Lời Tiên Tri

Chương 4: Samwell

Bên cửa sổ, Sam đung đưa người lo lắng khi những tia nắng cuối cùng biến mất đằng sau một dãy nóc nhà nhọn hoắt. Chắc hẳn cậu ta lại say nữa rồi, Sam rầu rĩ nghĩ. Hoặc là cậu ta đã gặp một cô gái khác. Cậu không biết nên khóc hay nên chửi thề vào lúc này. Dareon thân thiết với cậu như anh em ruột. Về tài ca hát, không ai có thể hơn được cậu ấy. Nhưng để làm những việc khác thì...

Sương mù buổi đêm mỗi lúc một dày đặc, như những ngón tay màu xám bò dần lên tường của tòa thành bắc qua con kênh cũ. “Cậu ấy hứa sẽ quay lại mà,” Sam nói. “Cô cũng nghe thấy mà.”

Gilly nhìn cậu bằng đôi mắt đỏ sưng húp. Tóc xõa quanh mặt, rối bù và bẩn thỉu. Trông cô giống như một con vật đang ngó ra từ bụi cây với vẻ lo lắng, đề phòng. Đã nhiều ngày nay họ không đốt lửa,

thế nhưng cô gái du mục vẫn rúc vào lò sưởi như thể đám tro tàn còn giữ được chút hơi ấm sót lại. “Anh ấy không thích ở đây với chúng ta,” cô thì thầm để không đánh thức đứa bé dậy. “Ở đây rất buồn. Anh ấy thích chỗ nào có rượu, và có nhiều tiếng cười.”

Đúng, Sam thầm nghĩ, và rượu thì có ở khắp mọi nơi, trừ chỗ này. Braavos có đầy nhà trọ, quán bia và nhà thổ. Nếu Dareon thích lửa ấm và rượu nóng hơn bánh mỳ lạt cùng một cô gái khóc lóc, một con quạ béo và một ông già ốm yếu thì ai có thể trách được cậu ta? Nhưng mình thì có thể chứ. Cậu ấy nói sẽ trở lại trước hoàng hôn; cậu ấy nói sẽ đem rượu và thức ăn về cho chúng ta kia mà.

Cậu nhìn ra cửa sổ thêm một lần nữa, rồi một lần nữa, hy vọng nhìn thấy chàng ca sĩ đang vội vã trở về. Bóng tối đang bao trùm lên thành phố bí mật, len lỏi qua những ngõ nhỏ và dọc theo các con kênh. Dân chúng vùng Braavos sẽ nhanh chóng đóng cửa sổ chớp và cài then ngang cửa ra vào. Đêm đen thuộc về lũ cướp và gái điếm. Những người bạn mới của Dareon, Sam cay đắng nghĩ. Đó là tất cả những gì mà chàng ca sĩ gần đây thường đề cập. Cậu ta đang cố gắng viết một bài hát về một ả điếm hạng sang mang tên Ánh Trăng, người đã nghe cậu ta hát bên hồ Mặt Trăng và thưởng cho cậu ta một nụ hôn. “Lẽ ra cậu nên xin cô ta chút bạc,” Sam nói. “Chúng ta cần tiền, chứ đâu cần được hôn.” Nhưng chàng ca sĩ chỉ mỉm cười. “Một số nụ hôn còn giá trị hơn cả vàng bạc, Sát Nhân ạ.”

Việc đó cũng khiến cậu điên tiết. Nhiệm vụ của Dareon không phải là viết bài hát ca ngợi lũ gái điếm, mà phải hát về Tường Thành và chiến công của Đội Tuần Đêm. Jon đã hy vọng những bài hát của cậu ta có thể thuyết phục một vài người trẻ khoác lên mình chiếc áo choàng đen. Nhưng thay vào đó, cậu ta lại hát về những nụ hôn vàng rực rỡ, mái tóc bạch kim và đôi môi đỏ thắm. Chẳng ai gia nhập đội quân áo đen vì đôi môi đỏ thắm cả.

Thỉnh thoảng bài hát của cậu ta còn làm đứa bé thức giấc. Rồi thằng bé bắt đầu gào khóc, Dareon sẽ quát tháo bắt nó nín, Gilly sẽ khóc, và chàng ca sĩ sẽ giận dữ bỏ ra ngoài suốt vài ngày. “Tiếng ỉ ôi

đó làm tôi chỉ muốn tát cho cô ta mấy cái,” Dareon phàn nàn, “và tôi cũng mất ngủ vì tiếng thút thít của cô ta.”

Cậu cũng sẽ khóc nếu bị mất con trai, suýt nữa Sam đã buột miệng ra như vậy. Cậu không thể trách Gilly trước nỗi đau buồn của cô ấy. Thay vào đó, cậu đổ lỗi cho Jon Snow và tự hỏi từ khi nào trái tim Jon đã trở nên sắt đá. Có một lần cậu đã hỏi Maester Aemon câu đó, khi Gilly đang xuống dưới

kênh lấy nước cho bọn họ. “Khi cháu giúp cậu ấy trở thành tướng chỉ huy,” vị học sĩ già trả lời.

Ngay cả bây giờ khi chết mòn trong căn phòng lạnh lẽo bên dưới mái hiên, một phần trong Sam vẫn không muốn tin rằng Jon đã làm những việc như những gì Maester Aemon nghĩ. Tuy nhiên, việc đó

hẳn là thật rồi. Nếu không thì tại sao Gilly khóc nhiều đến vậy? Tất cả những gì cậu cần làm chỉ đơn giản là hỏi xem cô ấy đang cho con ai bú, nhưng cậu không có nổi sự dũng cảm đó. Cậu sợ phải nghe câu trả lời. Mình vẫn chỉ là một kẻ hèn nhát, Jon ạ. Dù cậu có đi đâu trên khắp thế giới này, sự sợ hãi vẫn luôn đeo bám cậu.

Một tiếng ầm ầm nổi lên, vang qua những nóc nhà của Braavos nghe như tiếng sấm rền từ đằng xa vọng lại; tiếng còi lúc hoàng hôn của con thuyền Titan bay vào qua phá nước. Âm thanh đủ lớn để

đánh thức đứa bé dậy, và tiếng khóc đột ngột của nó khiến Maester Aemon lo lắng. Khi Gilly tới cho thằng nhóc bú, ông già mở choàng mắt. Ông cựa quậy một cách yếu ớt trên chiếc giường chật hẹp. “Egg? Tối quá. Sao lại tối thế này?”

