Gió đang thổi dữ dội từ phía đông, mạnh tới mức chiếc l*иg nặng trịch đu đưa mỗi khi có một cơn gió đập vào các chấn song. Gió rít dọc Tường Thành, đập vỡ các tảng băng và làm áo choàng của Jon bay phần phật. Bầu trời xám xịt u ám, mặt trời không khác gì một mảng sáng nhợt nhạt phía sau những đám mây. Phía bên kia cánh đồng chết, cậu có thể thấy ánh sáng bập bùng của hàng nghìn đám lửa trại, nhưng ánh sáng ấy dường như quá nhỏ bé và không thấm vào đâu so với cái lạnh giá và ảm đạm của không gian.
Một ngày khắc nghiệt. Jon Snow nắm bàn tay đeo găng quanh những chấn song và giữ chặt khi cơn gió táp vào chiếc l*иg thêm lần nữa. Khi cậu nhìn xuống dưới chân, mặt đất bị nuốt trọn bởi bóng đêm như thể cậu đang tụt dần xuống một cái hố không đáy. Ừ, chết cũng là một loại hố không đáy, cậu nghĩ, và khi công việc ngày hôm nay hoàn thành, tên cậu sẽ bị vĩnh viễn bị che phủ trong bóng tối.
Người ta nói những đứa con hoang được sinh ra từ du͙© vọиɠ và dối trá. Bản chất của chúng là dâʍ đãиɠ và bội bạc. Jon muốn chứng tỏ rằng họ đã sai và cho cha mình thấy cậu có thể là một người con giỏi giang và chân chính như Robb. Nhưng mình lại làm hỏng việc. Robb đã trở thành một vị vua anh hùng; còn nếu Jon có được nhớ đến thì cũng chỉ như một kẻ phản bội, một kẻ phá vỡ lời thề, và một kẻ gϊếŧ người. Cậu thấy mừng vì lãnh chúa Eddard đã không còn sống để chứng kiến nỗi ô nhục ấy.
Đáng lẽ mình nên ở trong cái hang đó với Ygritte. Nếu có kiếp sau, cậu hy vọng có thể nói với cô ấy điều đó. Cô ấy sẽ cào lên mặt mình giống một con đại bàng và chửi mình là một tên hèn. Nhưng mình vẫn cứ nói với cô ấy như vậy. Cậu nắm bàn tay cầm kiếm lại như Maester Aemon đã dạy. Thói quen này đã trở thành một phần của cậu và cậu sẽ cần những ngón tay nhanh nhẹn để có cơ hội gϊếŧ Mance Rayder, dù cơ hội ấy có mong manh đến mấy.
Sáng hôm nay họ lôi cậu ra, sau bốn ngày trong băng giá, rồi giam cậu trong căn phòng mỗi chiều mét rưỡi, quá thấp để cậu có thể đứng, quá chật để cậu có thể duỗi thẳng lưng. Những người quản lý bếp từ lâu đã phát hiện ra thức ăn và thịt để được lâu hơn trong phòng đá khoét dưới chân Tường Thành… nhưng tù binh thì không. “Ngươi sẽ chết ở đây, Lãnh chúa Snow ạ”, Ser Alliser nói trước khi ông ta đóng sập cánh cửa gỗ nặng nề, và Jon tin điều đó. Nhưng sáng nay họ đến và lôi cậu ra, trói cậu giải đi rồi lại nhốt cậu vào Tháp Vương, để cậu lại đứng trước mặt lão Janos Slynt mặt xệ thêm lần nữa.
“Lão học sĩ già đó bảo ta không được treo cổ ngươi”, Slynt tuyên bố. “Lão đã viết thư cho Cotter Pyke, và thậm chí còn cả gan cho ta xem bức thư nữa chứ. Lão nói ngươi không phải tên phản bội.”
“Aemon đã sống quá lâu, thưa lãnh chúa”, Ser Alliser quả quyết. “Trí khôn của ông ta đã trở nên mù lòa giống như đôi mắt ông ta vậy.”
“Đúng vậy,” Slynt nói. “Một ông già mù với sợi xích trên cổ, lão ta nghĩ mình là ai chứ?”
Aemon Targaryen, Jon nghĩ, là con một vị vua, anh trai một vị vua và đáng lẽ có thể là một vị vua. Nhưng cậu không nói gì cả.
“Tuy nhiên”, Slynt nói, “Ta sẽ không để người đời nói rằng Janos Slynt đã treo cổ một người mà không có lý do chính đáng. Chắc chắn không. Ta quyết định sẽ cho ngươi cơ hội cuối cùng để chứng tỏ ngươi trung thành như những gì ngươi nói, Lãnh chúa Snow. Một cơ hội cuối cùng để ngươi thực hiện nhiệm vụ, đúng vậy!” Ông ta đứng dậy. “Mance Rayder muốn thương lượng với chúng ta. Hắn biết mình không còn cơ hội, nhưng giờ Janos Slynt đã đến, vì thế Vị-Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành muốn nói chuyện. Nhưng hắn là một kẻ hèn nhát, nên hắn sẽ không đến chỗ chúng ta. Chắc chắn hắn biết ta sẽ treo hắn lên. Treo ngược hắn lên Tường Thành bằng một sợi dây thừng dài 60 mét! Nhưng hắn sẽ không đến. Hắn yêu cầu chúng ta cử một sứ giả đến đó.
“Chúng ta cử ngươi đi, Lãnh chúa Snow.” Ser Alliser mỉm cười.
“Tôi à.” Giọng Jon lạnh nhạt. “Sao lại là tôi?”
“Ngươi từng nhập hội với những tên man tộc này”, Thorne nói. “Mance Rayder biết ngươi. Nhiều khả năng hắn sẽ tin ngươi hơn.”
Thật quá sai lầm, Jon suýt nữa cười phá lên. “Phải ngược lại mới đúng. Mance nghi ngờ tôi từ cái nhìn đầu tiên. Nếu tôi xuất hiện tại doanh trại của hắn, mặc áo choàng đen thêm lần nữa và nói thay mặt Đội Tuần Đêm, hắn sẽ biết tôi đã phản bội hắn.”
“Hắn đòi một tên sứ giả, và ta cử đi một tên”, Slynt nói. “Nếu ngươi quá hèn nhát để đối diện với tên vua phản bội này, chúng ta sẽ lại tống ngươi vào phòng đá. Và lần này sẽ không có áo lông thú đâu.”
“Không cần phải như vậy đâu, thưa lãnh chúa,” Ser Alliser nói. “Lãnh chúa Snow sẽ làm như chúng ta bảo. Hắn muốn cho chúng ta thấy hắn không phải tên phản bội. Hắn muốn chứng tỏ hắn trung thành với Đội Tuần Đêm.”
Jon nhận thấy trong hai người, Thorne thông minh hơn gấp bội. Trong việc này đều có những tính toán của ông ta. Cậu biết mình đã rơi vào bẫy. “Tôi sẽ đi,” cậu nói cộc lốc và cụt lủn.
“Thưa lãnh chúa”, Janos Slynt nhắc cậu. “Ngươi phải gọi ta như vậy.”
“Tôi sẽ đi, thưa lãnh chúa. Nhưng ông đang mắc sai lầm đấy. Ông đang cử nhầm sứ giả, bởi chỉ nhìn thấy tôi thôi là Mance điên tiết. Lãnh chúa sẽ có cơ hội tốt hơn để đạt được những thỏa thuận nếu như ông cử…”
“Thỏa thuận ư?” Ser Alliser cười khoái trá. “Janos Slynt không thỏa hiệp với những tên man di ngoài vòng pháp luật, Lãnh chúa Snow ạ. Ngài ấy không làm như vậy đâu.”
“Bọn ta không cử ngươi đến để nói chuyện với Mance Rayder”, Ser Alliser nói. “Bọn ta cử ngươi đến để gϊếŧ hắn.”
Cơn gió rít qua song sắt và Jon Snow thấy rùng mình. Chân cậu nhói đau, cả đầu cậu nữa. Trước đây cậu còn không dám gϊếŧ một con mèo con. Vậy mà giờ cậu ở đây. Cái bẫy này thật sắc nhọn. Với việc Maester Aemon khăng khăng về sự vô tội của Jon, lãnh chúa Janos không dám để cậu chết cóng trong băng giá. Làm như thế này tốt hơn. “Danh dự của chúng ta không giá trị gì hơn mạng sống của chúng ta, miễn là vương quốc được an toàn,” Qhorin Cụt Tay đã nói vậy trên dãy Frostfangs. Cậu phải nhớ điều này. Dù cậu có gϊếŧ được Mance, hay cố gắng rồi thất bại, thì đám man di cũng sẽ gϊếŧ cậu. Thậm chí đào ngũ cũng là điều không thể, nếu cậu có ý định xin hàng. Bởi đối với Mance, cậu đã chứng minh mình là một kẻ dối trá và phản bội.
Khi chiếc l*иg dừng khựng lại, Jon đu mình xuống mặt đất và lắc chuôi kiếm của thanh Móng Dài để nới lỏng lưỡi kiếm ra khỏi vỏ. Cánh cổng cách cậu vài thước về bên trái và vẫn bị chặn bởi đống đổ nát của một chiếc xe phá thành và xác một con ma mυ'ŧ thối rữa bên trong. Những xác chết khác nằm rải rác giữa những chiếc thùng vỡ vụn, hắc ín đông cứng và những đám cỏ cháy. Tất cả nằm dưới cái bóng của bức tường. Jon không muốn nấn ná ở đây thêm nữa. Cậu bắt đầu đi về phía doanh trại của dân du mục, vượt qua xác của một gã khổng lồ mà cái đầu đã bị đá nghiền nát. Một con quạ đang moi não ra từ cái sọ vỡ. Nó ngước lên nhìn Jon khi cậu đi qua. “Snow”, nó thét lên. “Snow, snow” rồi tung cánh bay đi.
Ngay khi cậu chuẩn bị đi thì một người cưỡi ngựa xuất hiện từ phía doanh trại của dân du mục. Cậu tự hỏi liệu có phải Mance đang đến thương lượng tại vùng đất vô chủ hay không. Như vậy sẽ dễ hơn một chút, dù sẽ chẳng có gì thực sự dễ dàng cả. Khi khoảng cách giữa họ thu hẹp lại, Jon thấy người cưỡi ngựa lùn và mập, với những chiếc vòng vàng lấp lánh trên cánh tay to dày, râu trắng phủ xuống cả bộ ngực vĩ đại.
“Ha!” Tormund kêu lên khi họ gặp nhau. “Con quạ Jon Snow. Ta đã sợ chúng ta không bao giờ được gặp ngươi nữa.”
“Tôi chưa từng thấy ông sợ bất cứ điều gì mà, Tormund.”
Tên du mục cười nhăn nhở. “Nói hay lắm chàng trai. Ta thấy áo choàng của ngươi màu đen. Mance sẽ không thích đâu. Nếu ngươi đến để đổi bên một lần nữa thì tốt nhất hãy quay về Tường Thành của ngươi đi.”
“Họ cử tôi đến để thương lượng với Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành.”
“Thương lượng ư?” Tormund cười phá lên. “Vậy là các ngươi đã mở lời rồi đấy. Ha! Đúng, Mance muốn nói chuyện, nhưng ta không biết liệu ông ta có muốn nói chuyện với ngươi không.”
“Tôi là người họ cử đến.”
“Ta biết. Thế thì đi thôi. Ngươi có muốn lên ngựa không?”
“Tôi có thể đi bộ được…”
“Ngươi đã chiến đấu ác liệt với chúng ta ở đây.” Tormund quay ngựa về hướng doanh trại. “Ngươi và những người anh em của ngươi. Hai trăm người chết và hơn một chục người khổng lồ. Còn Mag đã tự mình xông vào cánh cổng đó của các ngươi và chẳng bao giờ quay trở lại.”
“Hắn đã chết dưới lưỡi kiếm của một người đàn ông dũng cảm tên là Donal Noye.”
