Khi ông lên tới boong tàu, đỉnh mũi dài của Driftmark nhỏ lại phía sau lưng họ trong khi Dragonstone nhô lên từ mặt biển phía trước. Một làn khói xám nhạt tỏa ra từ đỉnh núi đánh dấu nơi tọa lạc của hòn đảo. Dragonmont sớm nay không nghỉ, Davos thầm nghĩ, hoặc Melisandre đang thiêu đốt ai đó.
Melisandre miên man trong suy nghĩ của ông khi con thuyền Vũ Điệu Shayala lướt qua Vịnh Xoáy Nước Đen và đi vào Gullet, chạy theo hình chữ chi trước những cơn gió ngang bướng. Ngọn lửa lớn cháy bên trên hải đăng Mũi Nhọn ở cuối Massey’s Hook khiến ông nhớ đến viên hồng ngọc mà cô ta đeo trên cổ, và khi cả thế giới chìm trong ngọn lửa đỏ từ sớm bình minh lên và khi mặt trời lặn, những đám mây đang lơ lửng bay cũng chuyển sang màu đỏ, như màu lụa và sa-tanh đỏ trên chiếc áo khoác của cô ta.
Có thể ở Dragonstone, cô ta đang chờ đợi, chờ đợi trong vẻ xinh đẹp và quyền năng của cô ta, với vị thần lửa, bóng tối và vị vua của cô ta. Ả nữ tu đỏ ấy cho đến giờ phút này có vẻ vẫn luôn luôn trung thành với Stannis. Cô ta đã hủy hoại ông ta, như một con người hủy hoại một con ngựa. Nếu muốn, ả có thể dùng quyền năng để chế ngự ông ta, và vì lý do đó, mà ả đã đưa các con trai ta vào vòng vây lửa. Ta sẽ cắt phăng quả tim sống khỏi ngực ả và xem quả tim ấy cháy thế nào. Ông chạm vào chuôi con dao găm Lyseni dài mà thuyền trưởng đưa cho.
Vị thuyền trưởng ấy rất tử tế với ông. Tên ông ta là Khorane Sathmantes, người Lyseni như Sallashor Saan, người sở hữu con tàu này. Mắt ông ta màu xanh nhạt, giống y hệt mắt của những người Lys khác, khuôn mặt khắc khổ, xương xẩu vì dãi gió dầm sương, nhưng ông ta đã giao thương ở Bảy Phụ Quốc suốt nhiều năm ròng. Khi ông ta biết người đàn ông được cứu dưới biển kia là vị hiệp sĩ nổi tiếng, ông ta để vị hiệp sĩ ấy được sử dụng buồng riêng và mặc quần áo của ông ta, và đưa đôi giày mới vừa khít cho vị hiệp sĩ. Ông ta khăng khăng đòi Davos cho ông ta mặc chung đồ, mặc dù đồ của Davos đã bị rách tả tơi. Davos không sao tiêu hóa nổi ốc sên, cá mυ'ŧ đá và đồ ăn mà thuyền trưởng Khorane thích thú, vì vậy, sau bữa ăn đầu tiên tại bàn ăn của thuyền trưởng, ông dành thời gian còn lại trong ngày đứng ngoài tay vịn trên tàu.
Dragonstone hiện ra mỗi lúc một lớn theo từng nhịp chèo. Giờ thì Davos đã nhìn thấy hình hài của ngọn núi, và phía bên kia sườn núi, một thành lũy màu đen, to lớn, hiện lên với những miệng máng xối và tháp rồng. Hình chạm màu đồng thiếc ở mũi tàu Vũ Điệu Shayala làm bắn tung từng bụi nước mặn khi nó cắt ngang các con sóng. Ông dựa người vào lan can, lòng thầm cảm ơn sự giúp đỡ kịp thời của con tàu. Thử thách của chính ông khiến ông suy kiệt. Nếu đứng quá lâu, chân ông run lẩy bẩy, và đôi lúc, ông là nạn nhân của những cơn ho không thể kiểm soát và khạc ra đờm có máu. Không sao hết, ông tự nhủ. Chắc chắn các vị thần không để ta vượt lửa và biển an toàn chỉ để gϊếŧ ta bằng những cục đờm máu kia.
Khi ông lắng nghe tiếng thình thịch phát ra từ trống của các tay chèo, tiếng vỗ của cánh buồm, tiếng rít và tiếng cọt kẹt nhịp nhàng của các mái chèo, ông nhớ lại những ngày còn trẻ, khi cũng những âm thanh này đánh thức nỗi khϊếp sợ mơ hồ trong lòng ông. Họ nhìn thấy trước sự tiến đến của đội tuần biển đêm của Ser Tristimun, và đội tuần biển đêm tức là tử thần đối với các tàu buôn lậu thời Aerys Targaryen còn ngự trị ngai vàng.
