Lời Tiên Tri

Chương 3: Brienne

Hyle Hunt khăng khăng muốn đem mấy cái đầu về. “Tarly sẽ muốn treo đầu chúng lên tường thành,” hắn nói.

“Chúng ta không có nhựa đường,” Brienne phản đối. “Thịt sẽ bị thối rữa mất. Để lại đi.” Cô không muốn đem theo mấy cái đầu của những kẻ cô đã gϊếŧ qua khu rừng thông xanh tối tăm u ám.

Nhưng Hunt một mực không nghe. Hắn tự tay cắt cổ mấy cái xác, buộc chỏm tóc của ba cái đầu lại và treo chúng vào yên ngựa. Brienne chẳng còn cách nào, đành cố giả vờ như chúng không ở đó, nhưng thỉnh thoảng, đặc biệt là vào ban đêm, cô vẫn cảm thấy như những con mắt của người chết đang nhìn chằm chằm vào lưng cô, và có lần cô còn mơ thấy tiếng những cái đầu thì thầm với nhau.

Mũi Crackclaw lạnh lẽo và ẩm ướt khi họ quay lại con đường cũ. Thời tiết luôn trong tình trạng mưa hoặc sắp mưa. Chẳng có hôm nào trời ấm áp. Ngay cả khi dựng trại họ cũng không thể tìm đủ gỗ khô để nhóm lửa.

Cho đến khi tới cổng vào Maidenpool, họ đã kéo theo một đàn ruồi hộ tống, một con quạ ăn mất mắt Shagwell, còn đầu Pyg và Timeon thì lúc nhúc giòi bọ. Brienne và Podrick từ lâu đã cưỡi ngựa đi cách xa hàng trăm thước để tránh mùi hôi thối. Ser Hyle thì phàn nàn rằng lúc này chẳng còn khả năng ngửi được mùi gì nữa. “Chôn chúng đi,” cô bảo hắn mỗi lần họ dựng trại vào ban đêm, nhưng Hunt là kẻ quá cứng đầu. Hẳn là hắn rất thích thú được khoe với Lãnh chúa Randyll chiến công gϊếŧ ba tên đó.

Tuy nhiên, vì danh dự của một hiệp sĩ, hắn đã không làm như vậy.

“Cậu nhóc cận vệ nói lắp ném một hòn đá,” hắn nói khi hắn và Brienne bước vào sân của lâu đài Mooton và diện kiến Tarly. Những cái đầu được đưa cho một người chỉ huy nhóm lính canh. Anh ta được dặn cọ rửa, phết nhựa đường vào những cái đầu và treo chúng lên trên trước cổng. “Và cô ấy tự

mình giải quyết phần còn lại.”

“Cả ba người sao?” Lãnh chúa Randyll ngờ vực.

“Nhìn cách giao chiến của Brienne thì cô ấy còn có thể thắng thêm ba tên nữa.”

“Thế các ngươi có tìm được con bé Nhà Stark không?” Tarly hỏi cô.

“Không thấy, thưa lãnh chúa.”

“Thay vào đó cô lại gϊếŧ vài con chuột. Cô có thấy vui vẻ gì không?”

“Không thưa ngài.”

“Hừm, cô đã được nếm mùi máu rồi. Và cũng đã chứng minh được những gì cô muốn chứng minh. Giờ đã đến lúc cởi bỏ áo giáp và mặc quần áo phù hợp rồi đấy. Ngoài bến cảng có rất nhiều thuyền,

và một con thuyền sẽ cập bến ở Tarth. Ta sẽ cho cô lên đó.”

“Cảm ơn lãnh chúa, nhưng tôi sẽ không đi đâu.”

Nhìn biểu hiện trên mặt Lãnh chúa Tarly, có lẽ ông ta không mong muốn gì hơn việc xiên đầu cô vào một ngọn giáo và bêu trên cổng thành Maidenpool với Timeon, Pyg và Shagwell. “Cô muốn tiếp

tục trò ngu ngốc này sao?”

“Tôi muốn tìm tiểu thư Sansa.”

“Thưa lãnh chúa,” Ser Hyle nói, “Tôi đã chứng kiến cô ấy chiến đấu với Dị Nhân. Cô ấy mạnh mẽ hơn hầu hết đám đàn ông, và nhanh nhẹn nữa…”

“Là do thanh kiếm nhanh thôi,” Tarly ngắt lời. “Đó là bản chất của thép vùng Valyria. Mạnh mẽ hơn hầu hết đàn ông ư? Đúng. Cô ta là một sinh vật kỳ dị của tạo hóa. Sao ta có thể phủ nhận điều đó

được.”

Những người như ông ta sẽ không bao giờ yêu quý mình, Brienne nghĩ, dù mình có làm gì đi chăng nữa. “Thưa lãnh chúa, có thể Sandor Clegane sẽ biết chút tin tức gì đó từ cô gái. Nếu tôi tìm được

hắn...”

“Clegane giờ đã là tội phạm. Có vẻ hắn đang đi cùng Beric Dondarrion. Cũng có thể không, có rất nhiều luồng thông tin khác nhau. Hãy chỉ cho ta chỗ ẩn nấp của chúng, ta sẽ vui vẻ mổ bụng và moi

ruột gan chúng ra quăng vào lửa. Chúng ta đã treo cổ hàng chục tên tội phạm, nhưng những kẻ dẫn đầu vẫn đang ẩn nấp. Clegane, Dondarrion, tu sĩ đỏ, và giờ thì đến lượt mụ đàn bà Tim Đá này... cô định làm thế nào để được họ, trong khi ta còn không thể?”

“Thưa lãnh chúa, tôi...” Cô chẳng đưa được ra câu trả lời nào thuyết phục. “Tất cả những gì tôi có thể làm là thử sức.”

“Vậy thì cứ thử đi. Cô đã có lá thư, nên ta có đồng ý hay không cũng không quan trọng, nhưng dù sao ta vẫn cho phép cô. Nếu may mắn, cô sẽ chỉ bị ê mông do ngồi nhiều trên yên ngựa. Còn nếu

không, có thể Clegane sẽ cho cô sống sau khi hắn và bè lũ của hắn thay nhau cưỡиɠ ɧϊếp cô. Cô có thể bò về Tarth với con hoang của một tên chó chết nào đó trong bụng.”

Brienne phớt lờ những lời nói đó. “Thưa lãnh chúa, có bao nhiêu người đi cùng Chó Săn vậy?”