Bởi vì ông bị mù. Đầu óc Aemon ngày càng đãng trí kể từ khi họ cập bến ở Braavos. Có hôm ông còn không biết mình đang ở đâu. Có hôm ông chẳng nhớ mình đang nói gì và bất đầu lảm nhảm về cha

hoặc anh trai ông. Ông ấy đã một trăm linh hai tuổi rồi, Sam tự nhủ, nhưng ông ấy cũng chỉ già bằng Hắc Thành và chưa tới mức quá lú lẫn.

“Là cháu đây,” cậu nói. “Samwell Tarly. Người phục vụ ngài đây.”

“Sam.” Maester Aemon liếʍ môi và chớp mắt. “Đúng rồi, và đây là Braavos. Ta xin lỗi, Sam. Trời đã sáng chưa?”

“Chưa.” Sam sờ lên trán ông già. Da ông ướt đẫm mồ hôi, lạnh lẽo và dinh dính khi tay cậu chạm vào, mỗi hơi thở của ông là một tiếng khò khè nhè nhẹ. “Vẫn đang đêm, thưa học sĩ. Ngài vừa mới ngủ

thôi.”

“Đêm dài quá. Ở đây lạnh thật.”

“Chúng ta không có củi,” Sam nói, “và chủ quán trọ sẽ không cho thêm củi, trừ khi chúng ta trả

thêm tiền.” Đây là lần thứ tư hay thứ năm họ lặp lại cuộc đối thoại này. Lẽ ra mình phải mua thêm củi, Sam luôn tự trách mình. Đáng lẽ mình nên giữ ấm cho ông ấy mới phải.

Vậy mà thay vào đó, cậu lại lãng phí những đồng cuối cùng cho một thầy lang ở Ngôi Nhà Tay Đỏ, một gã cao lớn xanh xao trong chiếc áo choàng thêu hình những dải đỏ và trắng xoắn lại với nhau. Tất cả số bạc đưa cho ông ta chỉ đổi lại được nửa lọ thuốc ngủ. “Cái này có thể giúp ông ấy kéo dài thêm cuộc sống,” gã người Braavos nói với vẻ không thiện chí. Khi Sam hỏi còn có cách nào khác không, hắn lắc đầu. “Ta có thuốc mỡ, thuốc nước và các loại thảo dược pha chế, thuốc cồn, thuốc đắp và nọc độc. Ta có thể rút máu, thanh lọc hoặc cho đỉa thông huyết… nhưng để làm gì? Chẳng con đỉa nào có thể giúp ông ấy trẻ lại. Ông ấy đã già lắm rồi, và cái chết đã rất cận kề. Cho ông ấy uống thuốc đi, và

để ông ấy ngủ.”

Và cậu đã làm đúng như vậy, suốt ngày suốt đêm, nhưng giờ ông già đang cố ngồi đậy. “Chúng ta phải xuống thuyền.”

Lại là những con thuyền. “Ngài yếu lắm, không ra ngoài được đâu,” cậu đành nói. Trong cuộc hải trình vừa rồi, khí lạnh đã nhiễm vào phổi Maester Aemon, và giờ nó vẫn đang ở đó. Khi họ tới Braavos, ông ấy đã yếu đến nỗi họ phải bế ông lên bờ. Lúc đó họ vẫn còn rất nhiều bạc, vì vậy

Dareon đã yêu cầu chiếc giường to đẹp nhất trong nhà trọ. Chiếc giường của họ rộng đến mức đủ cho tám người ngủ, vì thế số tiền đưa cho chủ nhà trọ cũng nhiều tương đương với con số đó.

“Ngày mai chúng ta sẽ ra bến tàu,” Sam hứa hẹn. “Ngài có thể hỏi thăm và tìm con thuyền tiếp theo chuẩn bị tới Oldtown.” Ngay cả vào mùa thu, Braavos cũng vẫn là một cảng biển nhộn nhịp. Ngay khi

Aemon khỏe lại và đủ sức lên đường, họ sẽ dễ dàng tìm được một con thuyền chở họ tới nơi nào họ muốn. Trả tiền mới là việc khó khăn. Thuyền đến từ Bảy Phụ Quốc là hy vọng lớn nhất của họ. Một thương nhân đến từ Oldtown có họ hàng trong Đội Tuần Đêm chẳng hạn. Chắc chắn đâu đó vẫn còn những người tôn trọng thanh danh của đội biệt kích canh gác Tường Thành.

“Oldtown,” Maester Aemon khò khè. “Đúng, ta đã mơ thấy Oldtown, Sam. Ta được trẻ lại và em trai ta, Egg đang ở cạnh ta, cùng vị hiệp sĩ vĩ đại mà cậu ấy phục vụ. Chúng ta đang uống rượu trong một nhà trọ cũ nơi có loại rượu táo cực mạnh.” Ông cố ngồi dậy một lần nữa, nhưng việc đó quả thực quá sức đối với ông. Sau một hồi, ông nằm yên trở lại. “Những con thuyền,” ông lại nói. “Chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời ở đó. Về những con rồng. Ta cần biết về chúng.”

Không, Sam nghĩ, ngài cần thức ăn và được giữ ấm, cần được đầy bụng và cần một lò sưởi đầy củi cháy lách tách. “Ngài có đói không, học sĩ? Chúng ta vẫn còn một ít bánh mỳ, và một chút pho mát.”

“Không phải lúc này, Sam ạ. Để sau đi, khi nào ta cảm thấy khỏe hơn.”

“Nếu ngài không ăn thì làm sao khỏe hơn được?” Họ hầu như chẳng ăn được gì trong suốt hành trình trên biển, nhất là sau khi qua Skagos. Những cơn bão mùa thu gào rú quanh họ trên biển hẹp. Thỉnh thoảng chúng xuất hiện từ phía nam, vần vũ với sấm chớp và những cơn mưa tối tăm trời đất

suốt mấy ngày liền. Thỉnh thoảng chúng lại đi xuống từ phương bắc, lạnh lẽo và khắc nghiệt với những cơn gió cắt da cắt thịt. Thỉnh thoảng gió lạnh đến nỗi khi Sam thức dậy, cả con thuyền đã bị bao trong một lớp băng lấp lánh như ngọc trai. Thuyền trưởng hạ buồm xuống, buộc nó vào boong và chỉ dùng chèo để kết thúc đoạn đường còn lại. Chẳng ai có thể ăn nổi cho đến khi họ nhìn thấy bức tượng Titan.