Nhưng đó là một cuộc đời khác, ông thầm nghĩ. Đó là thời kỳ trước khi có những chuyến tàu buôn hành, trước trận Storm’s End, trước khi Stannis chặt các đốt tay đầu của ta. Đó là thời kỳ trước khi diễn ra chiến tranh, hay sao chổi đỏ ấy, trước khi ta là Seaworth hay trở thành một hiệp sĩ. Hồi đó, ta là một con người hoàn toàn khác, trước khi được Lãnh chúa Stannis trọng dụng.
Thuyền trưởng Khorane kể cho ông nghe về việc kết thúc những hy vọng của Stannis, vào cái đêm trước khi con thuyền cháy rụi. Người Nhà Lannisters đã tấn công ngài từ bên hông, và người mang cờ hiệu của ngài lũ lượt bỏ rơi ngài vào đúng thời khắc mà ngài cần họ nhất. “Người ta cũng thấy vong hồn vua Renly nữa,” thuyền trưởng nói, “ông bị tấn công cả hai bên tả hữu trong khi ông dẫn đầu đội quân tiên phong. Bọn họ nói chiếc áo giáp xanh của ông sáng rực đầy vẻ ma quái trong đám lửa, và đôi gạc của ông ta cũng tan biến trong những ngọn lửa vàng rực.”
Vong hồn của Renly. Davos tự hỏi liệu vong hồn các con trai ông có trở lại hay không. Ông đã nhìn thấy quá nhiều thứ kỳ quái trên biển, đến mức ông không thể nói rằng trên đời này không có ma. “Có kẻ nào không giữ lòng trung thành không?” ông hỏi.
“Có, ít thôi,” vị thuyền trưởng nói. “Người thân của hoàng hậu, chủ yếu là vậy. Chúng tôi đưa lên thuyền rất nhiều người đeo huy hiệu cáo-và-hoa, mặc dù vẫn còn nhiều người hơn thế bị bỏ lại trên bờ, với vô số những huy hiệu khác. Hiện giờ, ở Dragonstone, Lãnh chúa Florent là quân sư của nhà vua.”
Ngọn núi hiện lên mỗi lúc một cao hơn, đỉnh núi phủ sâu một lớp khói nhạt. Cánh buồm ngân nga, trống vang dồn, mái chèo nhịp nhàng, và trước mặt họ, cửa cảng mở toang đón chào. Trống trải quá, Davos thầm nghĩ, và ông nhớ trước đây nơi này nhộn nhịp như thế nào, với tàu thuyền neo đậu kín các bến cảng và lắc lư trước mỏ neo của đê chắn sóng. Ông vẫn hình dung thấy tàu chỉ huy Valyrian của Salladhor Saan được cột ở bến cảng, nơi mà con tàu Thịnh Nộ và các con tàu cùng chủng loại từng được cột. Thân các con tàu neo đậu hai bên con tàu này cũng được sơn sọc Lyseni. Ông tìm kiếm dấu hiệu của Phu nhân Marya, Hồn Ma trong vô vọng.
Họ kéo buồm xuống khi cập cảng, để đưa tàu vào bến bằng chèo thôi. Vị thuyền trưởng đến bên Davos khi bọn họ đang buộc tàu. “Hoàng tử của tôi mong được gặp ngài ngay lập tức.”
Cơn ho bấu chặt lấy Davos khi ông định đáp lời. Ông túm chặt lấy tay vịn và khạc sang bên. “Bệ hạ,” ông khò khè nói. “Tôi phải gặp bệ hạ.” Vì nơi nhà vua ở là nơi ta sẽ tìm thấy Melisandre.
“Không ai đi gặp vua cả,” Khorance Sathmantes kiên quyết nói. “Salldhor Saan sẽ nói chuyện với ngài trước.”
Davos quá yếu không thể chống lại ông ta. Ông chỉ có thể gật đầu.