“Sáu, sáu mươi hoặc sáu trăm. Còn tùy xem người chúng ta hỏi là ai.” Randyll Tarly có vẻ đã chán ngán cuộc hội thoại này ra mặt. Ông ta bắt đầu quay đi.

“Liệu tôi và cận vệ của tôi có thể nương nhờ ở chỗ của ngài cho đến khi…”

“Cứ xin tất cả những gì cô thích. Ta sẽ không chứa chấp cô dưới mái nhà của ta.”

Ser Hyle Hunt bước lên phía trước. “Thưa lãnh chúa, theo những gì tôi biết thì đây vẫn là mái nhà của Lãnh chúa Mooton.”

Tarly quắc mắt nhìn. “Mooton hèn nhát như loài sâu bọ. Ngươi đừng nhắc đến Mooton trước mặt ta. Còn cô, tiểu thư, ta nghe nói cha cô là người tốt. Nếu vậy thì thật đáng tiếc cho ông ấy. Một số

người được ban cho con trai, một số người được ban con gái. Nhưng chẳng có ai bị nguyền rủa đến mức sinh ra một kẻ như cô. Dù sống hay chết, tiểu thư Brienne, cô cũng đừng quay lại Maidenpool một khi ta còn trị vì ở đây.”

Lời nói gió bay, Brienne tự nhủ. Lời nói không thể làm hại ai. Cứ mặc chúng. “Vâng thưa lãnh chúa,” cô cố nói, nhưng khi thốt được nên lời thì Tarly đã bỏ đi. Cô bước ra ngoài khoảnh sân như kẻ

mộng du, chẳng biết mình đang đi đâu.

Ser Hyle chạy tới đi cạnh cô. “Ngoài kia có nhà trọ đấy.”

Cô lắc đầu. Cô không muốn nói chuyện với Hyle Hunt.

“Cô có còn nhớ Ngỗng Thối không?”

Áo khoác của anh ta vẫn còn vương mùi quán rượu đó. “Có chuyện gì?”

“Trưa mai hãy gặp tôi ở đó. Em họ Alyn của tôi là một trong những người được cử đi tìm Chó Săn. Tôi sẽ nói chuyện với cậu ta.”

“Tại sao anh lại làm vậy?”

“Tại sao không? Nếu cô thành công trong khi Alyn thất bại, tôi sẽ được thể chế giễu ông ta về chuyện đó hết năm này qua năm khác.”

Ở Maidenpool vẫn có nhà trọ; Ser Hyle nói đúng. Tuy nhiên một số nhà trọ đã bị đốt trong những cuộc cướp phá và đến giờ vẫn chưa được xây dựng lại. Những nhà trọ còn lại thì lúc nào cũng hết

phòng hoặc chật cứng với quân lính của Lãnh chúa Tarly. Cô và Podrick đã ghé thăm không sót một nhà trọ nào vào trưa hôm đó, nhưng không nơi nào còn giường trống.

“Ser? Tiểu thư?” Podrick hỏi khi mặt trời dần lặn. “Ngoài kia có thuyền. Trên thuyền sẽ có giường, võng hoặc một chỗ cho chúng ta ngủ.”

Người của Lãnh chúa Randyll vẫn lảng vảng ở bến thuyền, đông như lũ ruồi bâu quanh ba cái đầu của bọn Dị Nhân Khát Máu, nhưng chỉ huy của bọn họ biết Brienne và cho cô qua. Đám dân chài địa

phương đang buộc thuyền để nghỉ đêm và rao bán số cá ban ngày bắt được, nhưng cô thích những chiếc thuyền lớn hơn, bởi chúng có thể chống chọi với sóng nước dữ dội của vùng biển hẹp. Khoảng sáu con thuyền đang đậu ở bến, nhưng một chiếc ga-lê ba cột buồm mang tên Con Gái Thần Titan đang tháo dây để ra khơi lúc chiều tà. Cô và Podrick Payne lên hỏi những con thuyền còn lại. Chủ chiếc thuyền Cô Gái Gulltown tưởng Brienne là gái điếm và nói thuyền của ông ta không phải là một nơi bẩn thỉu. Một gã phóng lao móc trên chiếc thuyền săn cá voi Người Ibben thì đòi mua cậu nhóc. Tuy nhiên họ lại gặp may ở chỗ khác. Cô mua cho Podrick một quả cam trên thuyền Vượt Biển, vừa mới từ Oldtown qua Tyrosh, Pentos và Duskendale để đến đây. “Điểm tiếp theo là Gulltown,” thuyền trưởng nói với cô, “sau đó đi quanh Quần đảo Fingers tới Sisterton và Cảng White, nếu trời không giông bão. Thuyền của chúng tôi rất sạch sẽ, đặc biệt không có nhiều chuột. Chúng tôi có trứng tươi và bơ mới đánh trên boong. Tiểu thư đang muốn đi về phương bắc đúng không?”

“Không.” Chưa phải lúc này. Cô rất muốn, nhưng…

Khi họ đang trên đường sang cầu tàu tiếp theo, Podrick bồn chồn di chân và hỏi, “Ser… thưa tiểu thư, nếu tiểu thư đã về nhà rồi thì sao? Ý tôi là tiểu thư kia ấy, ser. Tiểu thư Sansa ấy.”

“Họ đốt nhà cô ấy rồi.”

“Nhưng, nơi đó có các vị thần của cô ấy. Và các vị thần không thể chết.”

Các vị thần không chết, nhưng các cô gái thì có. “Timeon là một gã độc ác, một tên gϊếŧ người, nhưng ta không nghĩ hắn nói dối về chuyện Chó Săn. Chúng ta không thể đi về phương bắc nếu chưa

biết điều gì chắc chắn. Sẽ lại có những con thuyền khác thôi.”

Ở cuối bến cảng về phía đông, cuối cùng họ cũng tìm được một chỗ trú qua đêm, trên boong một chiếc thuyền buôn rách nát vì bão biển mang tên Tiểu Thư Vùng Myr. Con thuyền nghiêng hẳn sang một bên, cột buồm và một nửa số thủy thủ đoàn đã ra đi trong một cơn bão, nhưng chủ thuyền không có đủ

tiền để sửa chữa nó. Thế nên ông ta rất vui vẻ nhận vài đồng xu từ Brienne để cô và Pod chung nhau

một cabin trống.

