cũng bị thiên hạ cười chê vậy". Quyền vốn trái ý Chiêu, ý Chiêu lại gấp vội, Quyền không chịu được, lấy đao chém bàn mà giận rằng: "Kẻ sĩ ở nước Ngô vào cung thì bái ta, ra cung thì bái ngài, ta kính ngài như thế là cùng lắm rồi. Vậy mà ngài ở giữa mọi người bắt bẻ ý ta, ta chỉ sợ hỏng kế". Chiêu nhìn kĩ Quyền, nói: "Thần dẫu biết lời mình chẳng được nghe theo, nhưng thần dốc hết lòng trung, thực là vì Thái hậu sắp mất có gọi lão thần đến bên giường, truyền lệnh gửi gắm cho nên mới thế". Nhân đó lệ rơi ròng ròng. Quyền vứt đao xuống đất, đối mặt Chiêu mà khóc. Nhưng vẫn sai Di, Yên đi. Chiêu giận vì lời mình không được nghe, xưng bệnh không chầu. Quyền cũng giận, lấy đất che cửa, Chiêu cũng ở trong nhà lấy đất lấp cửa. Quả nhiên Uyên gϊếŧ Di, Yến. Quyền nhiều lần an ủi Chiêu, Chiêu không ngồi dậy, Quyền do đó đi qua cửa nhà Chiêu mà gọi, Chiêu lấy cớ bệnh nặng. Quyền lại đốt cửa nhà Chiêu, muốn để Chiêu sợ, Chiêu vẫn đóng cửa. Quyền lại sai người đốt cháy, đứng ở ngoài cửa hồi lâu, các con Chiêu cùng đỡ Chiêu dậy, Quyền chở đưa về cung, tự trách móc mình. Chiêu sau đó bất đắc dĩ đi chầu hội.
Tập Tạc Xỉ nói: "Trương Chiêu như thế là không phải đạo của tôi thần vậy! Là kẻ tôi thần mà ba lần can ngăn thì giữ thân mà lui, vậy mà thân không bị hại thì sao lại oán giận như thế? Vả lại Tần Mục Công làm trái lời can ngăn mà rút cuộc làm bá ở cõi tây, Tấn Văn Công chợt giận mà lập nên nghiệp lớn. (5) Can ngăn để nêu tỏ lỗi sai mà chép vào sách sử, cho nên Hồ Yển (6) không có lời oán giận vậy. Nếu vua tôi hiền năng thì trên dưới cùng vinh hiển. Ngày nay Quyền hối lỗi trước mà cầu xin Chiêu, sau đó thêm tỏ ý nhún nhường, không rời bỏ mà lại đến gần, đấy là cái tốt của Quyền vậy. Chiêu là tôi thần mà không giúp cho Quyền làm đúng, trừ bỏ cái sai, ngày đêm chẳng nhác, vậy mà lại giận dỗi vì lời mình không được dùng, đổi lỗi cho vua, đóng cửa chống lệnh, ngồi đợi lửa cháy, há chẳng lầm sao"!
Chiêu vẻ mặt nghiêm nghị, có oai phong, Quyền thường nói: "Ta nói chuyện với Trương Công thì không dám nói xằng". Cả nước cũng sợ Chiêu. Vào năm tám mươi mốt tuổi, ứng năm Gia Hòa thứ năm thì chết. Truyền lệnh quàng khăn vải quan sơ, dùng áo thường mà liệm. Quyền mặc áo trắng đến điếu, tặng thụy là Văn Hầu.
Điển lược chép: Ta ngày trước nghe nói Lưu Kinh Châu (7) từng tự viết sách muốn trao cho Tôn Bá Phù muốn gửi cho Nỉ Chính Bình (8) xem qua, Chính Bình cười nhạo rằng: "Nếu là muốn cho trẻ con dưới trướng Tôn Sách đọc xem hay là cho Trương Tử Bố đọc xem chăng"? Như lời Chính Bình cho rằng Tử Bố là người tài cao chăng? Dẫu vậy vẫn tự chứa sách đọc truyện, không thể nói là không có tài bút vậy. Lại nghe nói người miền Ngô Trung gọi Chiêu là Trọng Phủ, như thế người này đúng là cột cán một thời, chỉ tiếc là không đến ở tại miền Tung Nhạc mà lại cắm rễ ở quận Cối Kê.