“Thật sao? Tên Donal Noye là một lãnh chúa vĩ đại à? Một trong số những hiệp sĩ lẫy lừng mặc quần áσ ɭóŧ bằng thép?”
“Một thợ rèn. Anh ta chỉ có một cánh tay.”
“Một tên thợ rèn chỉ với một cánh tay có thể gϊếŧ chết Mag Vĩ Đại ư? Ha! Hẳn là một trận đấu đáng xem. Mance sẽ viết một bài ca về nó.” Tormund lấy ra một túi da từ lưng ngựa và mở nắp. “Cái này sẽ giúp chúng ta ấm lên. Vì Donal Noye và Mag Vĩ Đại.” Hắn uống một hớp và đưa cho Jon.
“Vì Donal Noye và Mag Vĩ Đại.” Chiếc túi đầy rượu mật ong, nhưng rượu đó mạnh tới mức làm Jon chảy nước mắt, cậu cảm nhận được những tia lửa nóng rực chảy xuống ngực mình. Sau căn phòng băng giá và di chuyển trong cái l*иg lạnh cóng, hơi ấm đó thật dễ chịu.
Tormund lấy lại cái túi và uống thêm ngụm nữa, sau đó hắn lau miệng. “Magnar vùng Thenn đã thề với chúng ta rằng hắn ta sẽ mở rộng cánh cổng, vì thế chúng ta chỉ việc thủng thẳng tiến vào, vừa đi vừa hát. Hắn ta nói sẽ đánh sập cả Tường Thành.”
“Ông ta cũng đánh sập được một phần rồi đấy,” Jon nói. “Và nó sập lên đầu ông ta.”
“Ha!” Tormund kêu lên. “Ta chưa bao giờ làm được gì nhiều cho Styr. Với một gã không râu, không tóc, cũng chẳng có tai thì khi chiến đấu với hắn, ngươi sẽ không biết túm vào đâu.” Hắn níu cương cho ngựa chạy chậm để Jon có thể tập tễnh đi bên cạnh. “Cái chân đó làm sao thế?”
“Mội mũi tên. Tôi nghĩ đó là mũi tên của Ygritte.”
“Đó là người phụ nữ dành cho ngươi. Hôm trước cô ta hôn ngươi, hôm sau cô ta tặng ngươi những mũi tên.”
“Cô ấy chết rồi.”
“Vậy sao?” Tormund lắc đầu buồn bã. “Phí của thật. Nếu trẻ lại mười tuổi, ta sẽ tự tay cướp lấy cô ta. Mái tóc của cô ta. Đúng là, ngọn lửa nóng nhất cháy nhanh nhất.” Hắn cầm túi da lên tu một ngụm thật dài. “Vì Ygritte, nụ hôn của lửa.”
“Vì Ygritte, nụ hôn của lửa.” Jon nhắc lại khi Tormund đưa túi rượu cho cậu. Cậu thậm chí còn uống một hơi dài hơn.
“Ngươi gϊếŧ cô ta à?”
“Là một người anh em của tôi.” Jon không biết đích xác ai làm và hy vọng rằng cậu sẽ không bao giờ biết.
“Các ngươi là những con quạ khát máu.” Tormund nói cộc lốc, nhưng vẫn nhẹ nhàng một cách lạ lùng.
“Tên Giáo Dài đó đã cướp đi con gái Munda, quả táo mùa thu bé nhỏ của ta. Hắn bắt nó ra khỏi lều của ta, trong khi cả bốn người anh của nó đều ở đó – Toregg, thằng con vụng về ngủ suốt cả buổi, và Torwynd… hừm, Torwynd Dễ Bảo, cái tên nói lên tất cả rồi, đúng không? Thế nhưng hai con trai út của ta đã đánh nhau với gã.”
“Còn Munda?” Jon hỏi.
“Nó là giọt máu của ta,” Tormund tự hào nói. “Nó đập sứt môi hắn, cắn đứt nửa cái tai và ta nghe nói hắn có nhiều vết cào trên lưng đến nỗi hắn không mặc được áo. Tuy nhiên, con bé lại khá thích hắn. Sao lại không chứ? Ngươi biết không, hắn không bao giờ chiến đấu nếu không có cây giáo. Không bao giờ. Nếu không thì cái tên đó của hắn chui ở đâu ra chứ? Ha!”
Jon buộc phải cười phá lên, ngay cả khi đang ở đây và vào lúc này. Ygritte từng rất thích Ryk Giáo Dài. Cậu hy vọng mình sẽ tìm được niềm vui nào đó nơi Munda của Tormund. Ai đó cần tìm một niềm vui ở một nơi nào đó.
“Anh chẳng biết gì cả, Jon Snow,” nếu còn sống, Ygritte sẽ nói với cậu như vậy. Mình biết là mình sắp chết, cậu nghĩ. Ít nhất mình cũng biết điều đó. “Đàn ông ai cũng phải chết,” dường như anh nghe thấy tiếng cô nói, “cả những người phụ nữ và động vật dù bay, bơi hay chạy. Chết khi nào không quan trọng, mà là chết thế nào, Jon Snow ạ.” Nói thì dễ lắm, Jon nghĩ lại. Cô ấy chết một cách can đảm trên chiến trường, trong cuộc phản công nơi lâu đài của kẻ địch. Còn mình sẽ chết trong tư thế của một kẻ tạo phản, một tên gϊếŧ người. Chẳng cái chết nào dễ dàng cả, trừ khi mình chết dưới lưỡi kiếm của Mance.
Họ nhanh chóng tới chỗ những chiếc lều. Đó là doanh trại thông thường của dân du mục; ngổn ngang những bãi lửa nấu nướng, những bãi nướ© ŧıểυ, trẻ em và những con dê chạy lung tung, lũ cừu kêu be be giữa các bụi cây, còn lũ ngựa được buộc vào nơi khô ráo. Ở đây chẳng có trật tự nào cả, không mệnh lệnh, không phòng thủ. Chỉ có đàn ông, phụ nữ và súc vật ở khắp mọi nơi.
Nhiều người không để mắt tới cậu, nhưng cứ một người tiếp tục làm việc của họ thì có khoảng mười người đứng lại nhìn cậu. Trẻ em ngồi bên bếp lửa, bà già trong những chiếc xe chó, những kẻ ăn lông ở lỗ với hình vẽ khắp mặt, những tên cướp tay cầm khiên có vẽ hình móng vuốt, rắn và những cái đầu dữ dằn. Tất cả đều quay ra nhìn cậu. Cậu thấy cả các nữ chiến binh cầm giáo với mái tóc dài tung bay trong gió xì xào giữa những cái cây.
Ở đây không có đồi. Chiếc lều bằng lông trắng của Mance Rayder được dựng trên một mô đất cao bên cạnh những cái cây. Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành đang đợi phía ngoài, chiếc áo choàng đỏ đen rách tả tơi bay bay trong gió. Bên cạnh vị vua là Harma Đầu Chó, kẻ đã trở lại từ những cuộc thăm dò và đột kích ở Tường Thành, và cả Varamyr Sixskins cùng con mèo ma và hai con sói xám gầy nhẳng của hắn.
Khi họ thấy người mà Đội Tuần Đêm cử đến, Harma quay đầu và nhổ nước bọt, một trong hai con sói của Varamyr nhe răng và gầm gừ. “Ngươi hẳn là rất can đảm hoặc rất ngu ngốc, Jon Snow,” Mance Rayder nói, “khi quay lại đây gặp chúng ta trong chiếc áo choàng đen.”
“Một người lính biệt kích có thể mặc gì khác ngoài cái áo đó?”
“Gϊếŧ hắn đi,” Harma hối thúc. “Rồi gửi xác hắn về cái l*иg của chúng và bảo chúng cử đến một người khác. Ta sẽ giữ đầu hắn lại làm cờ hiệu trên chiến trường. Một tên phản bội còn tệ hơn cả một con chó.”
“Ta đã cảnh báo rằng hắn là kẻ dối trá.” Giọng Varamyr ôn hòa nhưng con mèo ma của hắn đang nhìn Jon thèm thuồng bằng cặp mắt xám sắc lẹm. “Ta chưa bao giờ ưa cái mùi của hắn.”
“Thu móng vuốt của ngươi lại đi, con quái vật.” Tormund Giantbane nhảy xuống ngựa. “Cậu ta ở đây để lắng nghe. Nếu ngươi gϊếŧ hắn, có lẽ ta phải lột da ngươi làm áo choàng mất. Ta đã mong có chiếc áo choàng lông mèo ma từ lâu lắm rồi.”
“Tormund Kẻ Yêu Quạ,” Harma cười chế nhạo. “Ông đúng là một lão già rỗng tuếch.”
Kẻ biến hình có khuôn mặt xám, vai tròn, trán hói, thân hình nhỏ xíu với cặp mắt của sói. “Khi một con ngựa đã được thắng yên, ai cũng có thể cưỡi nó,” ông ta nói nhẹ nhàng. “Khi một con thú đã kết hợp với con người, bất kỳ kẻ biến hình nào cũng có thể nhập vào và điều khiển nó. Orell đang héo hon dần trong bộ lông của hắn, vì thế ta tự mình điều khiển con đại bàng. Nhưng việc kết hợp cũng có hai chiều. Orell đang sống trong ta, và đang thì thầm cho ta biết hắn ghét các người thế nào. Và ta có thể sải cánh trên Tường Thành và quan sát với đôi mắt đại bàng.”
“Vì thế chúng ta biết,” Mance nói. “Chúng ta biết có rất ít người các ngươi chặn chiếc xe phá thành.” Chúng ta biết có bao nhiêu người đến từ Trạm Đông. Chúng ta biết kho lương tiếp tế của các ngươi đang thu nhỏ dần như thế nào. Hắc ín, dầu, các mũi tên, cây giáo, thậm chí cả cái cầu thang của các ngươi cũng biến mất, và cái l*иg đó chỉ chứa được số người hữu hạn. Chúng ta biết hết. Và bây giờ thì ngươi đã biết là chúng ta biết rồi đấy.” Ông ta mở cái cửa lều. “Vào trong đi. Những người khác chờ ở đây.”
“Cái gì, cả tôi sao?” Tormund hỏi.
“Đặc biệt là ông. Như thường lệ.”
Ở bên trong thật ấm áp. Một đám lửa nhỏ cháy dưới những lỗ thông khói và một lò than đang âm ỉ gần đống da lông thú nơi Dalla nằm, nhợt nhạt và vã mồ hôi. Chị cô đang nắm tay cô. Jon nhớ đó là Val. “Tôi rất tiếc khi Jarl ngã,” cậu nói với cô gái.
Val nhìn cậu với đôi mắt xám xanh tái. “Nó luôn trèo quá nhanh.” Cô gái vẫn luôn đẹp, giống như trong trí nhớ của Jon, mảnh khảnh, ngực đầy, duyên dáng ngay cả khi đang ngủ,với xương gò má cao và mái tóc tết màu mật ong dài tới hông.
“Thời khắc của Dalla sắp đến rồi,” Mance nói. “Cô ấy và Val sẽ ở lại. Họ biết ta định nói gì.”
Jon giữ vẻ mặt lạnh như băng. Thật xấu xa khi gϊếŧ một người đang nghỉ trong lều của mình. Cậu phải gϊếŧ ông ta trước mặt vợ hắn, khi vợ ông ta đang sinh con ư? Cậu nắm chặt bàn tay cầm kiếm. Mance không mặc áo giáp, nhưng ông ta đeo kiếm bên hông trái. Vả lại, trong lều còn có các loại vũ khí khác, những con dao găm, đoản kiếm, một cái cung và một bao tên, một cây giáo có mũi đồng bên cạnh một chiếc… tù và lớn màu đen.
Jon hít một hơi dài.
Một chiếc tù và chiến vĩ đại.
“À. Đó là chiếc Tù Và Mùa Đông mà Joramun từng thổi để đánh thức những tên khổng lồ từ mặt đất.”