Họ trải qua một đêm chẳng mấy yên bình. Ba lần Brienne thức giấc. Một lần khi trời bắt đầu mưa, một lần bởi tiếng cọt kẹt khiến cô tưởng Dick Lanh Lợi đang bò vào để gϊếŧ cô. Lần thứ hai, cô tỉnh dậy với con dao trong tay, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Trong bóng tối tràn ngập căn phòng chật hẹp, cô phải mất một lúc mới nhớ ra rằng Dick Lanh Lợi đã chết. Khi cuối cùng cũng ngủ được trở lại thì cô lại mơ thấy những kẻ cô đã gϊếŧ. Chúng nhảy nhót xung quanh cô, cười nhạo cô, cấu véo cô khi cô chém chúng bằng thanh kiếm của mình. Cô chém tất cả bọn chúng tan tác thành từng mảnh, thế nhưng chúng vẫn vây quanh cô… Shagwell, Timeon, và Pyg, đúng, nhưng cả Randyll Tarly, Vargo Hoat, và Ronnet Connington Đỏ nữa. Ronnet kẹp một bông hồng giữa hai ngón tay. Khi Ronnet đưa nó

cho cô, cô chặt cụt tay anh ta.

Cô toát mồ hôi tỉnh dậy, và suốt đêm hôm đó cô cuộn mình dưới chiếc áo choàng, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp xuống boong thuyền phía trên đầu. Đó là một đêm dữ dội. Hết lần này đến lần khác cô

nghe thấy tiếng sấm từ đằng xa và nghĩ đến con thuyền của Braavos đã ra khơi lúc chiều tà.

Sáng hôm sau cô tới Ngỗng Thối một lần nữa, đánh thức bà chủ quán rượu nhếch nhác và gọi vài chiếc xúc xích chiên mỡ, bánh mỳ rán, nửa cốc rượu, một bình nước sôi và hai chiếc cốc sạch. Người phụ nữ nheo mắt nhìn Brienne khi bà ta đang đổ nước vào đun. “Cô là cô gái cao to đi cùng với Dick

Lanh Lợi đúng không? Tôi vẫn nhớ. Hắn lừa cô à?”

“Không.”

“Cưỡиɠ ɧϊếp cô à?”

“Không.”

“Ăn cắp ngựa của cô?”

“Không. Hắn bị bọn cướp gϊếŧ rồi.”

“Bọn cướp?” Người phụ nữ có vẻ tò mò hơn là buồn bã. “Tôi luôn nghĩ Dick sẽ bị treo cổ hoặc bị đày đến Tường Thành.”

Họ ăn bánh mỳ và một nửa số xúc xích. Podrick Payne uống kèm với nước có vị rượu, còn Brienne nhâm nhi một cốc rượu pha nước lọc và tự hỏi tại sao cô lại tới đây. Hyle Hunt đâu phải là hiệp sĩ thực thụ. Khuôn mặt thật thà của hắn chỉ là chiếc mặt nạ của diễn viên kịch mà thôi. Ta không cần hắn giúp đỡ, không cần hắn bảo vệ, ta không cần hắn, cô tự nhủ. Thậm chí có thể hắn còn không

đến. Việc hắn hẹn ta ở đây chắc hẳn lại là một trò đùa.

Cô đang đứng dậy chuẩn bị đi thì Ser Hyle tới. “Tiểu thư. Podrick.” Hắn liếc nhìn đám cốc, đĩa và chỗ xúc xích ăn dở nguội lạnh trong vũng mỡ đông và nói. “Ôi các vị thần ơi, tôi hy vọng cô không ăn

đồ ăn ở đây chứ.”

“Tôi ăn gì không liên quan đến anh,” Brienne nói. “Anh gặp em họ chưa? Cậu ta nói gì?”

“Người ta nhìn thấy Sandor Clegane lần cuối ở Saltpans, ngày cuộc cướp bóc diễn ra. Sau đó hắn đi về phía tây, dọc theo dòng Trident.”

Cô nhíu mày. “Sông Trident rất dài.”

“Đúng, nhưng tôi nghĩ con chó của chúng ta sẽ không đi quá xa cửa sông đâu. Có vẻ hắn không còn thích thú gì với Westeros nữa. Khi ở Saltpans hắn đang kiếm một con thuyền.” Ser Hyle rút ra một

cuộn da cừu từ trong bốt, đẩy đĩa xúc xích sang một bên và dở cuộn giấy da ra. Đó là một tấm bản đồ. “Chó Săn gϊếŧ chết ba người anh em của hắn trong một nhà trọ cũ ở Ngã Tư, ở đây. Hắn lãnh đạo cuộc cướp phá ở Saltpans, ở đây.” Hyle Hunt gõ gõ ngón tay vào vùng Saltpans. “Có thể hắn đã bị mắc lại

ở đây. Nhà Frey ở đây, chỗ Song Thành, Darry và Harrenhal ở phía nam bên kia dòng Trident, ở phía tây có chiến tranh giữa Nhà Blackwood và Nhà Bracken, và Lãnh chúa Randyll thì ở đây, tại

Maidenpool này. Đông Lộ dẫn tới Thung Lũng thì đã ngập tuyết, cho dù hắn có vượt qua được các bộ tộc miền núi. Con chó còn biết đi đâu nữa?”

“Nếu hắn đi cùng Dondarrion...?”

“Không đâu. Alyn chắc chắn điều đó. Người của Dondarrion cũng đang tìm hắn. Bọn chúng đã tuyên bố sẽ treo cổ hắn vì những gì hắn làm ở Saltpans. Bọn chúng không liên quan gì đến vụ việc đó. Lãnh chúa Randyll nói rằng họ đang hy vọng có thể khiến dân chúng quay sang căm ghét Beric và các anh em của hắn. Ông ta sẽ không bao giờ bắt được Lãnh chúa Tia Chớp một khi người dân còn bảo vệ

hắn. Ngoài ra còn một nhóm nữa dẫn đầu là một phụ nữ tên Tim Đá… người tình của Lãnh chúa Beric, một số người nói vậy. Hình như người Nhà Frey treo cổ bà ta, nhưng sau cái hôn của Dondarrion bà ta sống dậy, và giờ cũng giống như Beric Dondarrion, bà ta không thể chết.”

Brienne quan sát kỹ tấm bản đồ. “Nếu Clegane được nhìn thấy lần cuối ở Saltpans, thì ta sẽ tìm thấy dấu vết của hắn ở đó.”