Con cả là Thặng đã được phong Hầu, con út là Hưu nối tước.
Con em của Chiêu là Phấn vào lúc hai mươi tuổi biết làm ra xe lớn đánh thành, được Bộ Chất tiến cử. Chiêu không muốn, nói: "Hắn tuổi còn nhỏ, sao tự giao cho việc trong quân được"? Phấn đáp nói: "Ngày xưa Đồng Uông chết vì nạn, Tử Kì trị ở ấp A; (9) Phấn này thực là không có tài nhưng về tuổi không phải là nhỏ nữa". Bèn lĩnh binh làm tướng quân, liên tiếp lập công, làm đến Bán Châu Đô đốc, phong Lạc Hương Đình Hầu.
Thặng tự Trọng Tự, thủa trẻ vì học giỏi mà nổi danh, cùng thân thiện với Gia Cát Cẩn, Bộ Chất, Nghiêm Tuấn. Quyền làm Phiếu kị tướng quân, gọi làm Tây tào duyện, cho ra làm Trường Sa tây bộ Đô úy. Đánh dẹp giặc trên núi, thu được một vạn năm nghìn quân tinh nhuệ. Sau làm Nhu Tu Đô đốc, Phấn uy tướng quân, phong Đô hương hầu, lĩnh năm nghìn quân bộ khúc. Thặng là người hùng tráng
trung trinh, biết phân biệt tính người, tiến cử người quận Bành Thành là Sái Khoản, người quận Nam Dương là Tạ Cảnh từ khi họ còn nhỏ bé, sau đều trở thành kẻ sĩ nổi danh cả nước; Khoản làm đến Vệ úy, Cảnh làm Dự Chương Thái thú.
Ngô lục chép: Khoản tự Văn Chí, làm qua các chức trong ngoài, giữ tính trong sạch mà nổi danh. Sau làm Vệ úy, lĩnh chức Trung thư lệnh, phong Lưu Hầu. Có hai con là Điều, Cơ. Điều vào thời Tôn Hạo làm đến chức Thượng thư lệnh, Thái tử Thiếu bảo. Cơ làm Lâm Xuyên Thái thú. Việc về Tôn Cảnh chép tại Tôn Đăng truyện.
Lại nữa Gia Cát Khác thủa trẻ mọi người đều khen là tài lạ, riêng Thặng nói là người cuối cùng làm bại họ Gia Cát là Nguyên Tốn. Chăm chỉ tiến cử, thật thà với người, đến cả những bọn tầm thường, không ai không đến nhà hỏi thăm. Năm sáu mươi bảy tuổi, ứng năm Xích Ô thứ bảy thì chết, tặng thụy là Định Hầu. Con là Chấn nối tự. Lúc trước, Thặng gặp lúc vợ mất, Chiêu muốn giúp hỏi con gái của Gia Cát Cẩn, Thặng vì bạn thân với nhau, ngăn thôi, nhưng Quyền nghe tin lại khuyên bảo, bèn làm con rể.
Thần là Tùng Chi xét: Thặng cùng Gia Cát Cẩn vào giữa năm Xích Ô thì chết, tính ra Thặng kém Cẩn bốn tuổi vậy.
Sinh con gái, Quyền cho con là Hòa lấy làm vợ. Quyền nhiều lần sai Hòa kính trọng Thặng, giữ lễ của con rể. Chấn vào lúc Gia Cát Khác bị gϊếŧ cũng chết.
Hưu tự Thúc Tự, tuổi đội mũ cùng bọn Gia Cát Khác, Cố Đàm làm bạn bè của Thái tử Đăng, giảng sách Hán thư cho Đăng.
Ngô thư chép: Hưu đến giảng, chọn lựa lời văn, phân biệt sự vật, đều có điều mục. Hễ lên triều ăn uống, rót rượu bày nhạc, Đăng liền nhún nhường cùng uống vui. Hưu là người thông đạt, Đăng rất coi trọng, thường ở bên tả hữu.