Tuy nhiên khi đã an toàn trên bờ, Sam mới thấy đói một cách khủng khϊếp. Cả Dareon và Gilly

cũng vậy. Đứa bé cũng bắt đầu bú nhiều hơn. Nhưng Aemon thì...

“Bánh mỳ bị ôi mất rồi, nhưng cháu có thể xin một ít nước thịt từ nhà bếp để chấm,” Sam nói với vị học sĩ già. Chủ quán trọ là một gã đàn ông khó tính, lạnh lùng và đa nghi trước những kẻ lạ mặt

trong bộ đồ đen đang cư trú trong nhà mình, nhưng đầu bếp của ông ta thì tốt bụng hơn.

“Không. Cho ta một ngụm rượu được không?”

Họ không có rượu. Dareon đã hứa sẽ mua một ít với số tiền kiếm được từ việc ca hát. “Chúng ta sẽ có rượu thôi,” Sam nói. “Ở đây có nước, nhưng không phải nước sạch.” Nước sạch chỉ chảy ra từ những ô vòm của chiếc cống lớn xây bằng gạch mà người Braavos gọi là dòng sông nước ngọt. Người giàu bơm nước đó vào nhà, còn người nghèo múc đầy thùng, xô của họ ở các vòi phun. Sam cử Gilly ra lấy nước mà quên mất rằng cô gái du mục đã sống cả đời trong lâu đài của Craster, và một khu chợ trong thị trấn là thứ cô ta chưa nhìn thấy bao giờ. Một mê cung của những hòn đảo và kênh rạch vùng Braavos, một nơi không có cỏ cây nhưng lại nhung nhúc người lạ với thứ ngôn ngữ mà cô không hiểu nổi. Tất cả làm cô sợ hãi đến nỗi cô làm mất tấm bản đồ, và tiếp theo là bị lạc. Sam tìm thấy cô đang khóc dưới chân một bức tượng lãnh chúa Braavos cổ xưa. “Chúng ta chỉ có nước dưới kênh thôi,” cậu

nói với Maester Aemon, “nhưng đầu bếp đã đun nó lên rồi. Ở đây còn có thuốc ngủ nữa, nếu ngài muốn dùng thêm.”

“Ta đã ngủ và mơ đủ rồi. Nước dưới kênh cũng được. Giúp ta nào.”

Sam đỡ ông già dậy và đưa cốc lên bờ môi khô ráp, nứt nẻ của ông. Dù như vậy, một nửa cốc nước vẫn chảy xuống ngực ông. “Đủ rồi,” Aemon ho sau khi nuốt vài ngụm. “Cháu làm ta chết đuối

mất.” Ông run lên cầm cập trong cánh tay Sam. “Sao căn phòng lại lạnh quá vậy?”

“Chúng ta hết củi rồi.” Dareon đã trả chủ nhà trọ gấp đôi để được một căn phòng có lò sưởi, nhưng họ không ngờ rằng củi ở đây lại đắt đến vậy. Cây không mọc nổi ở Braavos, và chỉ có trong sân và vườn của những kẻ quyền thế. Người Braavos cũng không thể chặt những cây thông bao xung quanh

các hòn đảo trong phá nước, bởi chúng đóng vai trò như một bức tường chắn gió, bảo vệ họ khỏi những cơn bão biển. Vì thế, củi được nhập vào bằng xà lan, từ trên thượng nguồn và từ phía bên kia

phá. Ngay cả phân bón ở đây cũng đắt đỏ; vì người Braavos dùng thuyền thay vì ngựa. Tất cả những điều đó sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến họ nếu họ lên đường tới Oldtown như dự kiến, nhưng với sức khỏe quá yếu của Maester Aemon thì đó là điều không thể. Một chuyến hải trình nữa trên biển sẽ gϊếŧ chết ông ấy.

Aemon lần tay lên chăn, nắm lấy cánh tay Sam và nói, “Chúng ta phải ra bến thuyền, Sam ạ.”

“Khi nào ngài khỏe mạnh hơn chúng ta sẽ đi.” Với tình trạng hiện tại, ông sẽ không thể chịu được bụi nước và những cơn gió lạnh thổi dọc bờ biển, và bờ biển thì vây quanh Braavos. Ở phía bắc là cảng Purple, nơi các thương nhân Braavos tụ tập bên dưới các mái vòm và tòa tháp trong Cung Điện của lãnh chúa Braavos. Ở phía tây là cảng Ragman đông đúc với thuyền nhỏ đến từ các Thành Phố Tự Trị, từ Westeros, Ibben và các miền đất xa xôi ở phía đông như trong truyền thuyết. Còn lại khắp mọi nơi đều có các bến thuyền, vũng đậu và cầu tàu nhỏ nơi những người câu tôm, bắt cua hay xiên cá tới

buộc thuyền sau buổi lặn lội ở bãi bùn và cửa sông. “Nếu không e rằng ngài sẽ không chịu nổi đâu.”

“Vậy thì hãy đi thay ta,” Aemon thúc giục, “và đem về cho ta một người đã nhìn thấy những con rồng.”

“Cháu ư?” Sam hơi mất tinh thần trước lời đề nghị. “Học sĩ, đó chỉ là một câu chuyện thôi. Câu chuyện của các thủy thủ.”

Trong chuyện này cũng có lỗi của Dareon. Gã ca sĩ mang về đủ loại chuyện kỳ quặc từ các quán bia và nhà thổ. Thật không may, hắn đã uống rượu say khi nghe tin về những con rồng nên không thể

nhớ được chi tiết câu chuyện. “Có thể Dareon đã bịa ra toàn bộ câu chuyện. Các ca sĩ thường làm vậy mà. Họ toàn bịa chuyện thôi.”

“Đúng,” Maester Aemon nói, “nhưng ngay cả một bài hát nghe hoang đường nhất cũng có một phần sự thật trong đó. Hãy tìm sự thật đó cho ta, Sam.”

“Nhưng cháu chẳng biết hỏi ai, và cũng không biết hỏi thế nào. Cháu chỉ biết một chút tiếng High Valyrian, nếu họ nói với cháu bằng tiếng Braavos, cháu sẽ không hiểu họ nói gì dù một chữ. Ngài nói

nhiều thứ tiếng hơn cháu, một khi khỏe lại, ngài có thể…”

“Khi nào ta sẽ khỏe hơn, Sam? Nói cho ta nghe.”

“Nhanh thôi. Nếu ngài chịu ăn uống và nghỉ ngơi. Khi chúng ta tới Oldtown...”

“Ta sẽ không được thấy Oldtown một lần nào nữa. Giờ thì ta biết điều đó.” Ông nắm cánh tay Sam

chặt hơn.