“Ở Saltpans Alyn nói chẳng còn ai ngoài một hiệp sĩ già ở ẩn trong lâu đài.”

“Nhưng đó vẫn là một điểm để bắt đầu.”

“Có một người,” Ser Hyle nói. “Một thầy tu. Ông ta đi qua cổng chỗ tôi ngay trước hôm cô đến. Tên ông ta là Meribald. Ông ta sinh ra và lớn lên bên sông, và đã phục vụ ở đây cả đời. Ngày mai ông ta sẽ lên đường đi kinh lý, và Saltpans luôn là một trong số các điểm dừng. Chúng ta nên đi cùng ông

ấy.”

Brienne quắc mắt nhìn lên. “Chúng ta?”

“Tôi sẽ đi với cô.”

“Không được.”

“Hừm, tôi sẽ đi với Septon Meribald tới Saltpans. Còn cô và Podrick thích đi chỗ quái nào cũng được.”

“Lãnh chúa Randyll lại ra lệnh cho anh theo dõi tôi đấy à?”

“Ông ấy ra lệnh cho tôi tránh xa cô ra. Viễn cảnh Lãnh chúa Randyll vẽ ra là cô sẽ được một trận hãʍ Ꮒϊếp ra trò.”

“Thế tại sao anh lại đi cùng tôi?”

“Một là đi cùng cô, hai là quay lại gác cổng.”

“Nếu lãnh chúa của anh ra lệnh…”

“Ông ta không phải lãnh chúa của tôi nữa rồi.”

Cô giật mình ngạc nhiên. “Anh không phục vụ ông ấy nữa sao?”

“Ông ta tuyên bố rằng không cần một tay kiếm như tôi nữa, hay đúng hơn là không cần một tên xấc láo như tôi nữa. Như nhau cả ấy mà. Từ giờ trở đi tôi sẽ tận hưởng cuộc sống phiêu bạt của một hiệp sĩ lang thang... tuy nhiên nếu tìm được Sansa Stark, tôi nghĩ chúng ta sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng.”

Vàng và đất đai, đó là những gì hắn thấy trong vụ việc này. “Tôi muốn cứu cô bé, chứ không phải bán nó. Tôi đã thề rồi.”

“Tôi không nhớ là mình từng thề.”

“Đó là lý do tại sao anh không được đi với tôi.”

Sáng hôm sau họ lên đường khi mặt trời mọc.

Đám người trông có vẻ kỳ quặc: Ser Hyle trên lưng một con ngựa chiến màu hạt dẻ, Brienne trên con ngựa cái xám cao, Podrick Payne vắt vẻo trên con bò đực lưng võng, và Septon Meribald đi bộ bên cạnh họ, tay cầm cây gậy dài, tay dắt một con lừa nhỏ và một con chó to. Con lừa phải mang đống đồ nặng đến nỗi Brienne sợ nó sẽ gãy lưng. “Đây là thức ăn cho những người nghèo ở vùng ven sông,”

Septon Meribald nói với họ khi đến cổng Maidenpool. “Hạt khô, quả hạch, trái cây sấy, cháo yến mạch, bột mỳ, bánh mỳ lúa mạch, ba cục bơ tròn từ nhà trọ bên Cổng Gã Hề, cá thu muối cho ta, thịt cừu muối cho Chó… à, và muối nữa. Còn có hành, cà rốt, củ cải, hai bao tải đỗ, bốn bao lúa mạch, và chín túi cam. Phải thừa nhận là ta rất thích cam. Cái này ta có được từ chỗ một thủy thủ, và e rằng đây là những quả cam cuối cùng ta được ăn từ giờ cho đến mùa xuân.”

Meribald là một thầy tu không có điện thờ, và chỉ hơn hội anh em ăn mày trong thang bậc của Thất Diện Thần một bậc. Có hàng trăm người giống ông ta, một nhóm người khố rách với nhiệm vụ khiêm tốn là lê la từ ngôi làng nghèo khổ này đến ngôi làng nghèo khổ khác, thực hiện những nghi lễ thánh, chủ trì hôn lễ và rửa tội. Những người ông ta tới thăm phải cho ông ta ăn ở, nhưng hầu hết bọn họ cũng

nghèo khổ không kém, vì thế Meribald không thể nán lại một nơi quá lâu, nếu không sẽ gây khó khăn cho cuộc sống của chủ nhà. Những chủ nhà trọ tốt bụng thỉnh thoảng vẫn cho ông ấy ngủ trong bếp hoặc chuồng ngựa. Ngoài ra còn một số tu viện, pháo đài, thậm chí vài lâu đài nơi ông biết mình sẽ được đón tiếp khi tới đó.

Khi không tìm được những nơi như vậy, ông ta sẽ ngủ dưới những tán cây hoặc dưới hàng rào. “Có rất nhiều hàng rào tử tế ở vùng đất ven sông,” Meribald nói. “Những hàng rào cũ là tốt nhất. Không có nơi nào tốt hơn một hàng rào hàng trăm năm tuổi. Trong đó một người có thể ngủ thoải mái như trong

nhà trọ mà không phải sợ đám bọ chét.”

Theo như những gì ông ta phấn khởi thú nhận trên đường thì vị thầy tu này không biết đọc cũng không biết viết, nhưng ông ta biết hàng trăm lời cầu nguyện khác nhau và có thể trích đọc lại những đoạn dài từ cuốn kinh Ngôi Sao Bảy Cánh. Đó cũng là tất cả những gì ông ta cần làm trong các ngôi

làng. Ông ta có khuôn mặt đỏ ửng vì gió sương và chằng chịt sẹo, mớ tóc xám dày bù xù và những nếp nhăn nơi đuôi mắt. Tuy cao tới hơn một mét tám nhưng kiểu đi khom người về phía trước khiến ông trông thấp hơn nhiều. Hai bàn tay to và chai sạn, những đốt ngón tay đỏ lựng lên và dưới móng tay đầy đất cát. Ông ta là người có bàn chân to nhất mà Brienne từng thấy, đôi chân trần đen nhẻm và cứng như sừng.

“Ta đã không đi giày hai mươi năm nay rồi,” ông ta nói với Brienne. “Năm đầu tiên, số vết phồng rộp còn nhiều hơn số ngón chân, vết thương tứa máu be bét mỗi lần giẫm phải hòn đá cứng, nhưng ta

đã cầu nguyện và Thợ Sửa Giày Bề Trên đã giúp da chân ta cứng như da thuộc.”