Salladhor Saan không ở trên con tàu Valyrian của ông ta. Họ tìm thấy ông ta ở một bến cảng cách đó khoảng một dặm, tít bên dưới khoang của một con tàu bụng-to tên là Vụ Mùa Bội Thu, và ông ta đang đếm hàng hóa với hai thái giám. Một người cầm đèn l*иg, một người cầm hộp sáp và bút. “Ba mươi bảy, ba mươi tám, ba mươi chín,” lão già xảo quyệt đang đếm khi Davos và vị thuyền trưởng xuống đến cửa khoang chứa hàng. Hôm nay lão ta mặc áo dài màu rượu vang, đi ủng cao làm bằng da trắng có trang trí các đường cuộn màu bạc. Mở nút của một cái lọ ra, lão hít ngửi, hắt hơi và nói, “món nghiền thối, chất lượng này chỉ hạng hai thôi. Hóa đơn hàng viết là có bốn mươi ba lọ. Thế thì đám lọ còn lại thối rữa đến mức nào rồi? Đám người Pentos này, bọn chúng tưởng tôi không đếm chác gì sao?” Khi nhìn thấy Davos, lão ta ngừng nói ngay lập tức. “Hạt tiêu làm mắt tôi cay quá, hay tại nước mắt nhỉ? Có phải vị hiệp sĩ buôn hành đang đứng trước mặt tôi không nhỉ? Không không, làm sao mà như thế được, vì ông bạn Davos thân mến của tôi đã bỏ mạng trên dòng sông lửa rồi cơ mà, ai cũng nói vậy đấy. Thế thì tại sao ông ấy lại đến ám tôi thế này?”
“Salla, tôi không phải ma đâu.”
“Thế thì còn là gì được nữa? Vị hiệp sĩ buôn hành của tôi không gầy guộc và xanh xao như ông bạn đâu.” Salladhor Saan lách giữa các lọ gia vị và các kiện vải chất đầy khoang chứa hàng và bước đến ôm ghì lấy Davos, rồi hôn lên hai má ông, kế đến là hôn lên trán. “Ser, da thịt ông vẫn còn ấm nóng lắm, và tôi thấy tim ông đang đập thình thịch. Có lẽ nào là thật sao? Biển khơi nuốt chửng ông rồi nhả ông trở lại rồi.”
Davos chợt nhớ đến Mặt Sẹo, một tên đần độn của công chúa Shireen. Hắn ta cũng bị nhấn chìm dưới lòng biển sâu, và khi được cứu sống, hắn đã hóa điên. Liệu ta có điên không? Ông ho vào bàn tay đi găng và nói, “Tôi bơi bên dưới hàng dây xích và bị dạt vào bờ một mỏm đá. Chắc hẳn tôi đã bỏ mạng ở đó, nếu con tàu Vũ Điệu Shayala không đến cứu tôi.”
Salladhor Saan quàng một tay lên vai thuyền trưởng. “Khorane, ông làm giỏi lắm. Thế nào ông cũng sẽ được trọng thưởng. Meizo Mahr, cư xử như một gã thái giám tử tế và đưa ông bạn Davos của ta lên buồng thuyền trưởng. Đem cho ông ấy rượu nóng có thêm đinh hương, vì ta không thích tiếng ho của ông ấy chút nào. Vắt thêm vài giọt chanh vào rượu nữa nhé. Nhớ mang cả pho mát trắng và một bát quả ô-liu xanh nứt mà chúng ta đếm lúc nãy nhé! Davos, tôi sẽ lên với ông ngay, sau khi tôi hầu chuyện vị thuyền trưởng tốt bụng này xong. Tôi biết ông sẽ thứ lỗi cho tôi. Nhớ đừng ăn hết ô-liu nhé, nếu không tôi sẽ giận ông lắm đấy.”
Davos để người nhiều tuổi hơn trong số hai thái giám hộ tống ông lên buồng tàu rộng và được trang bị đồ đạc một cách thừa thãi ở mũi tàu. Thảm màu thẫm, cửa làm bằng kính màu, và những chiếc ghế da lớn đến mức ba người như Davos cũng có thể ngồi thoải mái. Pho mát và ô-liu được mang vào ngay lập tức, cùng với một ly rượu đỏ nóng bốc hơi. Ông lấy hai tay cầm ly rượu và nhấm nháp với vẻ biết ơn. Hơi ấm thật dễ chịu khi nó tỏa khắp l*иg ngực ông.
Không lâu sau Salladhor Saan xuất hiện. “Ông bạn, ông phải thứ lỗi cho tôi vì món rượu này. Đám người Pentos này sẽ uống nướ© ŧıểυ của chúng luôn nếu nướ© ŧıểυ màu tím.”
“Nó sẽ hữu ích cho ngực của tôi,” Davos nói. “Rượu nóng tốt hơn cả gạc bông, mẹ tôi vẫn thường nói vậy.”