“Ta sẽ sớm gặp lại các anh em của mình thôi. Cả anh em thề nguyền lẫn các anh em ruột thịt, nhưng họ đều là anh em của ta. Và cả cha ta nữa… ông ấy chưa bao giờ nghĩ vương miện sẽ thuộc về mình,

nhưng mọi việc lại diễn ra đúng như vậy... Ông ấy thường nói đó là hình phạt cho việc ông đã gϊếŧ chết anh trai. Ta cầu mong ông ấy sẽ tìm thấy sự thanh thản khi chết đi, một thứ mà khi sống ông chưa bao giờ được tận hưởng. Các thầy tu hát về việc bỏ những bộn bề sang một bên và đi một chuyến tới một vùng đất xa xôi ngọt ngào, nơi chúng ta có thể cười nói, yêu đương và tiệc tùng đến tận cuối đời… nhưng nếu không có một miền đất của ánh sáng và mật ngọt, mà chỉ có vùng đất của lạnh giá, bóng tối và nỗi đau ở phía bên kia bức tường mang tên chết chóc thì sao?”

Ông ấy đang sợ hãi, Sam nhận ra điều đó. “Ngài sẽ không chết đâu. Ngài chỉ đang bị ốm, vậy thôi. Rồi nó sẽ qua.”

“Nhưng không phải lần này, Sam ạ. Ta đã mơ... trong bóng tối, một người đàn ông có thể hỏi tất cả những câu anh ta không dám hỏi trong ánh sáng. Với ta, trong những năm qua chỉ có một câu hỏi duy nhất ta còn nhớ. Đó là tại sao các vị thần lấy đi đôi mắt và sức lực của ta, nhưng lại vẫn để ta nấn ná ở lại đây, rét mướt và bị lãng quên trong khoảng thời gian lâu đến vậy? Một ông già vô dụng như ta còn làm được gì cho họ nữa?” Những ngón tay của Aemon run run, bàn tay xương xẩu như những cành khô

bọc trong lớp da đồi mồi mỏng dính. “Ta nhớ chứ, Sam. Ta vẫn nhớ.”

Ông ấy nói gì vậy nhỉ. “Nhớ gì cơ ạ?”

“Những con rồng,” Aemon thì thầm. “Chúng là nỗi đau và cũng là vinh quang của gia tộc ta.”

“Con rồng cuối cùng đã chết trước khi ngài ra đời,” Sam nói. “Làm sao ngài có thể nhớ được chúng?”

“Ta nhìn thấy chúng trong mơ, Sam ạ. Ta nhìn thấy ngôi sao đỏ chảy máu trên bầu trời. Ta vẫn nhớ màu đỏ của nó. Ta thấy bóng của chúng trên tuyết, nghe thấy tiếng đập gió của đôi cánh da, và cảm nhận được hơi thở cháy bỏng của chúng. Các anh em trai của ta cũng từng mơ về những con rồng, và những giấc mơ đã gϊếŧ họ, từng người từng người một. Sam, chúng ta run rẩy trước những lời tiên tri

nửa nhớ nửa quên, trước những điều kỳ diệu và nỗi sợ hãi mà không người sống nào dám so bì… hoặc…”

“Hoặc sao ạ?” Sam hỏi.

“...hoặc không.” Aemon ho nhẹ. “Hoặc ta là một ông già đang ốm sốt và chết dần chết mòn.” Ông

nhắm mắt lại khi mắt đã mỏi, sau đó ông đột ngột mở mắt ra. “Đáng lẽ ta không nên rời Tường Thành. Lãnh chúa Snow có thể không biết, nhưng đáng lẽ ta phải nhận ra điều đó. Lửa sẽ thiêu đốt, nhưng băng có tác dụng bảo quản. Tường Thành... nhưng đã quá trễ để quay trở lại. Kẻ Lạ Mặt đang đứng trước cửa phòng chờ ta, và ta không thể chối từ. Sam, cháu đã phục vụ ta rất trung thành. Hãy làm một việc dũng cảm cuối cùng cho ta. Xuống thuyền. Nghe ngóng tất cả những gì liên quan đến lũ rồng.”

Sam giẫy ra khỏi nắm tay của vị học sĩ già. “Cháu sẽ làm, nếu ngài muốn. Cháu chỉ là...” Cậu không biết phải nói gì nữa. Mình không thể từ chối ông ấy. Cậu cũng có thể tranh thủ tìm Dareon dọc bãi đậu thuyền và cầu tàu ở cảng Ragman. Mình sẽ tìm Dareon trước, sau đó cả hai sẽ lên thuyền cùng nhau. Và khi trở lại, chúng ta sẽ đem về thức ăn, rượu và củi. Chúng ta sẽ đốt lửa và có bữa ăn nóng sốt. Cậu đứng dậy. “Được rồi, vậy thì cháu sẽ đi. Khi cháu đi, Gilly sẽ ở đây. Gilly, nhớ cài chặt cửa

nhé.” Kẻ Lạ Mặt đang đợi ngoài cửa đó.

Gilly gật đầu và ẵm đứa bé sát vào ngực, mắt cô gái ngân ngấn nước. Sam nhận ra cô ta lại chuẩn bị khóc đến nơi. Điều đó quá sức chịu đựng đối với Sam. Đai đeo kiếm của cậu đang treo trên một

chiếc móc trên tường, bên cạnh chiếc tù và cũ nứt mà Jon đưa cho cậu. Cậu giật nó xuống và thắt

quanh eo, sau đó khoác chiếc áo choàng bằng len đen lên vai, lao qua cửa rồi đi xuống chiếc cầu thang gỗ, mỗi bậc thang kêu cọt kẹt dưới sức nặng của Sam. Nhà trọ có hai cửa chính, một cửa mở ra đường và một cửa mở ra một con kênh. Sam đi qua cửa thứ nhất để tránh căn phòng chung với ánh mắt khó chịu của chủ nhà trọ dành cho những vị khách ở lại quá lâu.

Không gian bên ngoài lạnh lẽo, nhưng đêm nay sương mù không quá dày đặc như mọi khi. Sam vui mừng vì điều đó. Đôi khi sương mù che phủ mặt đất dày đến nỗi người ta không thể nhìn thấy chân

mình. Có lần suýt nữa cậu còn bước hụt xuống kênh.