Chiếc tù và vĩ đại dài gần hai mét rưỡi và miệng nó rộng tới mức cậu có thể cho cánh tay mình vào tới tận khuỷu tay. Nếu đây là sừng của một con bò rừng thì nó hẳn là con bò to nhất thế gian. Thoạt tiên cậu nghĩ những cái nẹp xung quanh tù và làm bằng đồng, nhưng khi lại gần hơn cậu nhận ra chúng là vàng, vàng cũ có màu nâu và được khắc chữ cổ.
“Ygritte nói ông chưa bao giờ tìm thấy cái tù và.”
“Ngươi nghĩ chỉ có những con quạ mới biết nói dối sao? Ta khá thích ngươi, trong cương vị một đứa con hoang, nhưng ta chưa bao giờ tin ngươi. Một người phải cố gắng mới có thể giành được niềm tin của ta.
Jon nhìn ông ta. “Nếu ông đã có trong tay chiếc tù và của Joramun từ lâu, sao ông không sử dụng nó? Tại sao lại phải dựng những chiếc xe phá thành và cho đám người Thenn tới gϊếŧ chúng ta khi chúng ta đang ngủ? Nếu cái tù và này đúng như các bài ca nói thì sao không thổi nó lên và kết thúc mọi chuyện?”
Chính Dalla là người đưa ra câu trả lời cho cậu. Dalla với đứa con trong bụng đang nằm trên đống lông thú bên cạnh lò than. “Dân tộc tự do chúng ta biết những thứ mà những kẻ quỳ gối như các ngươi đã lãng quên. Đôi lúc con đường ngắn không phải là con đường an toàn nhất, Jon Snow. Lãnh chúa Horned từng nói rằng phép thuật là một thanh kiếm không chuôi. Chẳng có cách nào an toàn để nắm lấy nó.”
Mance đưa tay vuốt dọc đường cong trên thân tù và. “Không ai đi săn chỉ với một mũi tên trong bao cả,” ông ta nói. “Ta hy vọng Styr và Jarl sẽ làm cho các anh em của ngươi mất cảnh giác và mở cổng thành cho chúng ta. Ta đã cho đánh nhử, phục kích và tổ chức các đợt tấn công phụ. Bowen Marsh đã tiêu diệt hết những đòn nhử đó như ta dự đoán, nhưng đám quân tàn tật và mồ côi của các ngươi lại ngoan cố hơn ta tưởng. Đừng bao giờ nghĩ rằng các ngươi có thể ngăn chúng ta. Sự thật là các ngươi có quá ít người, còn chúng ta lại quá đông. Ta có thể vừa ra lệnh tấn công ở đây, vừa cử một vạn người đi phà băng qua Vịnh Hải cẩu và đánh úp Trạm Đông từ phía sau. Ta cũng có thể chiếm cả Tháp Đêm nữa. Ta biết rõ các lối ra vào như bất cứ ai ở đó. Ta có thể cho người và ma mυ'ŧ tới xới tung những cánh cổng lâu đài mà các ngươi bỏ lại, tất cả cùng một lúc.”
“Vậy sao ông không làm như vậy? Lúc đó Jon có thể rút thanh Móng Dài ra, nhưng cậu vẫn muốn nghe tên du mục này nói.
“Máu,” Mance Rayder nói. “Cuối cùng ta sẽ thắng, đúng vậy, nhưng các người đã khiến ta đổ máu. Và người của ta đã đổ máu đủ rồi.”
“Nhưng những mất mát của ông chưa nặng nề tới mức đó mà.”
“Không phải dưới tay các ngươi.” Mance nhìn Jon. “Ngươi đã thấy Nắm Đấm của Tiền Nhân. Ngươi cũng biết chuyện gì đã xảy ra ở đó. Ngươi biết chúng ta đang phải đối mặt với điều gì.”
“Bọn Ngoại Nhân…”
“Khi ngày ngắn hơn và đêm lạnh hơn cũng là lúc bọn chúng ngày càng trở nên lớn mạnh. Thoạt đầu họ sẽ gϊếŧ các ngươi, sau đó họ dùng chính những xác chết đó để chống lại các ngươi. Người khổng lồ không thể chống lại họ, cả người Thenn, các bộ tộc bên dòng sông băng và người Hornfoot cũng vậy.”
“Kể cả ông cũng không?
“Kể cả ta.” Lời thú nhận của ông ta nghe có phần cay đắng và giận dữ. “Raymun Râu Đỏ, Bael Thi Sĩ, Gendel và Gorne, Lãnh chúa Horned, tất cả bọn họ đều xuôi nam chinh phạt, nhưng ta lại phải cúp đuôi đến ẩn núp sau bức Tường Thành của các ngươi”. Ông ta chạm vào cái tù và lần nữa. Nếu ta thổi chiếc Tù Và Mùa Đông này lên, Tường Thành sẽ sập xuống. Các bài hát vẫn khiến ta tin như vậy. Trong số người của ta có những kẻ không mong gì hơn thế…”
“Nhưng một khi Tường Thành sập xuống,” Dalla nói, “Cái gì sẽ ngăn chặn Ngoại Nhân?”
Mance nở một nụ cười trìu mến với cô. “Ta đã tìm được một người phụ nữ thật thông minh. Một hoàng hậu thật sự.” Ông ta quay về phía Jon. “Hãy quay về và bảo họ mở cổng thành cho chúng ta qua. Nếu họ thực hiện, ta sẽ trao cho họ cái tù và, Tường Thành sẽ đứng đó vững vàng mãi mãi.”
Mở cổng thành và để họ qua ư? Nói thì dễ lắm, nhưng điều gì sẽ diễn ra sau đó đây? Những tên khổng lồ sẽ đóng quân tại Winterfell đổ nát? Những con thú ăn thịt đồng loại sẽ ở trong rừng sói, xe ngựa sẽ càn quét các vùng đất, đám man di sẽ tự do cướp đoạt con gái của thợ đóng tàu và thợ bạc từ Cảng White và các bà bán cá bên bờ biển Stony? “Ông có là một vị vua thật sự không?” Jon đột nhiên hỏi.
“Ta chưa bao giờ đội vương miện trên đầu hay đặt mông lên cái ngai vàng chết tiệt nào cả, nếu đó là điều ngươi muốn hỏi.” Mance trả lời. “Ta sinh ra tầm thường như bao kẻ tầm thường khác, chẳng có tư tế nào xức dầu thánh lên đầu ta. Ta không sở hữu bất kỳ lâu đài nào, và hoàng hậu của ta chỉ mặc lông thú và hổ phách, không phải lụa là gấm vóc và ngọc saphia. Ta là người anh hùng, là gã hề, là nhạc công của chính mình. Một người không trở thành vị Vua-Ngoài-Tường-Thành chỉ vì cha anh ta đã từng làm vua. Những cư dân tự do không đi theo một gia tộc nào, và họ không quan tâm người nào sinh trước, người nào sinh sau. Họ đi theo các chiến binh. Khi rời Tháp Đêm, ta thấy có năm người tranh luận làm sao có thể trở thành vua. Tormund là một, Magnar là thứ hai, ba kẻ khác đã bị ta gϊếŧ, bởi chúng tuyên bố sẽ chống lại thay vì phục tùng ta.”
“Ông có thể gϊếŧ kẻ thù của mình.” Jon nói thẳng thừng, “nhưng ông có thể cai trị bạn bè của mình không? Nếu chúng ta để người của ông qua, ông có đủ sức mạnh để khiến họ giữ cho vương quốc được yên bình và tuân thủ luật pháp không?”
“Luật của ai? Luật của Winterfell và Vương Đô à?” Mance phá lên cười. “Khi nào muốn có luật, chúng ta sẽ tự tạo ra luật cho riêng mình. Các ngươi có thể giữ lại công lý của các ngươi, và cả thuế má của nhà vua nữa. Ta sẽ giao cho các ngươi cái tù và, chứ không phải trao đi tự do của chúng ta. Chúng ta sẽ không quỳ gối trước các ngươi.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta từ chối lời đề nghị này?” Jon chắc chắn là họ sẽ từ chối. Ít nhất thì Gấu Già có thể sẽ chịu lắng nghe, nhưng ông ấy sẽ dừng khựng lại khi nghe đến việc cho ba mươi, bốn mươi nghìn tên du mục tràn vào Bảy Phụ Quốc. Nhưng Alliser Thorne và Janos Slynt sẽ gạt phắt ý kiến đó đi.
“Nếu các ngươi từ chối,” Mance Rayder nói, “Tormund Giantbane sẽ thổi chiếc Tù Và Mùa Đông trong vòng ba ngày nữa, vào lúc bình minh.”
Cậu có thể mang thông điệp về Hắc Thành và nói với họ chuyện cái tù và, nhưng nếu cậu để Mance còn sống thì Lãnh chúa Janos và Ser Alliser sẽ vịn vào đó làm cớ để nói cậu là kẻ phản bội. Cả nghìn ý nghĩ đang quanh quẩn trong đầu Jon. Nếu mình có thể hủy cái tù và, đập nát nó ở đây và ngay bây giờ… Tuy vậy, trước khi cậu có thể suy nghĩ kỹ càng về chuyện đó, Jon nghe thấy văng vẳng tiếng rền rĩ của một chiếc tù và khác, âm thanh bị chặn lại bởi những tấm lều chắn. Mance cũng nghe thấy. Ông ta cau mày và đi ra cửa. Jon theo sau.
Ở bên ngoài tiếng tù và chiến nghe to hơn. Tiếng kêu của nó khuấy động cả khu trại. Ba tên Hornfoot đi ngang qua, trên tay cầm những cây giáo dài. Đám ngựa hí vang và khịt mũi, những gã khổng lồ gào thét bằng thứ Ngôn Ngữ Cổ, và thậm chí cả những con ma mυ'ŧ cũng trở nên kích động.
“Tù và của người mở đường,” Tormund nói với Mance.
“Có gì đó đang đến đây.” Varamyr ngồi khoanh chân trên mặt đất đông cứng. Hai con sói chạy xung quanh hắn một cách bồn chồn. Một cái bóng quét qua người hắn và Jon ngước lên nhìn đôi cánh màu xanh xám của con đại bàng. “Chúng đang đến từ phía đông.”
Khi người chết bước đi, những bức tường, cọc và đao kiếm chẳng còn ý nghĩa gì, Jon nhớ lại. Ngươi không thể đánh lại người chết, Jon Snow. Không ai biết rõ điều này hơn ta.
Harma cau mày. “Phía đông? Đáng lẽ bọn chúng phải ở sau chúng ta chứ.”
“Phía đông,” kẻ biến hình nhắc lại. “Có cái gì đó đang đến.”
“Ngoại Nhân đúng không?” Jon hỏi.
Mance lắc đầu. “Ngoại Nhân không bao giờ đến vào ban ngày.” Những cỗ xe ngựa đang rầm rập di chuyển trên cánh đồng chết, cùng với những kỵ sỹ mang những cây giáo sắc nhọn. Vị vua kêu lên. “Chúng nghĩ chúng đang đi đâu chứ? Quenn, hãy đẩy lùi lũ ngu ngốc này trở về nơi của chúng. Gọi người mang ngựa đến cho ta. Ngựa cái không phải ngựa đực. Mang cả áo giáp nữa.” Mance liếc nhìn về phía Tường Thành một cách hoài nghi. Trên đỉnh Tường Thành phủ băng, những hình nộm đang đứng hứng tên, nhưng không có bất cứ một hoạt động nào khác. “Harma, bố trí người đi. Tormund tìm các con trai của ngươi và tập hợp cho ta ba hàng giáo.”
“Được.” Tormund trả lời rồi sải bước đi.
Gã biến hình nhỏ bé nhắm mắt lại và nói, “Ta thấy chúng rồi. Chúng đang đi dọc theo dòng suối và những con đường mòn…”
“Là ai vậy?”
“Con người. Người cưỡi ngựa. Người mặc giáp sắt và người mặc áo choàng đen.”
“Những con quạ.” Mance nguyền rủa. Ông ta quay sang phía Jon. “Có phải những người anh em cũ của ta nghĩ rằng họ sẽ thấy ta không mặc quần nếu họ tấn công trong lúc chúng ta đang nói chuyện không?”