“Làm gì có vị thần nào là Thợ Sửa Giày,” Podrick phản kháng.

“Có đấy, nhóc ạ... tuy nhiên có thể cậu gọi ông ấy bằng cái tên khác mà thôi. Hãy nói xem, cậu yêu quý ai nhất trong số Thất Diện Thần?”

“Thần Chiến Binh,” Podrick nói không một chút do dự.

Brienne hắng giọng. “Ở Evenfall thầy tu của cha tôi luôn nói rằng chỉ có một vị thần duy nhất.”

“Một vị thần với bảy diện mạo. Đúng vậy, tiểu thư nói đúng, nhưng những bí ẩn đằng sau việc Bảy Người Là Một thì đám dân thường không dễ gì hiểu được. Và nếu không làm cho mọi thứ đơn giản thì ta chẳng là gì, vì thế ta nói về bảy vị thần.” Meribald quay lại nói với Podrick. “Chẳng có cậu bé nào không yêu quý Thần Chiến Binh. Nhưng ta già rồi, và là một ông lão, ta yêu quý Thần Thợ Rèn. Nếu

không có ông ấy thì Thần Chiến Binh bảo vệ cái gì? Mỗi thị trấn đều có một thợ rèn, và mỗi tòa lâu đài cũng vậy. Họ làm những lưỡi cày cần thiết cho trồng trọt, những chiếc đinh để đóng tàu thuyền, những chiếc móng sắt để bảo vệ chân cho lũ ngựa trung thành, và những thanh kiếm sáng loáng cho các lãnh chúa của chúng ta. Không ai có thể phủ nhận giá trị của một thợ rèn, và vì thế chúng ta đặt tên cho một trong Thất Diện Thần là Thợ Rèn để vinh danh họ. Nhưng chúng ta cũng có thể dễ dàng gọi vị thần đó là Nông Dân, Ngư Dân, Thợ Mộc hay Thợ Sửa Giày. Nghề nghiệp của ngài không quan trọng. Vấn đề là ngài có làm việc. Đức Cha trị vì, Thần Chiến Binh chiến đấu, Thần Thợ Rèn lao động, và cùng với nhau, họ thực hiện tất cả những công việc mà một người đàn ông phải làm. Cũng giống như Thợ Rèn là một diện mạo của thần linh, Thợ Sửa Giày cũng là một diện mạo của Thợ Rèn. Chính ngài đã

nghe lời cầu nguyện của ta và chữa lành chân cho ta.”

“Các vị thần tốt bụng,” Ser Hyle lạnh lùng nói, “nhưng sao ông phải làm phiền họ trong khi ông chỉ việc đi giày là xong?”

“Đi chân trần là cách sám hối của ta. Ngay cả những thầy tu đáng kính vẫn có thể là kẻ tội đồ, và con người ta cũng yếu đuối như bao kẻ khác. Khi còn trẻ ta cũng tràn đầy sinh lực, và với các cô gái...

một thầy tu cũng có thể ga lăng như một hoàng tử nếu đó là người đàn ông duy nhất mà cô ta biết trong vòng một dặm quanh làng. Ta sẽ đọc cho họ những câu kinh trong Ngôi Sao Bảy Cánh. Hữu dụng nhất là cuốn sách về Trinh Nữ. Ôi, trước khi vứt đôi giày đi ta là một gã đàn ông xấu xa. Thật xấu hổ khi nghĩ đến tất cả các cô gái từng bị ta phá trinh.”

Brienne xoay người khó chịu trên lưng ngựa khi nhớ lại hồi còn ở trại lính dưới tường thành của Highgarden, khi Ser Hyle cùng những kẻ khác cá cược xem ai là người lên giường với cô đầu tiên.

“Chúng tôi đang tìm một trinh nữ,” Podrick Payne kể lể. “Một tiểu thư quý tộc 13 tuổi có mái tóc màu nâu vàng.”

“Ta tưởng các người đi tìm lũ tội phạm chứ.”

“Cả bọn chúng nữa,” Podrick thừa nhận.

“Hầu hết những người du hành sẽ cố gắng hết sức để tránh xa bọn chúng,” Septon Meribald nói, “vậy mà các người lại đi tìm họ.”

“Chúng tôi chỉ tìm một tên tội phạm thôi,” Brienne nói. “Đó là Chó Săn.”

“Ser Hyle đã nói cho ta rồi. Cầu mong Thất Diện Thần sẽ bảo vệ cô, cô bé ạ. Người ta nói dấu vết hắn để lại phía sau là những đứa trẻ bị gϊếŧ hại và những cô gái bị hắn hãʍ Ꮒϊếp. Ta cũng nghe người ta

gọi hắn là Con Chó Điên vùng Saltpans. Một người dân lành mong gì ở một kẻ như vậy chứ?”

“Cô gái mà Podrick nhắc đến có thể đang đi với hắn.”

“Thật ư? Vậy thì chúng ta phải cầu nguyện cho cô gái tội nghiệp đó thôi.”

Và cho ta nữa, Brienne nghĩ, ta cũng cần một lời cầu nguyện. Mong Bà Già sẽ giơ cao chiếc đèn

và dẫn ta tới chỗ tiểu thư Sansa, và Thần Chiến Binh giúp cánh tay ta thêm mạnh mẽ để ta có thể bảo vệ cô ấy. Tuy nhiên cô không nói ra những lời cầu nguyện đó, không thể để Hyle Hunt nghe thấy, nếu không hắn sẽ mỉa mai sự yếu đuối của phụ nữ trong cô.

Bởi Septon Meribald đi bộ và con lừa của ông ta phải mang quá nặng nên cả ngày hôm đó họ di chuyển vô cùng chậm chạp. Họ không đi theo con đường lớn về phía Tây, con đường mà Brienne từng đi cùng Ser Jaime lần trước. Khi đó họ đi theo hướng ngược lại và tìm thấy một Maidenpool bị cướp phá và đầy rẫy xác người. Còn lần này, họ đi về phía tây bắc dọc theo bờ vịnh Crabs trên con đường khúc khuỷu và nhỏ đến nỗi nó không xuất hiện trên cả hai tấm bản đồ da cừu quý giá của Ser Hyle. Ở phía bên này của Maidenpool không còn bóng dáng những ngọn đồi dốc đứng, đầm lầy đen kịt và rừng thông của mũi Crackclaw. Vùng đất họ đi qua thấp và ẩm ướt, một vùng hoang sơ chỉ có những cồn cát và đầm lầy nước mặn dưới vòm trời xanh xám bao la. Con đường dường như biến mất trong đám lau

sậy và các hồ thủy triều, rồi một dặm sau đó mới xuất hiện trở lại; không có Meribald, Brienne dám chắc họ sẽ lạc đường. Mặt đất thường mềm xốp, nên có nhiều đoạn thầy tu sẽ đi lên trước với cây gậy dò đường. Nhiều dặm xung quanh không có một bóng cây, chỉ có biển, trời và cát.