Khi còn là một đứa trẻ, Sam đã đọc về lịch sử Braavos và mơ một ngày được tới đây. Cậu muốn được trông thấy tượng thần Titan oai nghiêm và đáng sợ nhô lên từ biển, được lướt qua những con

kênh trên thuyền rồng, đi qua những cung điện, đền đài, và xem các tay kiếm trong vùng biểu diễn điệu múa nước, đao kiếm trong tay họ loang loáng dưới ánh trăng. Nhưng giờ khi cậu đã ở đây, tất cả những gì cậu muốn là khởi hành tới Oldtown càng sớm càng tốt.

Với mũ trùm đầu và áo choàng bay phần phật trong gió, cậu đi bộ dọc những con đường sỏi tới cảng Ragman. Chiếc đai đeo kiếm cứ chực tuột xuống mắt cá chân cậu, vì thế cậu phải liên tục vừa đi vừa kéo nó lên. Cậu chọn những con đường nhỏ và tối hơn để ít phải chạm mặt người khác, tuy nhiên một con mèo chạy qua cũng khiến tim cậu nhảy ra ngoài… và mèo thì nhan nhản ở Braavos. Mình cần tìm Dareon, cậu nghĩ. Cậu ta là một người của Đội Tuần Đêm, người anh em của mình; mình và cậu ấy

sẽ cùng tính xem phải làm gì. Sức lực của Maester Aemon đang cạn dần, và Gilly dù không trải qua chuyện đau buồn thì cũng sẽ bị lạc ở đây, nhưng Dareon... Mình không nên nghĩ xấu về cậu ấy. Có thể cậu ấy bị thương, có lẽ đó là lý do tại sao cậu ấy không quay lại. Hoặc cậu ấy đã chết rồi, đang nằm trong một vũng máu hoặc đang úp mặt trôi lềnh phềnh trên một con kênh nào đó. Đêm đến, các tay kiếm thường nghênh ngang đi trong thành phố với bộ trang phục lộng lẫy màu mè, khao khát muốn

chứng tỏ năng lực của mình với những thanh kiếm mảnh đeo bên mình. Một số kẻ sẵn sàng đánh nhau vì những lý do vụn vặt, một số kẻ khác thậm chí chẳng cần lý do. Mà Dareon thì vốn không biết giữ mồm giữ miệng, lại nóng tính, đặc biệt là sau khi uống rượu. Một kẻ có thể hát về các trận chiến không có nghĩa là anh ta có thể đánh nhau.

Các quán bia, nhà trọ và nhà thổ tốt đều nằm gần cảng Purple hoặc Moon Pool, nhưng Dareon thích cảng Ragman hơn, nơi khách hàng thường nói tiếng phổ thông. Sam bắt đầu tìm ở nhà trọ Lươn Xanh, Thủy Thủ Đen và Moroggo, nơi Dareon từng tới chơi nhạc trước đó, nhưng chẳng thấy bóng dáng cậu ta đâu cả. Bên ngoài nhà trọ Foghouse, vài con thuyền rồng đang được cột ở bến chờ khách, và Sam cố hỏi đám người chèo thuyền xem họ có nhìn thấy một ca sĩ áo đen hay không, nhưng chẳng

tay chèo nào hiểu tiếng vùng High Valyria của cậu. Hoặc là thế, hoặc là họ cố tình không hiểu. Sam ngó vào quán rượu bẩn thỉu bên dưới nhịp thứ hai của cầu Nabbo, một quán rượu nhỏ tới mức không chứa nổi mười người. Dareon cũng không ở đó. Cậu thử tìm nhà trọ Outcast, Ngôi Nhà Bảy Bóng Đèn, và một nhà thổ tên là Cattery, nơi cậu nhận được những ánh nhìn kỳ quặc, nhưng chẳng tìm thấy gì.

Khi rời đi, cậu suýt nữa đâm phải hai gã trai trẻ tuổi bên dưới chiếc đèn l*иg đỏ của Cattery. Một tên tóc đen và một tên tóc màu sáng. Kẻ tóc đen nói câu gì đó bằng tiếng Braavos. “Xin lỗi,” Sam

đành nói. “Tôi không hiểu gì cả.” Cậu sợ hãi tránh sang một bên. Ở Bảy Phụ Quốc, giới quý tộc được bao bọc trong nhung lụa hay gấm vóc với hàng trăm màu sắc khác nhau, trong khi dân thường và nông dân mặc len đũi và vải sợi thô. Ở Braavos thì ngược lại. Những tên cướp đi lại huênh hoang và ngạo mạn, tay múa kiếm, trong khi đó những kẻ quyền quý chỉ mặc đồ màu tro và tía, hoặc màu xanh gần như đen, còn màu đen thì tối đặc như trời đêm khi không có trăng sao.

“Terro bạn tao nói mày béo ú đến nỗi nó thấy phát sợ,” tên cướp tóc sáng màu, mặc áo khoác bằng nhung xanh pha với vải kim tuyến lên tiếng. “Terro bạn tao còn nói tiếng leng keng phát ra từ thanh

kiếm của mày khiến nó đau đầu.” Hắn nói bằng tiếng phổ thông. Tên cướp tóc đen còn lại mặc bộ đồ bằng vải kim tuyến màu đỏ tía và áo choàng vàng, kẻ có vẻ tên là Terro. Hắn bình luận một số câu bằng tiếng Braavos khiến gã bạn tóc sáng của hắn phá lên cười rồi nói, “Terro bạn tao nói quần áo cho thấy địa vị của mày. Mày mặc áo màu đen như vậy, có phải là một lãnh chúa vĩ đại nào đó không?”

Sam muốn bỏ chạy, nhưng nếu thế cậu sẽ tự vấp vào đai đeo kiếm của mình mà ngã. Đừng chạm vào kiếm, cậu tự nhủ. Chỉ cần đặt một ngón tay lên chuôi kiếm thôi thì điều đó cũng đủ để đám cướp

coi là thách thức. Cậu cố nghĩ ra những lời khiến họ vừa lòng. Nhưng rốt cuộc thì “Tôi không…” là tất cả những gì cậu có thể thốt ra.

“Hắn không phải lãnh chúa đâu,” một giọng trẻ con chen vào. “Hắn là người của Đội Tuần Đêm, đồ ngu. Đến từ Westeros.” Người tiến vào chỗ có ánh sáng là một cô bé đang đẩy một xe đầy tảo biển;

một bé gái nhếch nhác, gầy gò trong đôi bốt to tổ chảng và mái tóc xác xơ đã lâu không được gội.