“Nếu họ có kế hoạch tấn công thật thì họ đã không nói với tôi.” Jon không tin. Lãnh chúa Janos không đủ người để tấn công trại du mục. Hơn nữa, ông ta đang ở phía bất lợi của Tường Thành, và cánh cổng thì bị gạch đá vụn bịt kín. Ông ta chắc hẳn có tính toán khác trong đầu, việc này không thể do ông ta làm được.
“Nếu ngươi nói dối ta lần nữa, ngươi sẽ không giữ được mạng mà ra khỏi đây đâu,” Mance cảnh báo. Lính của ông ta mang ngựa và áo giáp đến. Ở các khu vực khác quanh doanh trại, Jon thấy mọi người chạy toán loạn. Một số người tập trung thành hàng như thể chuẩn bị tấn công Tường Thành, những người khác lẩn vào rừng, phụ nữ điều khiển xe chó kéo về phía đông, những con ma mυ'ŧ đi về hướng tây. Cậu với tay qua vai và rút thanh Móng Dài ra, đúng lúc một hàng lính biệt kích xuất hiện nơi bìa rừng cách đó ba trăm thước. Họ mặc giáp xích đen, mũ nửa đầu đen và áo choàng đen. Nửa thân mang giáp, Mance rút kiếm ra. “Ngươi không biết tí gì về chuyện này đúng không?” Ông ta lạnh lùng hỏi Jon.
Chậm rãi như mật ong chảy trong một buổi sáng lạnh lẽo, đám lính biệt kích tràn về phía doanh trại qua những lùm cây, băng qua đám rễ cây và những tảng đá. Đám dân du mục chạy đến đối đầu, hò hét ầm ĩ, giơ gậy gộc, kiếm đồng và rìu đá lên, lao thẳng về phía kẻ thù truyền kiếp. La hét, đâm chém và chết một cách dũng cảm. Jon đã nghe các đồng đội nói về cách chiến đấu của dân du mục.
“Cứ tin những gì ông muốn,” Jon nói với vị Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành, “nhưng ta hoàn toàn không biết gì về đợt tấn công này.”
Harma rầm rập đi qua trước khi Mance kịp trả lời, dẫn đầu ba mươi tên thổ phỉ. Người cầm cờ tiến lên đầu tiên, trên lá cờ có hình một con chó chết với một cây giáo xuyên qua. Máu chảy ròng ròng trong mỗi bước đi. Mance quan sát khi cô ta xông vào đám lính biệt kích. “Có lẽ ngươi nói sự thật,” ông ta nói. “Bọn chúng có vẻ đến từ Trạm Đông, những tên thủy thủ trên lưng ngựa. Cotter Pyke luôn là kẻ hữu dũng vô mưu. Hắn từng đánh bại Lãnh chúa Xương ở Long Barrow, và có lẽ hắn định làm điều tương tự với ta. Nếu như vậy thì hắn là một tên đại ngốc. Hắn không có đủ người, hắn…”
“Mance!” tiếng hét cất lên. Đó là một tên trinh thám xuất hiện sau những lùm cây trên lưng một con ngựa nhễ nhại mồ hôi. “Mance, có rất nhiều người, chúng ở quanh đây, những tên người Iron, một đội quân người Iron.”
Mance chửi thề và nhảy lên lưng ngựa. “Varamyr, ở lại đây và trông chừng Dalla.” Vị Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành chỉ kiếm vào Jon. “Và để mắt tới cả con quạ này nữa. Nếu hắn chạy, cắt cổ hắn.”
“Tuân lệnh.” Kẻ biến hình thấp hơn Jon một cái đầu, trông yếu ớt và mỏng manh, nhưng Jon biết con mèo ma kia có thể moi ruột cậu chỉ với một cú cào. “Chúng đến từ phía bắc nữa,” Varamyr nói với Mance. “Ngài tốt nhất nên đi đi.”
Mance đội lên đầu chiếc mũ hình cánh quạ. Người của ông ta cũng đã sẵn sàng. “Tạo mũi nhọn,” Mance ra lệnh, “Lập đội hình chữ V, đi theo ta.” Ông ta thúc ngựa băng qua cánh đồng tới chỗ đám lính biệt kích. Đội quân của ông ta đuổi theo sau, đội hình ban đầu không còn nguyên hình dạng.
Jon bước về phía cái lều nghĩ đến chiếc tù và, nhưng con mèo ma đã chặn cậu lại, quất mạnh đuôi. Lỗ mũi của con thú banh ra, nước dãi chảy xuống. Nó cảm thấy nỗi sợ hãi của mình. Cậu thấy nhớ Bóng Ma hơn bao giờ hết. Hai con sói gầm gừ phía sau cậu.
“Những ngọn cờ,” cậu nghe thấy Varamyr lẩm bẩm, “Ta thấy những lá cờ vàng, ồ…” Một con ma mυ'ŧ nặng nề đi qua, năm, sáu cung thủ đứng trên lưng nó. “Nhà vua… không…”
Gã biến hình ngửa đầu lên trời và thét lên. Âm thanh nghe chói tai, đau đớn. Varamyr ngã xuống, quằn quại và con mèo cũng kêu ré lên thảm thiết… Cao cao trên bầu trời phía đông giữa màn mây dày đặc, Jon thấy con đại bàng đang bốc cháy. Trong tích tắc nó cháy sáng hơn cả một ngôi sao, cuồn cuộn trong các màu đỏ, vàng, cam; cánh nó đập mạnh trong không trung như thể nó cố bay thoát khỏi cơn đau. Nó bay cao hơn, cao hơn và cao hơn nữa.
Tiếng thét khiến Val chui ra khỏi căn lều, mặt trắng bệch. “Chuyện gì thế? Chuyện gì xảy ra vậy?” Hai con sói của Varamyr đang đánh nhau và con mèo ma đã biến mất hút trong lùm cây. Nhưng người đàn ông thì vẫn quằn quại trên mặt đất. “Có chuyện gì xảy ra với ông ấy vậy?” Val hỏi, giọng sợ hãi. “Mance đâu?”
“Ở đằng kia.” Jon chỉ tay. “Ông ta xông lên chiến đấu rồi.” Vị vua đã dẫn đám người rách rưới của mình lao vào một đám lính biệt kích, kiếm của ông ta sáng lên loang loáng.
“Đi rồi ư? Ngài ấy không thể đi lúc này, không phải bây giờ. Đến lúc rồi.”
“Trận chiến ấy à?” Cậu quan sát đám lính biệt kích rải rác đằng sau cái đầu chó chết tiệt của Harma. Đám du mục la hét, chém gϊếŧ và đuổi những tên lính mặc áo đen quay trở lại lùm cây. Nhưng những người khác tiếp tục xuất hiện từ cánh rừng, một hàng kỵ sĩ. Jon thấy các kỵ sĩ ngồi trên những con ngựa lớn. Harma phải tập hợp lại đội hình để đối phó với chúng, nhưng một nửa đám người của cô ta đã chạy lên phía trước quá xa.
“Hoàng hậu sắp sinh!” Val hét vào mặt cậu.
Tiếng kèn trumpet vang lên, to và lanh lảnh. Đám dân du mục không có kèn, họ chỉ có tù và chiến. Họ cũng biết rõ điều đó như cậu. Âm thanh đó khiến đám du mục trở nên hỗn loạn, một số kẻ xông lên chiến đấu, những kẻ khác bỏ chạy. Một con ma mυ'ŧ giẫm đạp lên một bầy cừu mà một nhóm ba người đàn ông đang cố lùa về phía tây. Tiếng trống nổi lên, đám dân du mục xếp hàng và lập đội hình. Nhưng lúc này đã quá muộn, quá rối ren và quá chậm chạp. Kẻ địch ào ra từ cánh rừng, từ phía đông, đông bắc và phía bắc. Ba đội quân ngựa chiến vĩ đại, tất cả đều trang bị giáp sắt đen lấp lánh, bên ngoài là áo choàng len sáng màu. Đội quân này không đến từ Trạm Đông, bởi ở Trạm Đông chỉ có một nhóm trinh sát nhỏ. Đây là quân đội. Nhưng của vị vua nào? Jon cũng bối rối chẳng khác gì đám dân du mục. Phải chăng là Robb đã trở lại? Hay thằng nhóc trên Ngai Sắt cuối cùng cũng đã thức tỉnh? “Cô tốt nhất nên quay trở lại lều đi,” cậu nói với Val.
Phía bên kia cánh đồng một đội kỵ binh đã dẹp tan Harma Đầu Chó. Một nhóm khác quét vào bên sườn đội giáo binh của Tormund khi hắn cùng các con trai của mình cố gắng chống trả một cách tuyệt vọng. Tuy nhiên, đám người khổng lồ lại leo lên những con ma mυ'ŧ; và các kỵ sĩ không thích điều này chút nào. Cậu thấy những con ngựa chiến hí vang và chạy tán loạn bên sườn núi. Tuy nhiên, phe của dân du mục cũng đang hoảng loạn và sợ hãi. Hàng trăm phụ nữ và trẻ em hối hả thoát khỏi chiến trường. Vài người hoảng sợ vấp cả vào móng ngựa. Cậu thấy một chiếc xe chó kéo của một bà già xoay về phía ba cỗ xe ngựa và đâm vào nhau.
“Thánh thần ơi,” Val nói thầm, “Thánh thần ơi, sao chúng lại làm chuyện này?”
“Vào trong lều và trông chừng Dalla đi. Ở đây không an toàn đâu”. Thực ra trong đó cũng không an toàn hơn là bao, nhưng cô không cần phải nghe điều đó.
“Ta cần một bà đỡ,” Val nói.
“Cô là bà đỡ. Còn tôi sẽ ở đây cho đến khi Mance quay trở lại”. Cậu đã mất dấu Mance nhưng giờ đã lại nhìn thấy ông ta, đang mở đường qua một đám kỵ binh. Những con ma mυ'ŧ phá tan trung tâm đội kỵ binh, nhưng hai nhóm khác đang áp sát, siết chặt như hai cái càng cua. Mé đông khu trại, vài cung thủ đang bắn tên đốt cháy những túp lều. Cậu thấy một con ma mυ'ŧ quật ngã một tên kỵ sĩ khỏi yên ngựa và quăng tên này ra xa bằng cái vòi của mình. Đám quân du mục ào qua, phụ nữ và trẻ em chạy khỏi chiến trường. Vài gã trai tráng hối hả đi theo. Một vài kẻ nhìn Jon không thiện cảm nhưng thanh Móng Dài đang trong tay cậu, nên không ai gây rắc rối cho cậu cả. Ngay cả Varamyr cũng bò đi bằng tay và đầu gối.
Số người xuất hiện từ khu rừng càng lúc càng nhiều hơn, không chỉ có kỵ sĩ mà cả những cung thủ mặc giáp và đám lính được trang bị áo mũ; hàng chục, hàng trăm gã. Một ngọn cờ phấp phới trên đầu bọn chúng. Cơn gió thổi quá mạnh khiến Jon không thấy rõ hình hiệu trên cờ nhưng cậu thoáng thấy một con cá ngựa, một đàn chim và một vòng hoa. Cả màu vàng, rất nhiều màu vàng, những lá cờ vàng với một hình trang trí màu đỏ. Đội quân này của ai vậy nhỉ?
Phía đông và phía bắc, cả phía đông bắc, cậu thấy đám dân du mục đang cố gắng chống cự và chiến đấu, nhưng những kẻ tấn công đã đánh bại họ. Đám dân du mục đông hơn về số lượng, nhưng những kẻ tấn công có giáp thép và ngựa khỏe. Ở nơi hỗn loạn nhất của trận chiến, Jon thấy Mance đứng hiên ngang trên bàn đạp ngựa. Chiếc áo choàng đỏ-đen và chiếc mũ hình cánh quạ khiến người ta dễ nhận ra ông ta. Ông ta giơ cao thanh kiếm, người của ông ta tụ tập xung quanh, trong khi một nhóm kỵ sĩ lao vào họ với thương, kiếm và rìu. Con ngựa của Mance đá hai chân sau. Một lưỡi giáo xuyên qua ngực con vật. Rồi sau đó, đội quân thép nhấn chìm ông ta.