Từ chức Trung thứ tử chuyển làm Hữu bật đô úy. Quyền thường đi săn đến chiều mới về, Hưu dâng sớ can ngăn, Quyền rất khen hay, đem cho Chiêu xem. Sau khi Đăng chết, làm Thị trung, bái làm Vũ lâm đô đốc, coi việc của hai quân tả, hữu, chuyển làm Dương vũ tướng quân. Bị phe đảng của Lỗ Vương là Bá vu cho lỗi là khi cùng với Cố Đàm, Thặng luận công ở trận Thược Bi, nói rằng Hưu, Thặng cùng Điển quân Trần Tuân qua lại, giả tăng công lao, bèn đều bị đày đến Giao Châu. Trung thư lệnh Tôn Hoằng nịnh nọt giả dối, Hưu vốn ghét hắn,
Ngô lục chép: Hoằng là người quận Cối Kê.
Hoằng nhân đó vu hãm, hạ chiếu ban Hưu phải chết, bấy giờ bốn mươi mốt tuổi.
Chú thích
(1) Nghĩa "tại tam": chỉ đạo lí của con người thời xưa là thờ cha, kính thầy, tôn vua.
(2) Trọng Phủ: chỉ tên gọi tôn trọng của Tề Hoàn Công đối với Quản Trọng
(3) Hốt: chỉ cái thẻ làm bằng ngọc hoặc tre gỗ mà các quan lại thường cầm khi chầu hội ở triều đình.
(4) Chiến quốc: chỉ thời loạn lạc các nước đánh chiếm lẫn nhau vào cuối thời Tây Chu.
(5) Tần Mục Công làm trái lời can ngăn mà rút cuộc làm bá ở cõi tây, Tấn Văn Công giận trong chốc lát mà lập nên nghiệp lớn: chỉ việc Tần Mục Công không nghe lời can gián của sứ giả người Nhung là Do Dư mà quyết bày mưu đánh người Nhung, rút cuộc làm bá miền tây. Tấn Văn Công giận quân sở ép bức mà đánh ở Thành Bộc, đại phá quân Sở, làm bá chư hầu.
(6) Hồ Yển: còn gọi là Cữu Phạm (咎犯) là đại thần của Tấn Văn Công.
(7) Lưu Kinh Châu: chỉ Lưu Biểu tự Cảnh Thăng, làm Kinh Châu Mục, cho nên gọi là Lưu Kinh Châu.
(8) Nỉ Chính Bình: chỉ Nỉ Hành tự Chính Bình, người quận Bình Nguyên cuối thời Đông Hán, tính
kiêu ngạo thẳng thắn. Tào Tháo gọi nhưng không đến, Tháo giận nhưng không nỡ gϊếŧ, phạt làm quan đánh trống, bèn cởi truồng đứng giữa mọi người đánh trống để làm nhục Tháo, Tháo giận
đày Hành đến Kinh Châu. Cuối cùng bị Hoàng Tổ gϊếŧ.
(9) Đồng Uông chết vì nạn, Tử Kì trị ở ấp A: Đồng Uông (童汪) tức Đồng Uông Kì (童汪踦) là người nước Lỗ. Bấy giờ còn trẻ tuổi, gặp lúc quân nước Tề vào đánh nước Lỗ, Đồng Uông ra trận bị chết. Khổng Tử khen là có nghĩa. Tử Kì (子奇) là người nước Lỗ, vào lúc mới mười sáu tuổi, vua Tề sai đi trị ấp A, chốc lát lại hối hận, sai người đuổi theo gọi về, người điổi theo về báo là Tử Kì tất trị được ấp A. Rút cuộc đến ấp A, hủy vũ khí để làm nông cụ cày ruộng, mở kho lúa để cứu chẩn người nghèo cùng, do đó ấp A được sửa trị.
CỐ UNG TRUYỆN
Cố Ung tự Nguyên Thán, người huyện Ngô quận Ngô,