“Rồi ông sẽ cần cả gạc bông nữa. Trời ơi, ông phải ngồi trên một mỏm đá nhọn lâu đến vậy đấy. Ông thấy chiếc ghế tuyệt vời đó thế nào? Má lão bự lắm đúng không?”
“Ai cơ?” Davos hỏi khi đang nhấm nháp rượu nóng.
“Illyrio Mopatis ấy. Một con cá voi có ria, thành thực với ông là vậy. Những chiếc ghế này được làm theo tiêu chuẩn của lão ta, mặc dù hiếm khi nào lão tự tỉnh giấc từ Pentos để ngồi lên mấy chiếc ghế. Một gã đàn ông béo múp luôn luôn ngồi trong tư thế thoải mái, vì đi đâu lão ta cũng mang theo gối.”
“Làm sao ông có được một con tàu của người Pentos vậy?” Davos hỏi. “Hay ông lại đi cướp biển?” Ông đặt chiếc ly rượu trống không sang bên cạnh.
“Vu khống rẻ tiền quá. Ai là người phải chịu đựng nhiều tàu cướp biển hơn Salladhor Saan nào? Tôi chỉ đòi hỏi cái xứng đáng với mình thôi. Nhiều vàng lắm, nhưng tôi không làm mà không có lý do đâu, vì vậy, thay vì tiền xu, thì tôi có một mảnh giấy da đẹp, cứng lắm. Mảnh giấy ấy có tên và con dấu của Lãnh chúa Alester Florent, quân sư của nhà vua. Tôi được phong lãnh chúa của Vịnh Xoáy Nước Đen đấy, và không con tàu nào được phép vượt hải lưu của tôi mà không được tôi cho phép, không đâu nhé. Và khi những con tàu không tuân thủ luật pháp này cố qua mắt tôi trong đêm để trốn thuế hải quan và các nghĩa vụ theo luật pháp, thì chúng cũng chỉ là tàu buôn lậu thôi, vì vậy tôi có đủ thẩm quyền để bắt giữ chúng.” Gã cướp biển già cười khà khà. “Dù vậy, tôi không chặt ngón tay ai hết. Mấy mẩu xương tay thì có ích gì đâu? Tôi có thuyền, có hàng, có đôi chút tiền chuộc, cái gì cũng hợp lý hết.” Ông ta quắc mắt nhìn Davos. “Ông bạn ơi, ông không được khỏe rồi. Cơn ho ấy… ông lại gầy nhom nữa, toàn da bọc xương thôi. Nhưng tôi không nhìn thấy cái bao đựng mấy mẩu xương tay của ông đâu…”
Thói quen cũ khiến Davos đưa tay lên tìm chiếc bao da không còn ở trên cổ nữa. “Tôi làm mất ngoài sông rồi.” Thần may mắn của tôi.
“Con sông thật khủng khϊếp,” Salladhor Saan nghiêm nghị nói. “Ngay cả khi ở trong vịnh tôi vẫn nhìn thấy, khủng khϊếp đến rùng mình.”
Davos vừa vỗ ngực vừa ho. “Tôi thấy tàu Betha Đen và Thịnh Nộ cũng cháy,” ông cố nói bằng giọng khàn khàn. “Có con tàu nào thoát lửa không?” Một phần trong ông vẫn còn hy vọng.
“Lãnh chúa Steffon, tàu Jenna Rách Rưới, Tốc Kiếm, Lãnh chúa Cười và một số con tàu khác ngược dòng lửa. Không cháy, nhưng khi dây xích được nâng lên, tàu không đi đâu được nữa. Một số đầu hàng. Số khác chèo lên tận vịnh Xoáy Nước Đen, tránh xa khỏi trận chiến, nhưng rồi các thủy thủ cho tàu chìm để không bị lọt vào tay của bọn Lannister. Tàu Jenna Rách Rưới và Lãnh chúa Cười vẫn cướp hàng trên sông, tôi nghe nói vậy, nhưng ai dám nói vậy nếu quả là có thật?”
“Phu nhân Marya?” Davos hỏi. “Hồn Ma nữa?”
Salladhor Saan đặt một tay lên cẳng tay của Davos và xiết chặt. “Không. Họ không sao. Thật tiếc, ông bạn ạ. Dale và Allard là những thanh niên tốt. Nhưng hy vọng điều này sẽ an ủi ông phần nào – Devan là một trong số những người được chúng tôi đưa lên tàu lúc cuối cùng. Cậu bé dũng cảm ấy chưa từng rời phe nhà vua, hoặc là bọn họ nói vậy đấy.”