Xong rồi, Jon nghĩ, chúng đang vỡ trận. Đám dân du mục đang bỏ chạy, vứt bỏ vũ khí. Những người Hornfoot, bọn ăn lông ở lỗ, và người Thenn trong giáp vảy đồng, tất cả đều đang bỏ chạy. Mance đã chết. Ai đó đang giương đầu của Harma trên một cái cột. Đội quân của Tormund tan rã. Chỉ có những tên khổng lồ trên lưng những con ma mυ'ŧ cầm cự như những hòn đảo thưa thớt trong một biển thép đỏ rực. Lửa cháy lan từ lều này sang lều khác, vài cây thông cũng bốc cháy. Xuyên qua những đám khói, một đội kỵ binh khác đến trên những con ngựa bọc giáp. Phấp phới trên đầu họ là những lá cờ to nhất mà cậu nhìn thấy từ trước đến nay, những lá cờ hoàng gia lớn như những chiếc ga trải giường. Một lá cờ màu vàng với những vạt dài nhọn, bên trên in hình một trái tim đang bốc cháy. Một lá cờ khác trông như một miếng vàng dát với một con hươu đen đang nhảy dựng lên. Những lá cờ tung bay trong gió.
Robert, Jon bần thần một lúc và nhớ về Owen tội nghiệp, nhưng khi tiếng kèn vang lên một lần nữa và đám kỵ binh tập hợp lại, họ hô vang cái tên “Stannis! Stannis! STANNIS!”
Jon quay lưng và trở lại trong lều.
ARYA
Bên ngoài quán trọ trên một giá treo cổ cũ mòn vì mưa gió, bộ xương một người phụ nữ xoay tròn và kêu lạch cạch mỗi khi có cơn gió thổi qua. Mình biết quán trọ này. Tuy nhiên, hồi cô ngủ ở đây với chị gái Sansa dưới sự trông chừng của Septa Mordane, ngoài cửa không có cái giá treo cổ nào hết. “Chúng ta đừng vào trong.” Arya đột nhiên quyết định. “Có thể có ma đấy.”
“Ngươi có biết đã bao lâu rồi ta chưa được uống rượu không?” Sandor nhảy xuống từ lưng ngựa. “Hơn nữa, chúng ta cần biết ai cai quản Ruby Ford. Cứ ở đây với lũ ngựa nếu ngươi muốn. Ta không bận tâm.”
“Nhỡ họ nhận ra ông thì sao?” Sandor giờ đã không ngại để lộ khuôn mặt mình. Dường như hắn không còn quan tâm ai nhận ra hắn nữa. “Họ có thể bắt ông đấy.”
“Cứ để chúng thử xem.” Hắn rút hờ thanh gươm trong vỏ và đẩy cửa bước vào.
Cơ hội bỏ trốn của Arya không thể chín muồi hơn. Cô có thể cưỡi con Hèn bỏ chạy và đem cả Kẻ Lạ Mặt theo. Cô bặm môi. Nhưng rồi cô vẫn dắt ngựa vào chuồng và đi vào theo hắn.
Họ biết hắn. Sự im lặng cho cô biết điều đó. Nhưng đó không phải là điều tệ hại nhất. Cô cũng biết họ. Không phải người chủ quán trọ gầy gò, không phải đám phụ nữ, cũng không phải những gã nông dân gần lò sưởi, mà là những kẻ khác. Những tên lính. Cô biết những tên lính đó.
“Đang tìm anh trai hả Sandor?” Tay của Polliver đang luồn dưới áo của cô gái ngồi trên đùi hắn, nhưng hắn đã rút tay ra.
“Đang kiếm một ly rượu. Chủ quán, cho một hũ rượu đỏ.” Clegane tung một nắm xu xuống sàn nhà.
“Tôi không muốn gặp rắc rối đâu, thưa ngài”, chủ quán nói.
“Thế thì đừng gọi ta là ngài”. Miệng hắn co rúm. “Ngươi có điếc không thằng ngu? Ta gọi rượu cơ mà.” Khi người chủ quán rời đi, Clegane quát với theo, “Hai ly! Cô gái này cũng khát!”
Gã Cù Lét. Cả gã Cù Lét và Polliver. Chỉ có ba người, Arya nghĩ. Polliver chỉ nhìn lướt qua cô, cậu nhóc bên cạnh không nhìn cô lần nào, nhưng tên thứ ba nhìn cô chằm chằm, rất lâu và khó chịu. Hắn có chiều cao và vóc dáng trung bình, với khuôn mặt bình thường đến nỗi khó có thể nói hắn bao nhiêu tuổi. Nhìn trang phục và độ tuổi, có thể đoán cậu nhóc là một cận vệ. Cậu ta có cái mụn trắng to ở một bên mũi và vài cái mụn đỏ trên trán. “Đây có phải là Ser Sandor mất tích mà người ta vẫn nhắc đến không?” Cậu hỏi gã Cù Lét. “Kẻ sợ hãi đến tè ra quần trên chiến trường rồi bỏ chạy ấy?”
Gã Cù Lét đập đập cánh tay cậu bé cảnh cáo và khẽ lắc đầu. Arya nhìn thấy rất rõ.
Nhưng tên cận vệ lại không nhận ra, hoặc hắn không thèm quan tâm. “Ser của chúng ta nói người em hợm hĩnh của hắn bỏ chạy như chó cụp đuôi khi trận chiến tại Vương Đô đến hồi gay cấn. Ser của chúng ta còn nói hắn vừa chạy vừa khóc thút thít”. Hắn nhìn Chó Săn nhạo báng với nụ cười nhăn nhở ngu ngốc.
Clegane nhìn thằng nhóc đăm đăm và không nói lời nào. Polliver đẩy cô gái ra khỏi lòng hắn và đứng lên. “Thằng nhóc này say rồi”, hắn nói. Tên kỵ binh hạng nặng cao gần bằng Chó Săn cho dù không được cơ bắp cho lắm. Bộ râu hình cái thuổng dày, đen và được cắt tỉa gọn gàng trùm lấy hàm và cằm hắn. Nhưng đầu hắn lại hói. “Hắn còn không cầm nổi ly rượu nữa, thế đó.”
“Thế thì hắn không nên uống.”
“Con chó không sợ…” Thằng nhóc lại mở mồm, cho tới khi gã Cù Lét véo tai hắn. Tiếng nói biến thành tiếng ré lên vì đau.
Chủ quán lật đật trở lại với hai ly bằng đá và một hũ rượu đặt trên một chiếc đĩa bằng thiếc. Sandor đưa hũ rượu lên miệng. Arya thấy cơ cổ hắn chuyển động khi hắn tu rượu. Khi hắn để chiếc hũ xuống bàn, thì rượu đã vơi đi một nửa. “Giờ lão có thể đổ thêm rượu vào rồi đấy. Tốt nhất là nhặt những đồng xu kia lên. Chúng có thể là những đồng tiền duy nhất ngươi thấy ngày hôm nay đấy.”
“Cứ để bọn ta trả tiền khi chúng ta uống xong,” Polliver nói.
“Khi uống xong các ngươi sẽ rình xem lão ta cất vàng ở đâu chứ. Giống như mọi khi các ngươi vẫn làm.”
Chủ quán như chợt nhớ ra việc gì đó trong bếp. Những người dân đang lục tục rời quán, cả các cô gái cũng đã đi khỏi. Âm thanh duy nhất trong căn phòng chung lúc này là tiếng nổ lốp bốp của lò sưởi. Chúng ta cũng nên đi thôi, Arya nghĩ.
“Nếu các người đang tìm Ser thì các người đến quá muộn rồi,” Polliver nói. “Ngài ấy đã ở Harrenhal nhưng giờ thì không còn ở đó. Thái hậu đã triệu tập ngài ấy.” Arya thấy hắn đeo trên thắt lưng ba thanh kiếm, một thanh trường kiếm bên hông trái, còn bên hông phải là một con dao găm và một thanh kiếm nhỏ hơn, quá dài so với một con dao găm và quá ngắn so với một thanh kiếm.
“Vua Joffrey đã chết, các người biết rồi chứ.” Hắn nói tiếp, “do bị đầu độc tại tiệc cưới của chính mình.”
Arya dịch dần vào giữa căn phòng. Joffrey đã chết. Cô có thể tưởng tượng ra hắn với mái tóc xoăn vàng, nụ cười nhỏ mọn cùng đôi môi mềm mọng của hắn. Joffrey đã chết! Cô biết chuyện này phải làm cô vui mới đúng, nhưng sao cô thấy trong lòng trống rỗng. Joffrey đã chết, nhưng nếu Robb cũng chết rồi thì tất cả đâu còn ý nghĩa gì? “Vậy thì các anh em Ngự Lâm Quân dũng cảm của ta tiêu rồi.” Chó Săn khịt mũi khinh khỉnh. “Ai đã gϊếŧ nhà vua?”
“Tên lùn, người ta nghĩ vậy. Hắn và cô vợ bé nhỏ của hắn.”
“Vợ nào?”
“Ta quên mất là dạo này ngươi ẩn cư sau núi. Cô gái người phương bắc, đứa con gái lãnh chúa Winterfell ấy. Bọn ta nghe nói cô ta gϊếŧ nhà vua bằng một câu chú, sau đó biến thành một con sói với đôi cánh bằng da vĩ đại giống như một con dơi, rồi bay qua cửa sổ tòa tháp. Nhưng cô ta bỏ tên lùn ở lại và Cersei muốn lấy đầu hắn.”
Thật ngu ngốc, Arya nghĩ. Sansa chỉ biết đến các bài hát, không phải các câu chú, và chị ấy sẽ không bao giờ cưới Quỷ Lùn.
Chó Săn ngồi trên một cái ghế dài gần cửa sổ. Miệng hắn giật giật bên phía bị bỏng. “Thái hậu nên dìm hắn vào đống chất cháy và nấu hắn, hoặc cù lét hắn cho đến chết thì thôi.” Hắn nâng ly rượu lên và tu sạch. Hắn cũng là một trong số chúng, Arya nghĩ khi cô chứng kiến cảnh đó. Cô cắn môi chặt đến nỗi nếm được cả vị máu. Hắn cũng giống như bọn chúng thôi. Mình nên gϊếŧ hắn khi hắn ngủ.
“Thế là Gregor chiếm Harrenhal nhỉ?” Sandor nói.
“Không cần vất vả chiếm đóng gì cho lắm,” Polliver đáp. “Đám lính đánh thuê bỏ chạy ngay khi chúng biết chúng ta đến, tất cả trừ một vài tên. Một trong số những tên đầu bếp mở một cánh cổng phía sau lâu đài cho chúng ta, và đổi lại Hoat cắt đứt chân hắn.” Hắn cười khoái trá. “Chúng ta giữ hắn lại nấu nướng, giữ một vài ả đàn bà để sưởi ấm giường và chém tất cả số còn lại.”
“Tất cả những người còn lại ư?” Arya thốt lên.
“À, Ser giữ Hoat lại để gϊếŧ thời gian.” Sandor hỏi, “Tên Cá Đen vẫn còn ở Riverrun chứ?”
“Không lâu nữa đâu,” Polliver nói. “Hắn đang bị bao vây. Lão Frey già sẽ treo cổ Edmure Tully nếu hắn không chịu mở cổng lâu đài. Cuộc chiến thật sự duy nhất là ở quanh Raventree. Nhà Blackwood và Nhà Bracken. Bracken giờ là của chúng ta.”
Chó Săn rót một ly rượu cho Arya và một ly khác cho hắn. Hắn vừa uống cạn ly rượu vừa nhìn chằm chằm vào ngọn lửa trong lò sưởi. “Con chim nhỏ đã bay đi rồi phải không? Hừm, thật tốt cho cô ta. Cô ta ị lên đầu Quỷ Lùn rồi bay mất.”