“Còn một tên nữa đang ở Cảng Hạnh Phúc, đang hát cho Vợ Thủy Thủ nghe kia kìa,” cô thông báo cho

hai tên cướp. Còn với Sam cô nói, “Nếu họ hỏi ai là người đẹp nhất trên thế gian thì hãy nói là nàng

Sơn Ca nhé, nếu không họ sẽ thách đấu với anh đấy. Anh muốn mua một ít sò không? Tôi bán hết hàu

rồi.”

“Tôi không có tiền,” Sam nói.

“Hắn không có tiền đâu,” tên cướp tóc sáng màu mỉa mai. Người bạn tóc đen của hắn cười nhăn nhở và nói điều gì đó bằng tiếng Braavos. “Terro bạn tao đang thấy lạnh. Hãy là một thằng bạn béo tốt

bụng của bọn ta và đưa áo choàng cho nó.”

“Đừng làm thế,” cô gái đẩy xe nói, “nếu không tiếp theo họ sẽ đòi giày của anh, và chẳng mấy chốc anh sẽ trần như nhộng.”

“Con mèo nào kêu to quá sẽ bị dìm chết dưới kênh đấy,” tên cướp tóc sáng cảnh cáo.

“Không đâu, nếu chúng có móng vuốt.” Và đột nhiên, một con dao xuất hiện trên tay trái của cô gái, mảnh dẻ như chính cô vậy. Gã tên Terro nói câu gì đó với người bạn tóc sáng màu và cả hai tên bỏ

đi, vừa đi vừa cười cợt với nhau.

“Cảm ơn,” Sam nói với cô gái khi họ đi khỏi.

Con dao trong tay cô biến mất. “Đeo một thanh kiếm đi trong đêm đồng nghĩa với việc anh sẵn sàng nhận thách thức. Anh có muốn đánh nhau với họ không?”

“Không.” Sam vội nhăn nhó trả lời, giọng the thé.

“Anh có thực sự là người của Đội Tuần Đêm không đấy? Tôi chưa từng gặp người anh em áo đen nào giống như anh.” Cô gái chỉ về phía chiếc xe đẩy. “Anh có thể lấy những con trai cuối cùng này nếu

muốn. Giờ tối rồi, sẽ chẳng có ai mua nữa. Anh đang tìm thuyền tới Tường Thành đúng không?”

“Tới Oldtown.” Sam nhặt lấy một trong những con trai nướng và ăn ngấu nghiến. “Chúng tôi đang chờ đổi thuyền.” Món trai nướng rất ngon. Cậu ăn thêm một con nữa.

“Đám cướp đường không bao giờ làm phiền những người không đeo kiếm. Ngay cả những gã ngu ngốc đáng ghét như Terro và Orbelo.”

“Cô là ai?”

“Không ai cả.” Cô gái có mùi tanh của cá. “Tôi từng là ai đó, nhưng giờ thì không. Anh có thể gọi tôi là Cat, nếu muốn. Anh là ai?”

“Samwell, Nhà Tarly. Cô nói tiếng phổ thông sao?”

“Cha tôi từng là tay chèo trên thuyền Nymeria. Một tên cướp đã gϊếŧ ông ấy vì ông dám nói mẹ tôi đẹp hơn cả nàng Sơn Ca. Không phải loại ngốc mà anh vừa gặp đâu, một tên cướp thực sự ấy. Rồi sẽ có ngày tôi cắt cổ hắn. Thuyền trưởng nói Nymeria không cần những cô bé như tôi, nên ông ấy đẩy tôi

xuống thuyền. Brusco nhận tôi và đưa cho tôi chiếc xe cút kít này.” Cô gái ngước mắt lên nhìn anh. “Anh định lên con thuyền nào?”

“Chúng tôi đã mua vé lên thuyền Quý Cô Ushanora.”

Cô gái nheo mắt nhìn cậu với vẻ hoài nghi. “Thuyền đó đi rồi, anh không biết à? Nó đã ra khơi cách đây nhiều ngày rồi.”

Tôi biết, Sam định nói như vậy. Cậu và Dareon đã đứng trên cầu tàu nhìn những mái chèo ngoi lên ngụp xuống khi con thuyền đi qua tượng Titan và tiến ra biển lớn. “Thôi,” chàng ca sĩ nói, “thế là hết.” Nếu dũng cảm hơn một chút thì có lẽ Sam đã đẩy cậu ta xuống biển. Hễ nhắc đến gái và váy áo của họ

thì giọng lưỡi Dareon ngọt như mật, vậy mà trong buồng của thuyền trưởng, người phải đứng ra nói chuyện lại là Sam. Cậu cố thuyết phục những người Braavos chờ đợi họ “Tôi đã chờ ông già đó ba ngày rồi,” viên thuyền trưởng nói. “Thuyền đã đầy chỗ, và người của tôi đã tạm biệt vợ con xong xuôi cả rồi. Thuyền của tôi sẽ khởi hành khi thủy triều lên, dù có các cậu hay không.”

“Tôi xin ông đấy,” Sam năn nỉ. “Chỉ cần thêm vài ngày nữa thôi, để Maester Aemon phục hồi sức khỏe.”

“Ông ta đâu còn sức khỏe nữa.” Vị thuyền trưởng đã đích thân đến nhà trọ vào tối hôm trước để xem xét tình hình của Maester Aemon. “Ông ấy già nua ốm yếu, và tôi sẽ không để ông ấy chết trên con thuyền của mình. Ở lại với ông ấy, hoặc bỏ ông ấy lại, đó không phải là việc của tôi. Tôi sẽ ra khơi.”

Tệ hơn, ông ta còn từ chối không trả lại số tiền họ trả cho ông ta, số tiền để đưa họ an toàn tới Oldtown. “Cậu đã thuê căn buồng đẹp nhất trên thuyền, và nó vẫn ở đó đợi cậu. Còn nếu cậu không muốn lên thì đó không phải lỗi của tôi. Tại sao tôi phải chịu mất tiền?”

Giờ này lẽ ra chúng ta đã ở Duskendale rồi, Sam buồn bã nghĩ. Thậm chí có thể còn đến Pentos, nếu hướng gió thuận lợi.

Nhưng những chuyện đó chẳng liên quan gì đến cô gái đẩy xe cút kít. “Cô nói cô nhìn thấy một ca

sĩ...”

“Ở Cảng Hạnh Phúc. Anh ta chuẩn bị cưới Vợ Thủy Thủ.”

“Cưới ư?”

“Cô ta chỉ ngủ với người nào chịu cưới cô ta thôi.”

“Cảng Hạnh Phúc ở chỗ nào vậy?”

“Phía bên kia Thuyền Diễn Kịch Câm. Tôi sẽ chỉ đường cho anh.”