Không đâu tương phản với Tarth như vùng đất này. Nơi cô ở đầy rẫy núi non, thác nước, những đồng cỏ cao nguyên và những thung lũng râm mát. Tuy nhiên, nơi này vẫn có vẻ đẹp riêng của nó,

Brienne nghĩ vậy. Họ đã vượt qua hàng chục dòng suối nước chảy lững lờ, nơi sinh sống của bao nhiêu ếch nhái, dế mèn, được nhìn những con nhạn biển chao liệng trên cao, nghe tiếng chim dẽ cát gọi nhau trong những cồn cát. Có lần một con cáo băng ngang qua đường khiến con chó của Meribald sủa nhặng xị.

Và cả con người nữa. Một số người sống trong bãi lau sậy trong những ngôi nhà làm từ bùn và rơm, một số khác làm nghề đánh cá trên những chiếc chuyền thúng bọc da và xây nhà trên những chiếc cọc gỗ yếu ớt trồng trên cát. Hầu hết bọn họ sống một mình, cách xa nơi sinh sống của mọi người xung quanh. Phần lớn bọn họ đều có vẻ nhút nhát, nhưng gần đến trưa con chó của thầy tu lại sủa ầm ĩ khi ba phụ nữ xuất hiện từ trong đám lau sậy và đưa cho Meribald một rổ đầy trai sò. Đổi lại, ông ta cho mỗi người họ một quả cam mặc dù ở đây trai biển đầy rẫy khắp nơi, còn cam thì hiếm hoi và đắt đỏ. Một

trong ba người phụ nữ đã rất già, một người nữa đang mang thai và người còn lại là một cô gái xinh đẹp và tươi tắn như bông hoa mùa xuân. Khi Meribald đưa họ đi xưng tội, Ser Hyle cười khúc khích nói. “Dường như các vị thần cũng đi cùng chúng ta... ít nhất chúng ta đã có Trinh Nữ, Đức Mẹ và Bà Già ở đây rồi.” Podrick trông có vẻ kinh ngạc đến nỗi Brienne phải giải thích rằng không phải, họ chỉ là ba phụ nữ vùng đầm lầy mà thôi.

Sau đó khi họ tiếp tục lên đường, cô quay sang nói với vị tu sĩ, “Những người này sống cách Maidenpool gần một ngày đường, nên cuộc chiến vẫn chưa ảnh hưởng đến họ.”

“Họ chẳng có gì để những kẻ khác thèm gây chiến, tiểu thư ạ. Của cải của họ là vỏ sò, sỏi đá và thuyền thúng bọc da, vũ khí hiện đại nhất của họ là những con dao làm từ sắt gỉ. Họ được sinh ra,

sống, yêu, và chết. Họ chỉ biết lãnh chúa Mooton cai trị vùng đất của họ, nhưng ít ai từng gặp ông ta,

và Riverrun hay Vương Đô ư? Chúng chỉ đơn thuần là những cái tên.”

“Vậy mà họ lại biết về các vị thần,” Brienne nói. “Đó là nhờ có ông, tôi nghĩ vậy. Ông đi bộ dọc những vùng đất ven sông được bao lâu rồi?”

“Gần bốn mươi năm,” thầy tu trả lời trong khi con chó của ông ta cất tiếng sủa lớn. “Bắt đầu từ Maidenpool và kết thúc ở Maidenpool, chuyến kinh lý của ta kéo dài nửa năm và thường dài hơn thế nữa, nhưng ta không dám nói rằng mình hiểu về vùng Trident. Ta chỉ thoáng nhìn thấy những tòa lâu đài của các lãnh chúa lớn từ đằng xa, nhưng ta biết về những khu chợ và pháo đài, các ngôi làng nhỏ đến

nỗi không có nổi một cái tên, các hàng rào, đồi cây, những dòng suối để một người uống khi khát và hang động cho anh ta trú ẩn. Và ta biết cả những con đường mà dân chúng vẫn đi lại, những lối mòn nhỏ lầy lội, ngoằn ngoèo.” Ông ta cười khùng khục. “Chính chân ta đã đi trên những con đường đó, không dưới mười lần rồi.”

Những kẻ ngoài vòng pháp luật thường di chuyển trên đường phụ, và hang động là nơi lý tưởng nhất để săn người hoặc ẩn nấp. Đột nhiên trong Brienne nhói lên một mối nghi ngờ. Không hiểu Ser

Hyle biết về người đàn ông này đến đâu? “Cuộc sống của ông chắc hẳn cô đơn lắm nhỉ.”

“Thất Diện Thần luôn ở đây với ta,” Meribald nói, “ta cũng đã có người đầy tớ trung thành của mình, và Chó nữa.”

“Con chó của ông có tên không?” Podrick Payne hỏi.

“Chắc hẳn là có,” Meribald nói, “Nhưng đây không phải là chó của ta. Không phải nó.”

Con chó sủa và vẫy đuôi. Con vật vĩ đại lông lá đó phải nặng ít nhất là sáu chục cân, nhưng nó rất thân thiện.

“Vậy thì nó thuộc về ai?” Podrick hỏi.

“Thuộc về chính nó và thuộc về Thất Diện Thần. Còn tên thì nó có nói đâu, nên ta gọi nó là Chó.”

“Ồ.” Podrick thực sự không hiểu tại sao lại đặt tên cho một con chó là Chó. Cậu nhóc ngẫm nghĩ về điều đó một lát rồi nói. “Hồi nhỏ tôi cũng từng có một con chó. Tôi gọi nó là Anh Hùng.”

“Thật sao?”

“Thật chuyện gì cơ?”

“Chuyện anh hùng ấy.”

“Không, nhưng đó là một con chó ngoan. Nó chết rồi.”