“Họ sẽ tìm bằng được cô ta,” Polliver nói. “Dù phải bỏ ra một nửa số vàng ở Casterly Rock.”
“Ta nghe nói đó là một cô gái xinh đẹp,” gã Cù Lét nói. “Ngọt ngào như mật ong.” Hắn chép môi và cười mỉm.
“Và nhã nhặn nữa,” Chó Săn hưởng ứng. “Một quý cô bé nhỏ đích thực. Không giống như cô em chết tiệt của cô ta.”
“Họ cũng đã tìm thấy cô ta,” Polliver nói. “Đứa em gái ấy. Nghe nói cô ta được gả cho gã con hoang Nhà Bolton.”
Arya uống hớp rượu để chúng không thấy miệng cô. Cô không hiểu Polliver đang nói gì. Sansa làm gì có người em gái nào khác. Sandor Clegane cười lớn.
“Có chuyện quái gì đáng cười vậy?” Polliver hỏi.
Chó Săn không nhìn Arya. “Nếu muốn cho các ngươi biết thì ta đã nói cho các ngươi rồi. Có tàu ở Saltpans chứ?”
“Saltpans? Làm sao ta biết được? Nghe nói những tên lái buôn đã quay trở về Maidenpool rồi. Randyll Tarly đang nắm giữ lâu đài và nhốt Mooton trong ngục. Ta chẳng biết tin gì về Saltpans cả.”
Gã Cù Lét rướn người về phía trước. “Ngươi định lên thuyền rời đi mà không nói lời tạm biệt với anh trai à?” Arya thấy rùng mình khi nghe hắn hỏi. “Ngài sẽ nhanh chóng quay về Harrenhal với chúng ta, Sandor ạ. Tao cá là như thế. Hoặc là Vương Đô…”
“Chó chết. Gregor chó chết. Ngươi là đồ chó chết.”
Gã Cù Lét nhún vai, đứng thẳng dậy, với tay ra sau đầu và xoa cổ. Lúc đó mọi thứ dường như diễn ra cùng một lúc. Sandor lảo đảo đứng lên, Polliver rút thanh trường kiếm ra và tay gã Cù Lét rút nhanh một vật gì đó ánh bạc ném ngang căn phòng. Nếu Chó Săn không di chuyển, con dao hẳn đã cứa đứt cổ hắn thay vì chỉ sượt qua sườn hắn và cắm phập lên tường gần cửa. Hắn cười lớn, tiếng cười lạnh lùng và trống rỗng như thể nó xuất phát từ đáy của một chiếc giếng sâu. “Ta cũng đang hy vọng các ngươi làm điều gì đó ngu ngốc.” Thanh kiếm của hắn được rút ra khỏi vỏ vừa kịp lúc để đỡ nhát chém đầu tiên của Polliver.
Arya lùi lại phía sau khi tiếng đao kiếm leng keng vang lên. Gã Cù Lét rời khỏi ghế, một tay cầm đoản kiếm, một tay cầm dao. Ngay cả tên cận vệ lùn tóc nâu cũng đứng dậy, lóng ngóng rút kiếm ra. Cô với lấy ly rượu trên bàn và ném vào mặt hắn. Lần này cô ném tốt hơn lần ở Song Thành. Chiếc ly đập vào giữa cái mụn trắng lớn của hắn và hắn gục xuống.
Polliver là một gã chiến binh nhà nghề dữ tợn. Hắn ép Sandor lùi về phía sau. Thanh trường kiếm nặng nề của hắn chuyển động chính xác và ác hiểm. Những nhát chém của Chó Săn loạn xạ hơn, những cú đỡ vội vàng, chân hắn di chuyển chậm chạp và vụng về. Hắn say rồi. Arya buồn bã nhận ra điều đó. Hắn uống quá nhiều và quá nhanh với cái bụng rỗng. Gã Cù Lét đang di chuyển sát tường để vòng ra sau hắn. Cô vớ lấy chiếc ly thứ hai và ném vào hắn nhưng hắn nhanh hơn tên cận vệ và cúi đầu tránh kịp thời. Hắn nhìn cô lạnh lùng và hứa hẹn. Có vàng giấu trong làng không? Cô như nghe thấy tiếng hắn hỏi. Tên cận vệ ngu ngốc đang bám chặt lấy mép bàn và đứng lên bằng hai đầu gối. Arya bắt đầu cảm thấy sự sợ hãi dâng lên trong cổ họng. Nỗi sợ hãi cắt sâu hơn đao kiếm. Nỗi sợ hãi cắt sâu hơn…
Sandor rêи ɾỉ đau đớn. Phía mặt bị bỏng của hắn đỏ rực từ thái dương tới má và vành tai của hắn bị chém cụt. Điều này có vẻ khiến hắn tức giận. Hắn lao vào Polliver tấn công mãnh liệt, chém Polliver bằng thanh trường kiếm cũ sứt mẻ mà hắn đổi được ở khu đồi. Gã có râu lùi lại, nhưng hầu như không có nhát chém nào chạm được vào hắn. Rồi gã Cù Lét nhảy qua cái ghế dài nhanh như một con rắn và chém vào sau cổ Chó Săn bằng thanh đoản kiếm của mình.
Chúng sẽ gϊếŧ hắn mất. Arya không còn cái ly nào nữa nhưng có vật tốt hơn để ném. Cô rút con dao găm lấy được trên người tên cung thủ khi hắn sắp chết và cố gắng phi về phía gã Cù Lét giống cách hắn đã làm. Tuy vậy nó không giống như ném một hòn đá hoặc một quả táo dại. Con dao bay liệng và cán của nó đập trúng cánh tay hắn. Hắn thậm chí không cảm thấy nó. Hắn còn đang mải để ý đến Clegane.
Khi hắn đâm tới, Clegane lách nhanh sang một bên để nghỉ trong giây lát. Máu chảy xuống mặt hắn và chảy xuống từ vết thương trên cổ hắn. Cả hai tên lính của Núi Yên Ngựa đều xông vào chém rát, Polliver chém vào đầu và vai hắn trong khi gã Cù Lét xông lên đâm vào lưng và bụng hắn. Hũ rượu bằng đá vẫn còn trên bàn. Arya bê bình rượu lên bằng cả hai tay, nhưng khi cô vừa nhấc nó lên thì có ai đó kéo cánh tay cô. Hũ rượu trượt khỏi tay cô và vỡ tan tành trên sàn nhà. Quay người lại, cô thấy gã cận vệ. Ngu thật, mình đã quên hẳn thằng nhóc đó. Cô thấy cái mụn trắng to của hắn đã vỡ ra.
“Mày là chó con của con chó kia hả?” Tay phải hắn cầm kiếm và tay trái hắn nắm lấy cánh tay cô nhưng cả hai bàn tay cô đều tự do, cô rút con dao ra khỏi vỏ và đâm vào bụng hắn, rồi xoắn. Hắn không mặc giáp, thậm chí cũng không mang áo da thuộc nên con dao đâm vào hắn giống như cách Mũi Kim đâm chết cậu nhóc chăn ngựa tại Vương Đô. Tên cận vệ trợn mắt và buông cánh tay cô ra. Arya tới chỗ cánh cửa và rút con dao của gã Cù Lét ở trên tường ra.
Polliver và gã Cù Lét đang dồn Chó Săn vào một góc sau cái ghế và một gã trong số chúng đã bồi cho hắn thêm một vết thương trên bắp đùi. Sandor đang tựa vào tường, máu chảy khắp nơi và hắn thở hồng hộc. Hắn trông như thể sắp gục đến nơi, nói gì đến chiến đấu. “Vứt kiếm xuống và bọn ta sẽ bắt ngươi về Harrenhal,” Polliver nói.
“Để Gregor tự mình kết liễu ta à?”
Gã Cù Lét nói, “Có lẽ ông ấy sẽ giao ngươi cho ta.”
“Nếu ngươi muốn, đến đây mà bắt ta.” Sandor rời khỏi bức tường và đứng trong tư thế nửa cúi người đằng sau chiếc ghế, thanh kiếm giơ lên ngang thân.
“Ngươi nghĩ là bọn ta không thể sao?” Polliver nói. “Ngươi say rồi.”
“Có thể,” Chó Săn nói, “nhưng các ngươi chết đến nơi rồi.” Hắn giơ chân đạp mạnh vào chiếc ghế khiến nó văng mạnh đập vào cẳng chân Polliver. Gã có râu vẫn đứng vững, nhưng Chó Săn cúi xuống né được nhát chém của hắn và vung gươm chém mạnh từ phía bên trái. Máu bắn lên trần nhà và tường. Thanh kiếm nằm giữa mặt của Polliver và khi Chó Săn giật mạnh thanh kiếm ra, một nửa cái đầu Polliver bay theo nó. Gã Cù Lét lùi lại. Arya ngửi được mùi sợ hãi ở hắn. Thanh đoản kiếm trong tay hắn chợt giống như một món đồ chơi so với thanh trường kiếm mà Chó Săn đang cầm. Hắn cũng không mặc giáp. Hắn di chuyển nhanh và nhẹ nhàng, không rời mắt khỏi Sandor Clegane. Việc dễ dàng nhất trên thế giới đối với Arya lúc này là luồn ra sau và đâm hắn.
“Có vàng giấu trong làng không?” Cô thét lên khi đâm xuyên qua lưng hắn. “Có bạc không? Có ngọc không?” Cô đâm thêm hai nhát nữa. “Có thức ăn không? Lãnh chúa Beric ở đâu?” Cô ngồi trên người hắn và vẫn không ngừng đâm. “Hắn đã đi đâu rồi? Bao nhiêu người đi cùng hắn? Bao nhiêu kỵ sỹ? Bao nhiêu cung thủ? Bao nhiêu, bao nhiêu, bao nhiêu, bao nhiêu, bao nhiêu, bao nhiêu? Trong làng có vàng không?”
Tay cô đỏ rực và nhớp nháp khi Sandor kéo cô ra khỏi hắn. “Đủ rồi,” hắn chỉ nói vậy. Hắn cũng đang chảy máu như một con lợn bị đâm và hắn phải lê một chân khi bước đi.
“Còn một tên nữa,” Arya nhắc.
Tên cận vệ đã rút con dao ra khỏi bụng và cố gắng lấy tay ngăn máu chảy. Khi Chó Săn kéo hắn lên, hắn la hét và bắt đầu khóc lóc như một đứa trẻ. “Xin ngài,” hắn van xin. “Xin đừng gϊếŧ tôi. Xin Đức Mẹ nhân từ.”
“Trông ta có giống như mẹ ngươi không?” Chó Săn thậm chí trông chẳng còn giống người. “Ngươi gϊếŧ cả tên này nữa,” hắn nói với Arya. “Đâm vào bụng hắn, thế là xong. Nhưng hắn sẽ hấp hối trong thời gian dài đấy.”
Thằng nhóc dường như không nghe thấy hắn nói. “Tôi chỉ đến đây tìm gái thôi,” cậu rêи ɾỉ. “Polly nói hãy là một người đàn ông… ôi, thánh thần ơi, xin hãy đưa tôi tới một lâu đài, tới một học sĩ, hãy đưa tôi đến chỗ một học sĩ, cha tôi có vàng… tôi chỉ đến chơi gái thôi mà… xin hãy rủ lòng thương, xin ngài.”
Chó Săn đập vào mặt hắn khiến hắn lại thét lên. “Đừng có gọi ta là ngài.” Hắn quay sang Arya. “Tên này là của ngươi, sói cái ạ. Xử hắn đi.”
Cô hiểu ý hắn nói gì. Arya tới chỗ Polliver và quỳ xuống vũng máu của hắn đủ lâu để cởi dây đeo kiếm. Cạnh con dao găm của hắn là một thanh kiếm mảnh dẻ, quá dài so với một con dao găm và quá ngắn so với một thanh kiếm… nhưng nó vừa với tay cô.
