. Chết rồi, rồng Ouroboros?

Từ lúc đó, đôi mắt của Nguyên không nhắm lại được nữa. Sự sợ hãi như một cái que chống giữa hai mí mắt nó. Nó trừng trừng nhìn ba chấm đỏ đang di động về phía nó, ruột gan tan ra, cái xác Kăply trên tay bỗng nhiên nặng như chì.