“Vậy thì tôi biết đường rồi.” Sam từng nhìn thấy Thuyền Diễn Kịch Câm. Dareon không thể lấy vợ! Cậu ta đã nói lời tuyên thệ rồi cơ mà! “Tôi phải đi đây.”

Rồi cậu cắm cổ chạy. Đó là một quãng đường dài trơn trượt đầy sỏi cuội. Chẳng mấy chốc Sam đã thở hồng hộc, chiếc áo choàng len to bản kêu lật phật sau lưng. Khi chạy cậu phải lấy một tay giữ đai đeo kiếm. Một số người trên đường ném cho cậu những ánh mắt tò mò, và có một con mèo còn nhảy

dựng lên nhe nanh với cậu. Khi tới được chỗ con thuyền cũng là lúc cậu loạng choạng. Cảng Hạnh Phúc nằm ngay phía bên kia con ngõ.

Mặt đỏ phừng phừng và thở không ra hơi, vừa bước vào cậu đã bị một người phụ nữ một mắt choàng tay qua cổ. “Đừng,” Sam nói với cô ta, “tôi không đến vì chuyện đó đâu.” Cô ta trả lời bằng tiếng Braavos. “Tôi không nói thứ ngôn ngữ đó,” Sam nói bằng tiếng High Valyrian. Những cây nến đang cháy và lửa đang lách tách trong lò sưởi. Ai đó đang kéo vi ô lông, và cậu nhìn thấy hai cô gái

đang nắm tay nhau nhảy quanh một thầy tu đỏ. Người phụ nữ một mắt áp ngực cô ta vào ngực cậu. “Đừng làm thế! Tôi không đến đây vì chuyện đó!”

“Sam!” Tiếng nói quen thuộc của Dareon cất lên. “Yna, để cậu ấy đi, đó là Sam Sát Nhân. Người anh em của ta!”

Người phụ nữ một mắt tránh sang một bên, dù vẫn đặt một tay lên cánh tay Sam. Một trong hai cô gái đang nhảy múa gọi với ra, “Anh ấy có thể gϊếŧ em nếu muốn,” và người còn lại nói, “Em có nghĩ anh ấy sẽ để chị chạm vào kiếm của anh ấy không?” Đằng sau họ là hình vẽ một chiếc tàu chiến ba cột buồm màu đỏ tía, và thủy thủ đoàn là những phụ nữ đi bốt cao đến gối, mình trần như nhộng. Một thủy thủ người Tyrosh đang nằm mê man một góc, ngáy khò khò trong bộ râu đỏ xồm xoàm. Ở góc bên kia

là một phụ nữ già hơn với bộ ngực bự đang chơi cờ domino với một gã to lớn đến từ đảo Summer trong áo choàng lông màu đen đỏ. Dareon ngồi giữa phòng, đang hôn hít lên cổ một người phụ nữ ngồi

trên đùi cậu ta. Cô gái đang mặc chiếc áo choàng đen của Dareon.

“Sát Nhân,” gã ca sĩ gọi với giọng lè nhè say, “đến đây gặp vợ tôi nào.” Mái tóc cậu ta màu cát và mật ong, nụ cười ấm áp. “Tôi hát tình ca cho cô ấy nghe. Phụ nữ đều tan chảy ra như bơ khi nghe tôi

hát. Làm sao tôi có thể cưỡng lại gương mặt này cơ chứ?” Dareon hôn lên mũi cô gái. “Vợ ơi, hãy hôn Sát Nhân một cái đi, cậu ấy là anh em kết nghĩa của ta.” Khi cô gái đứng lên, Sam thấy cô ta trần

truồng bên dưới lớp áo choàng. “Cậu đừng có tán tỉnh vợ tôi nhé, Sát Nhân,” Dareon nói và cười lớn. “Nhưng nếu cậu muốn có một trong số các chị em của cô ấy thì cứ tự nhiên. Tôi nghĩ là mình vẫn còn đủ tiền.”

Số tiền đáng lẽ phải dùng để mua thức ăn cho chúng ta, Sam nghĩ, số tiền đáng lẽ có thể mua củi để giữ ấm cho Maester Aemon. “Cậu đã làm gì thế? Cậu không thể kết hôn. Cậu đã nói lời tuyên thệ,

giống như tôi. Họ sẽ lấy đầu cậu vì chuyện này.”

“Chúng ta chỉ cưới trong đêm nay thôi, Sát Nhân. Và ở Westeros chẳng ai lấy đầu cậu vì chuyện đó cả. Cậu chưa đến thị trấn Mole để tìm kho báu bị chôn vùi à?”

“Không.” Sam đỏ mặt. “Tôi sẽ không bao giờ...”

“Thế còn con điếm du mục của cậu thì sao? Chắc hẳn cậu phải chơi cô ta vài lần rồi chứ. Suốt những đêm trong rừng, cùng nhau chui dưới tấm áo choàng của cậu, đừng nói với tôi là cậu chưa từng nhét nó vào trong cô ta nhé.” Cậu ta chỉ tay về phía một cái ghế. “Ngồi xuống đi, Sát Nhân. Uống một

cốc rượu. Chọn lấy một con điếm. Hưởng thụ cả hai đi.”

Sam không muốn uống rượu. “Cậu đã hứa sẽ trở về trước hoàng hôn. Cùng với rượu và thức ăn.”

“Đó là cách cậu gϊếŧ được Ngoại Nhân sao? Chửi hắn đến chết à?” Dareon phá lên cười. “Cô ấy là vợ tôi, không phải vợ cậu. Nếu cậu không thể uống mừng trong đám cưới của tôi thì hãy đi đi.”

“Đi với tôi,” Sam nói. “Maester Aemon đã tỉnh lại và muốn được nghe chuyện về những con rồng. Ông ấy nói về ngôi sao chảy máu, những cái bóng trắng, những giấc mơ, và… nếu chúng ta có thể tìm

hiểu thêm về lũ rồng, có thể điều đó sẽ giúp ông ấy thấy thoải mái hơn. Hãy giúp tôi.”

“Ngày mai. Không phải trong đêm đám cưới tôi.” Dareon đứng dậy, nắm tay cô dâu của mình và đi về phía cầu thang, kéo cô gái theo sau.

Sam chặn đường cậu ta. “Cậu đã hứa rồi, Dareon. Cậu đã tuyên thệ. Cậu là anh em của tôi.”

“Ở Westeros thôi. Cậu thấy nơi này giống Westeros lắm sao?”