“Cô có nhớ tim nằm ở đâu không?” Chó Săn hỏi.
Cô gật đầu. Tên cận vệ đảo mắt. “Xin hãy tha cho tôi.”
Mũi Kim đâm giữa hai dẻ sườn và kết liễu hắn.
“Tốt lắm.” Giọng của Sandor nghe đầy đau đớn. “Nếu ba tên này đang chơi gái ở đây, Gregor hẳn đã chiếm giữ cả khúc sông cạn lẫn Harrenhal. Lũ thú cưng của hắn có thể sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào và ngày hôm nay chúng ta đã chém gϊếŧ đủ rồi.”
“Chúng ta sẽ đi đâu?” Cô hỏi.
“Saltpans.” Hắn đặt bàn tay to sụ lên vai cô để có thể đứng vững. “Đem một chút rượu lại đây, sói cái. Và lấy tất cả những đồng xu mà chúng có, chúng ta sẽ cần nó. Nếu có tàu ở Saltpans, chúng ta có thể đến Thung Lũng bằng đường biển.” Miệng hắn co rút, trong khi máu chảy ngày một nhiều từ tai xuống. “Có thể phu nhân Lysa sẽ gả cô cho Robert bé nhỏ của bà ta. Ta rất muốn xem cuộc mai mối đó.” Hắn cười phá lên, rồi chuyển sang rêи ɾỉ, nhăn nhó.
Khi đến thời điểm rời đi, hắn phải nhờ Arya giúp mới trèo được lên lưng Kẻ Lạ Mặt. Hắn đã buộc một dải vải quanh cổ, một dải nữa quanh bắp đùi và cầm theo chiếc áo choàng của tên cận vệ treo trên mắc gần cửa. Chiếc áo choàng màu xanh lá cây với hình một mũi tên màu xanh lá trên một vạt màu trắng. Khi Chó Săn vo nó lại và áp vào tai, nó nhanh chóng chuyển sang màu đỏ. Arya sợ hắn sẽ ngã gục lúc họ khởi hành, nhưng hắn vẫn ngồi được trên yên ngựa.
Họ không thể mạo hiểm đối mặt với kẻ trấn giữ khúc cạn Ruby dù đó là ai, nên thay vì đi trên vương lộ, họ đi chếch về phía đông nam, xuyên qua những cánh đồng cỏ dại, rừng rậm và đầm lầy. Phải mất hàng giờ họ mới đến được Trident. Arya thấy con sông đã ngoan ngoãn quay về với dòng chảy quen thuộc, dòng nước đυ.c ngầu giận dữ của nó đã biến mất sau cơn mưa. Dòng sông cũng mệt mỏi rồi, cô nghĩ.
Gần mép nước họ thấy vài cây liễu đang nhô lên từ bãi đá lổn nhổn đã bị hao mòn vì mưa nắng. Cây và đá cùng nhau tạo thành một loại pháo đài thiên nhiên giúp họ ẩn náu, từ hướng dòng sông hay từ phía đường mòn họ đều không bị phát hiện. “Chỗ này ổn đấy,” Chó Săn nói. “Giờ hãy cho ngựa uống nước và đi lấy ít củi về nhóm lửa.” Khi xuống ngựa, hắn phải bám vào một cành cây để khỏi bị ngã.
“Chúng sẽ nhìn thấy khói thì sao?”
“Nếu có ai muốn tìm chúng ta thì họ chỉ cần đi theo máu của ta là xong. Mang nước và củi lại đây. Nhưng mang cho ta túi rượu kia trước.”
Khi lửa được nhóm xong, Sandor để ngửa cái mũ của hắn trên đám lửa, đổ nửa túi rượu còn lại vào đó rồi nằm vật xuống một tảng đá phủ rêu như thể hắn không bao giờ muốn ngồi dậy nữa. Hắn bảo Arya giặt chiếc áo choàng của tên cận vệ và cắt nó ra thành từng dải nhỏ. Những mảnh này cũng được bỏ vào cái mũ. “Nếu có nhiều rượu hơn, ta sẽ uống cho đến chết thì thôi. Có lẽ ta phải cho cô quay lại cái quán đó để lấy thêm mấy bì rượu nữa mới được.”
“Không,” Arya nói. Hắn không định làm vậy thật chứ? Nếu hắn làm thế thật, mình sẽ bỏ đi và mặc kệ hắn.
Sandor cười phá lên khi thấy khuôn mặt sợ hãi của cô. “Đùa thôi mà, sói cái. Ta chỉ đùa thôi. Tìm cho ta một cái que, dài chừng này, nhưng không được quá to. Và rửa sạch bùn đi. Ta ghét vị của bùn lắm.” Hắn không thích hai cái que đầu tiên cô đưa cho hắn. Đến khi cô tìm được một cái que vừa ý hắn thì ngọn lửa đã đốt chiếc mũ đầu chó của hắn cháy đen tới tận khe mắt. Bên trong cái mũ rượu đang sôi sùng sục. “Lấy cái cốc từ túi ngủ của ta và múc vào nửa cốc,” hắn bảo cô. “Cẩn thận. Ngươi mà làm đổ ta sẽ bắt về lấy thêm đấy. Múc rượu và đổ vào những vết thương của ta. Liệu cô có làm được không?” Arya gật đầu. “Thế thì cô còn chờ gì nữa?” hắn càu nhàu.
Những đốt ngón tay của cô chạm vào chiếc mũ thép khi cô múc rượu lần đầu tiên khiến tay cô bỏng rộp lên. Arya phải cắn môi để ngăn mình không hét lên. Chó Săn dùng cái que cũng với mục đích đó, hắn cắn chặt nó giữa hai hàm răng khi cô đổ rượu. Cô đổ vào vết thương ở bắp đùi trước, sau đó là vết thương nông hơn phía sau cổ. Sandor nắm chặt tay phải và đấm xuống đất khi cô đổ vào chân hắn. Khi cô đổ vào cổ hắn, Sandor cắn cái que mạnh tới mức nó gãy ra và cô phải tìm cho hắn một cái que mới. Cô có thể thấy sự khϊếp sợ trong mắt hắn. “Quay đầu đi.” Cô nhỏ từng giọt rượu xuống chỗ thịt đỏ hỏn mà trước đây tai hắn nằm ở đó và những ngón tay đã sậm máu. Rượu đỏ lăn xuống hàm hắn. Lúc này hắn đã phải hét lên bất chấp cái que ở miệng. Rồi hắn lịm đi vì đau đớn.
Arya một mình xử lý phần việc còn lại. Cô rút những mảnh vải làm từ chiếc áo choàng của tên cận vệ ra khỏi đáy mũ và dùng chúng để buộc những vết thương. Khi cô buộc đến phần tai, cô phải quấn nửa đầu hắn để ngăn vết thương khỏi chảy máu. Lúc này hoàng hôn đã trùm xuống Trident. Cô để ngựa ăn cỏ, rồi buộc chúng lại và nghỉ ngơi thoải mái trong một cái hốc giữa hai tảng đá. Ngọn lửa cháy thêm một lúc nữa rồi tắt hẳn. Arya ngắm ánh trăng qua những tán cây trên đầu.
“Ser Gregor Núi Yên Ngựa,” cô nói khẽ. “Dunsen, Raff Ngọt Ngào, Ser Ilyn, Ser Meryn, thái hậu Cersei.” Cô cảm thấy là lạ khi bỏ qua Polliver và gã Cù Lét. Cả Joffrey nữa. Cô vui vì hắn đã chết, nhưng cô ước mình có thể ở đó để nhìn thấy hắn chết hoặc tự mình gϊếŧ hắn. Polliver nói rằng Sansa và Quỷ Lùn gϊếŧ hắn. Chuyện này là thật ư? Tên lùn là người Nhà Lannister, còn Sansa… Ước gì mình có thể biến thành một con sói, mọc cánh và bay đi. Nếu Sansa cũng chết thì Nhà Stark chẳng còn ai ngoài cô. Jon ở Tường thành cách xa hàng nghìn dặm, nhưng anh ấy là con hoang. Còn những bà dì, ông cậu mà Chó Săn định bán cô cho họ cũng không phải người nhà Stark. Họ không phải là những con sói.
Sandor rêи ɾỉ và cô xoay người sang nhìn hắn. Cô nhận ra mình đã bỏ cái tên của hắn ra khỏi danh sách từ khi nào. Tại sao cô lại làm như vậy? Cô cố nhớ về Mycah nhưng thật khó để hình dung ra cậu ấy. Cô chỉ quen cậu ấy trong thời gian ngắn. Tất cả những gì cậu ấy làm là đấu kiếm với cô. “Chó Săn,” cô thì thầm, “Valar morghulis.” Có lẽ tới sáng hắn sẽ chết…
Nhưng khi ánh sáng lờ mờ lúc bình minh le lói qua những thân cây, chính hắn là người đánh thức cô dậy bằng mũi giày của hắn. Trong giấc mơ cô thấy mình lại là một con sói rượt theo một con ngựa không người cưỡi lên một ngọn đồi, với cả một bầy sói đằng sau cô, nhưng chân hắn đã đem cô trở về với thực tại đúng lúc đàn sói chuẩn bị xé xác con ngựa.
Chó Săn vẫn còn yếu, mọi cử động đều chậm chạp và vụng về. Hắn nằm rạp xuống trên lưng ngựa và đổ mồ hôi, máu bắt đầu chảy qua lớp vải băng. Hắn phải dùng tất cả sức lực để giữ cho mình khỏi ngã từ trên lưng Kẻ Lạ Mặt xuống. Nếu đám người của Núi Yên Ngựa tới săn lùng họ, cô tự hỏi liệu hắn có nhấc nổi kiếm lên không. Arya ngoái nhìn qua vai nhưng không có gì đằng sau họ ngoài một con quạ bay từ cây này sang cây khác. Âm thanh duy nhất là tiếng chảy của dòng sông.
Còn lâu mới tới trưa nhưng Sandor Clegane đã lảo đảo. Ngày còn khá dài nhưng hắn đã ra hiệu dừng lại. “Ta cần nghỉ ngơi,” hắn chỉ nói vậy. Lần này khi xuống ngựa hắn ngã thật. Thay vì cố gắng đứng dậy hắn bò yếu ớt dưới một gốc cây và dựa vào thân cây. “Chết tiệt,” hắn chửi thề. “Chết tiệt.” Khi bắt gặp Arya đang nhìn mình, hắn nói “Ta sẵn sàng lột da ngươi để đổi lấy một ly rượu, nhóc con ạ.”
Thay vì rượu cô mang cho hắn nước. Hắn uống một ít và phàn nàn rằng nó có mùi bùn rồi chìm vào giấc ngủ và lên cơn sốt. Khi cô chạm vào người hắn, da hắn nóng ran. Arya ngửi vết băng như cách Maester Luwin vẫn làm khi chữa những vết cắt hay vết trầy xước cho cô. Mặt hắn chảy máu nhiều nhất nhưng chính vết thương ở bắp đùi hắn mới bốc mùi rất lạ.
Cô tự hỏi còn bao xa nữa mới tới Saltpans và liệu cô có thể tìm thấy nơi đó một mình không. Mình chẳng cần phải gϊếŧ hắn. Nếu mình bỏ đi và để hắn lại, hắn sẽ tự chết. Hắn sẽ chết vì sốt và nằm dưới cái cây đó đến muôn đời. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu cô tự mình gϊếŧ hắn. Cô đã gϊếŧ tên cận vệ tại quán trọ, trong khi hắn không làm gì ngoài việc nắm cánh tay cô. Còn Chó Săn đã gϊếŧ Mycah. Mycah và nhiều người nữa. Mình cá là hắn đã gϊếŧ hàng trăm Mycah. Hắn có lẽ đã gϊếŧ cả cô nếu không vì món tiền chuộc.
Mũi Kim sáng lóe lên khi cô rút nó ra. Ít nhất thì Polliver đã giữ nó sạch sẽ và sắc nhọn. Cô quay người lại với tư thế của một vũ công nước mà không nghĩ ngợi gì. Những chiếc lá lạo xạo dưới chân cô. Nhanh như một con rắn, cô nghĩ, và êm như lụa mùa hè.