“Chó bảo vệ ta an toàn trên đường, ngay cả trong những khoảng thời gian khó khăn như thế này. Cả sói lẫn bọn tội phạm đều không dám quấy rầy ta khi có Chó ở bên cạnh.” Vị thầy tu nhíu mày. “Những

con sói gần đây ngày càng trở nên đáng sợ. Có những nơi nếu ai đó đi một mình thì cách tốt nhất là trèo lên cây ngủ. Đàn sói lớn nhất ta từng thấy cùng lắm chỉ có đến chục con, nhưng đàn sói vĩ đại lảng vảng dọc bờ sông Trident này đã lên tới hàng trăm rồi.”

“Ông đã tận mắt nhìn thấy chúng chưa?” Ser Hyle hỏi.

“Tạ ơn Thất Diện Thần ta chưa phải chạm trán chúng, nhưng đêm đêm ta vẫn nghe thấy chúng và không chỉ có một lần đâu. Rất nhiều tiếng sói… một thứ hợp âm khiến máu ta đông lại. Ngay cả Chó

còn phải rùng mình, mà Chó đã gϊếŧ được hàng tá sói rồi đấy.” Ông xoa đầu con chó. “Một số người sẽ nói chúng là ác quỷ. Họ nói dẫn đầu đàn sói là một con sói cái khổng lồ gớm guốc, một cái bóng xám vĩ đại và hung tợn. Họ nói con sói cái nổi tiếng vì từng một mình hạ gục bò rừng, rằng không chiếc bẫy nào có thể bắt được nó, rằng nó không sợ giáo gươm cũng không sợ lửa, nó gϊếŧ chết bất kỳ con sói nào muốn giao phối với nó và không ăn thịt loài vật nào khác trừ con người.”

Ser Hyle Hunt phá lên cười. “Giờ thì ông thành công rồi đấy tu sĩ. Mắt Podrick tội nghiệp đang mở to như trứng luộc rồi kia kìa.”

“Đâu có,” Podrick nói với vẻ phẫn nộ. Chó lại sủa ầm ĩ.

Đêm đó họ cắm trại trên một đυ.n cát trong cảnh lạnh lẽo. Brienne sai Podrick xuống bờ biển để tìm chút gỗ trôi về đốt lửa, nhưng cậu nhóc tay trắng quay về với bùn ngập trên đầu gối. “Thủy triều

rút rồi, thưa ser… tiểu thư. Ngoài đó không có nước, chỉ có bùn thôi.”

“Tránh xa vũng bùn ra, nhóc ạ,” Septon Meribald khuyên. “Bãi bùn rất thích những người lạ. Nếu cậu đi nhầm chỗ, bãi bùn sẽ mở ra và nuốt sống cậu đấy.”

“Đó chỉ là bùn thôi mà,” Podrick khăng khăng.

“Cho đến khi nó lấp đầy miệng và bắt đầu chui vào mũi cậu. Sau đó cậu sẽ chết.” Ông mỉm cười

để lời lẽ bớt ghê rợn hơn. “Lau sạch bùn đi và lại ăn một miếng cam nào nhóc.”

Ngày tiếp theo cũng y hệt như vậy. Họ ăn sáng với cá thu muối và tiếp tục ăn cam, sau đó lên đường trước khi mặt trời lên hẳn, bầu trời phía sau họ ửng màu hồng, còn trước mặt họ là màu đỏ tía. Con chó đi trước dẫn đường, nó ngửi mọi đám sậy và cứ thỉnh thoảng lại dừng để tè một bãi; Dường như con chó cũng biết rõ đường chẳng kém gì Meribald. Tiếng nhạn biển kêu nghe run rẩy trong không

gian buổi sớm khi thủy triều lên.

Gần giữa trưa họ dừng lại ở một ngôi làng nhỏ xíu, cũng là ngôi làng đầu tiên họ gặp, nơi tám trong số các căn nhà sàn hiện ra bên một dòng suối nhỏ. Đàn ông đang ra ngoài đánh cá trên những con thuyền thúng, còn phụ nữ và các cậu bé trèo xuống từ những chiếc thang dây lủng lẳng để tới tụ tập

quanh Septon Meribald cầu nguyện. Sau khi tế lễ, ông rửa tội và để lại cho họ một ít củ cải, một bao đỗ và hai quả cam quý giá của ông.

Quay lại đường cái, vị thầy tu nói, “Chúng ta sẽ phải cử người canh gác đêm nay, các bạn ạ. Dân làng nói họ vừa thấy ba tên tàn binh ẩn nấp quanh các gò cát ở phía tây chòi quan sát cũ.”

“Chỉ có ba thôi à?” Ser Hyle mỉm cười. “Thế thì chúng sẽ là miếng mồi cho lưỡi kiếm của tôi. Chúng sao có thể làm phiền những kẻ mang vũ khí được.”

“Trừ khi chúng đang chết đói,” vị thầy tu nói. “Trong đầm lầy có thức ăn, nhưng chỉ với những ai biết tìm kiếm mà thôi. Mà chúng lại hoàn toàn lạ lẫm với nơi này, những kẻ sống sót trở về từ chiến

trận. Nếu chúng áp sát, xin ngài hãy cứ để chúng cho ta.”

“Ông sẽ làm gì?”

“Cho chúng ăn. Yêu cầu chúng xưng tội, để ta có thể tha thứ cho chúng. Mời chúng đi cùng chúng ta tới đảo Im Lặng.”

“Như vậy có khác nào mời chúng cắt cổ chúng ta khi ta đang ngủ,” Hyle Hunt trả lời. “Lãnh chúa Randyll có những cách tốt hơn để đối phó với đám tàn quân này — kiếm và dây thừng sợi gai.”

“Thưa Ser, tiểu thư,” Podrick nói. “Lính bại trận có phải những kẻ ngoài vòng pháp luật không?”

“Có thể nói như vậy,” Brienne trả lời.