“Maester Aemon…”

“…đang hấp hối. Tên thầy lang vằn vện mà cậu đã lãng phí tất cả tiền bạc của chúng ta cho hắn chẳng phải đã nói vậy sao.” Lời lẽ của Dareon trở nên độc địa. “Chọn lấy một ả điếm hoặc là ra khỏi

đây, Sam. Cậu đang làm hỏng đám cưới của tôi đấy.”

“Tôi sẽ đi,” Sam nói, “nhưng cậu sẽ đi với tôi.”

“Không. Tôi không còn dính líu gì đến cậu nữa. Không còn dính líu gì đến đám người áo đen.” Dareon cởi chiếc áo choàng đen ra khỏi người cô dâu lõα ɭồ của anh ta và ném nó vào mặt Sam. “Đây. Ném thứ giẻ rách này cho ông già đó, có thể ông ta sẽ thấy ấm hơn một chút đấy. Ta không cần nó nữa.

Sắp tới ta sẽ mặc đồ nhung. Sang năm ta sẽ mặc lông thú và ăn…”

Sam đấm cho hắn một cú trời giáng.

Sam không kịp suy nghĩ. Tay cậu giơ lên, nắm lại thành nắm đấm và giáng thẳng vào miệng tên ca sĩ. Dareon chửi rủa, cô vợ tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ của hắn ré lên, còn Sam lao vào tên ca sĩ và đẩy hắn ngã xuống một cái bàn thấp. Họ có chiều cao tương đương nhau, nhưng Sam nặng gấp hai lần, và trong chốc lát cậu giận dữ đến mức quên cả sợ hãi. Cậu đấm vào mặt, vào bụng tên ca sĩ, sau đó đánh túi bụi vào vai hắn bằng cả hai tay. Khi Dareon nắm được cổ tay cậu, Sam lao đầu vào mặt Dareon và làm rách môi hắn. Tên ca sĩ bỏ tay ra, cậu tiếp tục đấm vào mũi hắn. Đâu đó có tiếng một người đàn ông đang cười, một phụ nữ đang chửi rủa. Trận chiến có vẻ chậm chạp, như thể họ là hai con ruồi đang vật lộn trong

giọt hổ phách. Rồi ai đó kéo Sam ra khỏi ngực tên ca sĩ. Cậu đánh luôn cả người đó, và rồi một vật cứng đập vào đầu cậu.

Sau đó cậu chỉ biết mình bị tống ra ngoài giữa màn sương mù, đầu lao ra trước. Chỉ trong một tích tắc cậu thấy dòng nước đen phía dưới. Rồi nước kênh dâng lên và táp vào mặt cậu.

Sam chìm xuống như một hòn đá, một tảng đá mòn, một quả núi. Nước ngập vào mắt, vào mũi cậu, đen sì, lạnh lẽo và mặn chát. Càng cố kêu cứu, cậu lại càng uống thêm nước. Giãy đạp, chới với, cậu quay cuồng, bong bóng nổi lên từ mũi. Bơi đi, cậu tự nhủ, mình phải bơi. Nước biển tràn vào mắt cậu

cay xè khi cậu cố mở mắt ra, nên Sam chẳng nhìn thấy gì. Cậu ngoi lên trong một giây, chỉ đủ để hít một hơi rồi đập nước bằng một tay trong vô vọng, tay kia bám lấy bờ tường của con kênh. Nhưng bờ đá nhầy nhụa và trơn tuột nên cậu không thể bám. Một lần nữa cậu chìm xuống.

Sam cảm nhận được cơn ớn lạnh trên da thịt khi nước ngấm qua quần áo cậu. Đai đeo kiếm của

cậu tụt xuống và mắc lại quanh mắt cá chân. Mình sắp chìm rồi, cậu nghĩ trong cơn hoảng loạn. Cậu quẫy đạp, cố gắng ngoi lên mặt nước nhưng mặt cậu lại đập xuống đáy con kênh. Mình đang chúi đầu xuống dưới, cậu nhận ra điều đó. Mình đang chìm. Có cái gì đó di chuyển bên dưới tay cậu, một con cá hoặc một con lươn. Nó trườn qua những ngón tay cậu. Mình không thể chết chìm được, Maester Aemon sẽ chết mà không có mình bên cạnh, Gilly sẽ chẳng có ai. Mình phải bơi, mình phải...

Một tiếng tõm lớn vang lên, có cái gì đó áp sát người cậu, bên dưới cánh tay và vòng quanh ngực. Con lươn, ban đầu cậu nghĩ, nó sẽ kéo mình xuống. Cậu mở miệng ra định kêu, nhưng chỉ càng nuốt thêm nước. Mình sắp chết đuối, đó là suy nghĩ cuối cùng của cậu. Ôi các vị thần tốt bụng, mình sắp

chết đuối rồi.

Khi mở mắt ra, cậu thấy mình đang nằm ngửa và gã da đen người đảo Summer đang đấm vào bụng cậu bằng hai nắm đấm to như hai bắp đùi. Dừng lại, anh đang làm tôi đau, Sam cố hét lên. Nhưng thay

vì hét ra tiếng, cậu chỉ nôn ra toàn nước và thở dốc. Cậu ướt như chuột lột và đang nằm run rẩy trên đám sỏi trong một vũng nước. Gã người Summer tiếp tục đấm vào bụng cậu, và nước tiếp tục chảy ra từ mũi. “Dừng lại,” Sam hổn hển. “Tôi chưa chết đuối, tôi chưa chết đuối.”

“Chưa.” Người cứu cậu cúi xuống, thân hình to đen và nhỏ nước tong tỏng. “Cậu nợ Xhondo rất nhiều lông vũ đấy. Nước làm hỏng mất chiếc áo đẹp của Xhondo rồi.”

Đúng thế, Sam cũng nhận thấy như vậy. Chiếc áo khoác lông dính chặt vào tấm lưng to bản của người đàn ông da đen, ướt sũng và bẩn thỉu. “Tôi không cố ý...”

“...cố ý bơi hả? Xhondo nhìn thấy. Cậu vẫy đạp nhiều quá. Người béo phải nổi mới đúng.” Anh ta túm lấy chiếc áo chẽn của Sam bằng bàn tay to tướng và lôi cậu đứng lên. “Xhondo là bạn của Hương Quế. Mỗi ngôn ngữ anh ấy đều nói được một chút. Ở trong kia Xhondo cười khi nhìn thấy cậu đấm tên ca sĩ. Và Xhondo cũng đã nghe thấy.” Anh ta nhe răng cười. “Xhondo biết về những con rồng đấy.”