Hắn mở mắt. “Cô vẫn nhớ tim nằm ở đâu chứ?” Hắn thều thào bằng một giọng khàn khàn.
Cô đứng lặng như đá. “Tôi… tôi chỉ…”
“Đừng có nói dối,” hắn gầm gừ. “Ta ghét những kẻ nói dối. Những kẻ dối trá hèn nhát còn đáng ghét hơn. Tiếp tục đi, làm đi.” Khi Arya không cử động, hắn nói tiếp. “Ta đã gϊếŧ thằng nhóc con của tên bán thịt bạn cô. Ta chém hắn gần như đứt rời làm hai nửa và lại cười ngay sau đó.” Hắn phát ra một âm thanh kỳ lạ mà phải mất một lúc cô mới nhận ra hắn đang thổn thức. “Và con chim nhỏ, chị gái xinh đẹp của cô, ta đã đứng đó trong chiếc áo choàng trắng và để mặc chúng đánh cô ta. Ta bắt cô ta hát cho ta nghe, việc cô ta chưa bao giờ làm. Ta còn định mang cô ta theo. Đáng lẽ ta nên làm thế. Ta nên chiếm đoạt cô ta, rồi moi tim cô ta ra trước khi để cô ta lại cho tên lùn đó.” Một cơn đau làm mặt hắn co thắt lại. “Cô muốn ta van xin ư, con cɧó ©áϊ? Làm đi! Cho ta ân huệ cuối cùng… và trả thù cho Michael bé nhỏ của cô…”
“Mycah.” Arya lùi ra xa. “Ngươi không đáng nhận được ân huệ cuối cùng.”
Chó Săn nhìn cô đóng yên cho con ngựa Hèn bằng đôi mắt sáng rực vì cơn sốt. Hắn không hề muốn dậy và ngăn cản cô. Nhưng khi cô lên ngựa, hắn nói, “Một con sói thực thụ sẽ kết liễu một con vật bị thương.”
Có lẽ vài con sói thật sẽ tìm thấy ngươi, Arya nghĩ. Có lẽ chúng sẽ đánh hơi thấy ngươi khi mặt trời lặn. Rồi hắn sẽ biết được điều lũ sói sẽ làm với những con chó. “Lẽ ra ngươi không nên đánh ta bằng một cái rìu,” cô nói. “Lẽ ra ngươi nên cứu mẹ ta.” Cô quay ngựa và phi đi, không quay đầu nhìn lại.
Vào một buổi sáng sáu ngày sau đó, cô đến một vùng đất nơi dòng Trident bắt đầu mở rộng, không khí cũng có vị muối nhiều hơn mùi cây cối. Cô men theo dòng nước, vượt qua những cánh đồng và trang trại, và cô tới một thị trấn vào lúc quá trưa. Cô hy vọng đó là Saltpans. Giữa thị trấn có một lâu đài nhỏ, trông nó thực sự không hơn gì một pháo đài, bao gồm duy nhất một tòa tháp cao, một sân trong và một bức tường bao quanh. Hầu hết các cửa hàng, quán trọ và các quán rượu quanh cảng đã bị cướp sạch hoặc bị cháy. Tuy vậy vài ngôi nhà trông có vẻ vẫn có người ở. Nhưng cảng biển đã nằm đây, và trải dài về hướng đông là Vịnh Crabs, nước biển ánh lên màu xanh lam và xanh lục dưới mặt trời.
Và ở đó có những con thuyền.
Ba, Arya nghĩ, có ba con thuyền. Hai con thuyền ga-lê chỉ chạy được trên sông, đó là những chiếc thuyền ônnông được làm chỉ để đi lại trên dòng Trident. Con thuyền thứ ba lớn hơn, một thuyền buôn đi biển với hai hàng chèo, một mũi tàu được mạ vàng và ba cột buồm cao với những cánh buồm màu đỏ tía. Thân tàu cũng được sơn màu đỏ tía. Arya cưỡi con Hèn tới bến tàu để quan sát tốt hơn. Một người lạ mặt là chuyện không có gì xa lạ ở một bến cảng, không giống như khi họ ở các ngôi làng nhỏ, và dường như không ai quan tâm cô là ai hay tại sao cô lại ở đây.
Mình cần có bạc. Cô bặm môi khi nhận ra điều này. Họ tìm thấy một đồng bạc và cả tá xu đồng trên người Polliver, tám đồng bạc trên người tên cận vệ mặt mụn cô gϊếŧ và chỉ có vài đồng xu lẻ trong ví của gã Cù Lét. Nhưng Chó Săn đã bảo cô tháo giày và bộ quần áo sũng máu của hắn ra, cô tìm thấy một đồng bạc trong mỗi kẽ chân và ba đồng vàng được khâu bên trong lớp vải lót của chiếc áo chẽn bằng da của hắn. Tuy nhiên Sandor giữ tất cả số tiền. Thật không công bằng. Đó cũng là tiền của mình. Nếu cô tặng hắn nhát kiếm ân huệ thì… thế nhưng cô đã không làm vậy. Cô không thể quay lại, cũng không thể van xin giúp đỡ. Cầu xin sự giúp đỡ sẽ chẳng mang lại kết quả gì. Cô sẽ phải bán con Hèn và hy vọng sẽ đủ tiền.
Cô biết được tin chuồng ngựa đã bị cháy từ một cậu bé ở gần bến tàu, nhưng bà chủ chuồng ngựa vẫn buôn bán phía sau thánh điện. Arya dễ dàng tìm ra bà ta; một người phụ nữ khỏe mạnh, to lớn mang mùi ngựa đặc trưng. Bà ta thích con Hèn ngay từ cái nhìn đầu tiên và hỏi Arya làm thế nào có được nó, rồi cười toe toét khi cô trả lời. “Nó thuộc giống ngựa tốt, rõ ràng là như vậy, và tôi dám chắc nó thuộc về một hiệp sỹ, cô gái đáng yêu ạ,” bà ta nói. “Nhưng vị hiệp sỹ đó không phải là một ông anh đã qua đời của cô. Tôi đã buôn bán với những người sống trong lâu đài nhiều năm rồi, vì thế tôi biết những người quyền quý trông như thế nào. Con ngựa này có nòi tốt, nhưng cô thì không.” Bà ta ấn một ngón tay vào ngực Arya. “Chắc chắn là cô tìm thấy nó hoặc ăn trộm nó. Một con nhỏ lếch thếch như cô chỉ đáng cưỡi một con ngựa nhỏ thôi.”
Arya cắn môi. “Vậy là bà sẽ không mua nó?” Người phụ nữ cười khúc khích. “Có nghĩa là tôi đưa bằng nào cô cũng phải nhận, cô gái đáng yêu ạ. Nếu không khi chúng ta tới lâu đài, có thể cô sẽ chẳng nhận được gì. Thậm chí còn bị treo cổ vì trộm ngựa của một hiệp sỹ cao quý nào đó.”
Năm, sáu người Saltpans đang đứng ở đó, bận bịu với công việc của họ, vì vậy Arya biết mình không thể gϊếŧ bà ta. Thay vào đó, cô đành cắn môi để bà ta lừa mình. Số tiền cô nhận được ít ỏi một cách đáng thương, và khi cô đòi thêm tiền cho cái yên ngựa, dây cương và tấm vải phủ yên, bà ta còn cười cô.
Đáng lẽ cô không nên lừa Chó Săn, cô nghĩ suốt quãng đường quay trở lại bến tàu. Khoảng cách dường như tăng lên hàng dặm so với khi cưỡi ngựa.
Con tàu đỏ tía vẫn ở đó. Nếu con tàu căng buồm đi mất khi cô đang bị trấn lột, chắc cô sẽ không thể chịu đựng nổi. Một thùng rượu mật ong đang được lăn lên tấm ván khi cô tới. Khi Arya cố gắng đi theo, một thủy thủ trên boong nhìn thấy và quát cô bằng một thứ tiếng cô nghe không hiểu. “Tôi muốn gặp thuyền trưởng,” Arya bảo hắn. Hắn chỉ quát to hơn. Nhưng tiếng ồn ào đó lại thu hút sự chú ý của một người đàn ông mập mạp với mái tóc hoa râm. Ông ta mặc một chiếc áo khoác bằng len đỏ tía và nói tiếng phổ thông. “Tôi là thuyền trưởng ở đây,” ông nói. “Cô muốn gì? Nhanh lên cô bé, chúng ta phải ra khơi.”
“Tôi muốn đi về phương bắc, tới Tường Thành. Đây, tôi có tiền.” Cô đưa túi tiền cho ông ta. “Đội Tuần Đêm có một lâu đài bên bờ biển.”
“Trạm Đông.” Vị thuyền trưởng đổ số bạc trong túi ra tay và cau mày. “Đây là tất cả những gì cô có sao?”
Vậy là không đủ, Arya hiểu điều đó dù ông ta không nói. Cô có thể thấy qua khuôn mặt của ông. “Tôi sẽ không cần ở trong khoang hay bất cứ thứ gì,” cô nói. “Tôi có thể ngủ trong hầm chứa hàng, hoặc…”
“Hãy nhận cô ta làm phục vụ tàu,” một thanh niên chèo thuyền đi ngang qua nói, trên vai mang một súc len. “Cô ta có thể ngủ với tôi.”
“Cẩn thận cái lưỡi của cậu đấy,” vị thuyền trưởng quát.
“Tôi có thể làm việc,” Arya nói. “Tôi có thể lau boong tàu. Tôi đã từng lau bậc cầu thang lâu đài một lần rồi. Hoặc tôi có thể chèo thuyền…”
“Không,” ông nói, “cô không thể.” Ông đưa lại cho cô những đồng xu. “Kể cả nếu cô có thể thì cũng chẳng có gì khác biệt, cô bé ạ. Phía bắc chẳng có gì cho chúng ta. Chỉ có băng giá, chiến tranh và cướp biển. Chúng tôi đã gặp cả chục tàu cướp biển đi về phía bắc khi chúng tôi qua mũi Crackclaw, và tôi không muốn gặp lại chúng. Từ đây chúng tôi sẽ trở về nhà. Tôi nghĩ cô bé cũng nên làm thế.”
Mình làm gì có nhà, Arya nghĩ. Mình không có họ hàng thân thích, và giờ mình còn không có cả một con ngựa.
Khi vị thuyền trưởng quay đi, cô hỏi. “Đây là thuyền gì vậy, thưa thuyền trưởng?”
Ông ngừng lại đủ lâu để nở một nụ cười lãnh đạm. “Đây là tàu Con Gái của Titan, đến từ Thành Phố Tự Trị Braavos.”
“Đợi đã,” Arya nói. “Tôi có thứ khác.” Cô đã cất nó rất kỹ trong bộ quần áo mặc lót để khỏi rơi mất, nên giờ cô phải lục tìm nó trong khi các tay chèo phá lên cười, và vị thuyền trưởng sốt ruột chờ đợi. “Thêm một đồng bạc nữa cũng không có gì khác biệt đâu, cô bé,” cuối cùng ông nói.
“Không phải bạc.” Cô nắm chặt nó trong tay. “Nó làm bằng sắt. Đây.” Cô ấn vào tay ông đồng xu sắt đen nhỏ mà H’ghar đã đưa cho cô. Đồng xu mòn tới mức hình đầu người trên đồng xu đã mòn gần hết. Có thể nó chẳng có giá trị gì, nhưng…
Vị thuyền trưởng lật đồng xu lại và chớp mắt, rồi nhìn vào cô gái. “Cái này… làm thế nào…?”
Jaqen dặn cô phải nói hai từ đó nữa. Arya khoanh tay trước ngực. “Valar morghulis,” cô nói to như thể cô biết nó có ý nghĩa gì.
“Valar dohaeris,” ông trả lời và chạm hai ngón tay lên lông mày. “Tất nhiên cô sẽ được ở trong khoang hành khách.”