Septon Meribald không đồng ý. “Có thể nói là không phải. Những kẻ ngoài vòng pháp luật có

nhiều loại, cũng giống như có rất nhiều loại chim. Một con chim nhỏ và một con đại bàng biển đều có cánh, nhưng chúng không giống nhau. Ca sĩ hay hát về những người tốt buộc phải ra ngoài vòng pháp luật để chống lại một vị lãnh chúa độc ác nào đó, nhưng hầu hết những kẻ ngoài vòng pháp luật đều giống tên Chó Săn hơn là Lãnh chúa Tia Chớp. Chúng là những kẻ xấu xa, bị sai khiến bởi thói tham lam, tàn bạo, báng bổ thần linh và chỉ biết quan tâm đến bản thân mình. Bại binh đáng thương hơn, dù chúng cũng nguy hiểm không kém. Hầu như bọn chúng đều là thường dân, những kẻ chưa bao giờ rời xa ngôi nhà nơi họ sinh ra quá một dặm, cho đến khi một lãnh chúa nào đó tới bắt họ ra chiến trường. Được trang bị quần áo và giày dép nghèo nàn, họ hành quân bên dưới lá cờ của vị lãnh chúa, vũ khí của họ chỉ là lưỡi hái, cuốc xẻng, hoặc một cái rìu tự chế bằng cách buộc một hòn đá vào cây gậy bằng sợi da. Các anh em, cha con, bè bạn cùng nhau hành quân. Họ được nghe những bài hát và các câu chuyện kể, vì thế họ lên đường với trái tim nhiệt huyết và mơ về những điều kỳ diệu mà họ sẽ thấy, sự giàu có và những chiến công mà họ sẽ giành được. Chiến tranh có vẻ là một cuộc phiêu lưu kỳ thú nhất mà họ từng biết đến.

“Sau đó họ nếm mùi chiến trận.”

“Với một số người, chỉ một lần nếm trải thôi cũng đủ khiến họ bỏ mạng. Những người khác tiếp tục trong nhiều năm, cho đến khi họ không còn đếm được mình đã tham gia bao nhiêu trận chiến, nhưng dù

có sống sót qua một trăm trận đầu thì một người vẫn có thể thua trong trận thứ một trăm lẻ một. Họ nhìn những người anh em của mình ngã xuống, cha mất con, hay một người phải chứng kiến bạn mình cố giữ cho ruột khỏi lòi ra sau khi bị một chiếc rìu mổ bụng.

Họ thấy lãnh chúa của họ bị gϊếŧ chết, và một lãnh chúa khác tuyên bố giờ họ là người của ông ta. Họ bị thương, và khi vết thương chưa kịp lành thì đã nhận thêm vết thương khác. Họ chẳng bao giờ đủ ăn, giày cũng tả tơi vì những cuộc hành quân liên tục, quần áo họ cũ mòn rách mủn, và phân nửa trong số họ bị tiêu chảy vì thứ nước bẩn thỉu mà họ uống.

Nếu họ muốn có giày mới hoặc quần áo ấm hơn, hoặc là một chiếc mũ nửa đầu bằng sắt gỉ, họ cũng phải lấy chúng từ những xác chết, và nhanh chóng họ cướp luôn của những người sống, những người dân trên vùng đất chiến tranh, những người giống hệt như họ năm xưa. Họ gϊếŧ cừu, ăn cắp gà của dân, và bước tiếp theo là bắt luôn cả con gái họ. Rồi đến một ngày nhìn xung quanh, họ nhận ra tất cả người

thân, bạn bè của họ đã không còn, họ đang chiến đấu bên cạnh những người xa lạ dưới lá cờ hiệu mà thậm chí họ chẳng nhận ra. Họ không biết mình đang ở đâu và làm sao để trở về nhà. Họ chiến đấu vì một lãnh chúa nào đó, nhưng ông ta không biết tên họ. Dù vậy ông ta vẫn đến, hò hét bắt họ lập đội hình, xếp thẳng hàng với thương, hái và những cái cuốc được mài sắc. Và các hiệp sĩ, những kẻ giấu mặt trong bộ giáp kín mít, bỗng đâu xuất hiện. Không gian tràn ngập tiếng sắt thép va vào nhau, xủng xoảng như tiếng sấm rền...

Và người lính thua trận.

Anh ta quay đầu bỏ chạy, hoặc bò qua những xác chết thoát thân, hoặc bỏ trốn trong đêm và tìm một nơi ẩn náu. Tất cả những suy nghĩ về gia đình không còn nữa, vua chúa và các vị thần đối với anh

ta cũng không thể ý nghĩa bằng chiếc đùi lợn thối giúp sống thêm một ngày, hoặc một bình rượu lạt giúp nhấn chìm nỗi sợ hãi dù chỉ vài giờ ngắn ngủi. Tàn binh chỉ biết sống sao cho qua ngày, được bữa nào hay bữa đó, phần thú trong họ đã nhiều hơn phần người. Tiểu thư Brienne nói không sai. Trong những giai đoạn thế này, người đi đường phải hết sức cẩn thận với đám tàn binh và biết sợ chúng… nhưng cũng nên thương xót chúng.”

Khi Meribald nói xong, không gian im ắng tuyệt đối bao trùm lấy bốn người họ. Brienne nghe thấy tiếng gió xào xạc thổi qua một khóm miên liễu và tiếng kêu xa xăm của một con chim lặn. Cô cũng

nghe thấy Chó thở nhè nhẹ khi nó chạy nhảy bên cạnh vị thầy tu và con lừa của ông ta, lưỡi thè ra. Sự im lặng cứ kéo dài, kéo dài mãi, rồi cuối cùng cô cũng phải lên tiếng. “Ông bao nhiêu tuổi khi họ bắt ông ra chiến trường?”

“Chỉ bằng tuổi cậu nhóc của cô bây giờ,” Meribald trả lời. “Thực sự quá trẻ để tham gia chiến đấu, nhưng các anh em ta đều đã đi cả, và ta không thể ở lại được. Willam nói ta có thể làm cận vệ cho anh ta, mặc dù Will không phải hiệp sĩ, mà chỉ là một cậu nhóc hầu rượu được trang bị vũ khí bằng con dao làm bếp mà anh ta ăn cắp được trong nhà trọ. Anh ta chết ở Stepstones mà chưa vung

dao lên được lần nào. Anh ta chết vì cảm sốt, và anh trai Robin của ta cũng vậy. Owen chết vì bị một cái chùy bổ đôi đầu, bạn anh ta là Jon Pox bị treo cổ vì tội hϊếp da^ʍ.”

“Cuộc chiến của các vị Vua Chín Đồng ư?” Hyle Hunt hỏi.

“Họ gọi như vậy, dù tôi chưa bao giờ nhìn thấy một vị vua, và cũng chưa kiếm được một xu nào. Nhưng đó là một cuộc chiến. Vậy đấy.”