Trong một giây, ông cảm thấy choáng váng, sự nhẹ nhõm của ông gần như sờ thấy được. Ông đã rất sợ không dám hỏi gì về Devan. “Đức Mẹ thật khoan dung. Salla, tôi phải gặp ngài. Tôi phải gặp ngài thôi.”
“Đúng,” Salladhor Saan nói. “Và ông cũng muốn giương buồm đi Cape Wrath, để gặp vợ và các con ông. Chắc hẳn ông phải có một con tàu mới.”
“Nhà vua sẽ cho tôi một con tàu,” Davos nói.
Gã Lyseni lắc đầu. “Nói về tàu, thì nhà vua không có con tàu nào hết, còn Salladhor Saan thì có vô khối. Tàu của nhà vua đều đã cháy rụi trên sông, còn tàu của tôi thì không. Ông bạn cũ, ông sẽ có một con tàu. Và ông sẽ giương buồm vì tôi, phải không? Ông sẽ nhảy tót lên con tàu Braavos, Myr và Volantis trong đêm tối, khi không ai nhìn thấy, và lại nhảy múa với nào lụa là, nào gia vị. Rồi chúng ta sẽ rủng rỉnh tiền tiêu.”
“Salla, ông tử tế lắm, nhưng bổn phận của tôi là phục vụ vua, không phải phục vụ túi tiền của ông. Chiến tranh sẽ tiếp diễn. Stannis sẽ vẫn là người thừa kế hợp pháp thể theo mọi luật định của Bảy Phụ Quốc.”
“Luật định không ích gì khi thuyền tàu bị thiêu rụi hết, tôi cho là vậy. Và vị vua của ông, ừm, ông sẽ thấy ngài ấy thay đổi lắm. Kể từ khi diễn ra trận chiến, ngài ấy không gặp một ai, chỉ ngồi rịt trong Trống Đá thôi. Hoàng hậu Selyse cùng với ông cậu của người là Lãnh chúa Alester nhϊếp chính thay ngài ấy, và ngài lãnh chúa này tự phong cho mình là quân sư. Hoàng hậu cũng giao con dấu cho ông cậu, để đóng vào những bức thư mà ông ấy viết, và đóng cả vào tờ giấy da xinh đẹp của tôi nữa. Nhưng họ đang trị vì một vương quốc bé nhỏ, nghèo nàn và không vững bền. Ở đó đâu có vàng, thậm chí một mẩu vàng nhỏ để trả ơn cho Salladhor Saan cũng không có, với vài hiệp sĩ mà chúng tôi cứu lúc cuối cùng, không tàu thuyền, trừ mấy con tàu dũng cảm của tôi.”
Một cơn ho đau buốt bất ngờ khiến Davos co gập người lại. Salladhor Saan bước đến giúp, nhưng ông xua tay không cần, và lấy lại sức sau một giây. “Không một ai sao?” ông khò khè hỏi. “Ý ông là sao, ngài ấy không gặp một ai sao?” Giọng ông khản đặc, và trong một thoáng, buồng thuyền trưởng lại chao đảo trước mắt ông.
“Không một ai, trừ cô ta,” Salladhor Saan nói, và Davos không cần hỏi xem cô ta là ai. “Ông bạn ơi, ông tự làm khổ mình kìa. Ông đang cần một chiếc giường, chứ không phải Salladhor Saan đâu. Một chiếc giường và nhiều chăn đệm, với một miếng gạc nóng để làm ấm ngực, thêm rượu và thêm đinh hương nữa.”
Davos lắc đầu. “Tôi sẽ ổn thôi. Salla, nói cho tôi biết đi, tôi cần phải biết. Không ai trừ Melisandre sao?”
Gã Lyseni nhìn ông hồi lâu, vẻ hoài nghi, và miễn cưỡng nói tiếp. “Cận vệ không cho ai vào, kể cả hoàng hậu và công chúa. Đầy tớ dọn bữa mà không ai ăn.” Ông nhướn người ra trước và hạ thấp giọng. “Tôi nghe được nhiều chuyện kỳ quái lắm, về những ngọn lửa đói bên trong ngọn núi, về chuyện Stannis và mụ đàn bà mặc đồ đỏ ấy đã cùng nhau xuống núi để quan sát lửa như thế nào. Nhiều giáo mác lắm, họ nói vậy, và những cầu thang bí mật theo suốt trung tâm ngọn núi, ở trong những vị trí nóng bỏng mà chỉ có cô ta mới bước qua mà không bị thiêu rụi. Quả là quá nhiều nỗi kinh hoàng đối với một người đàn ông già như vậy, đến mức đôi lúc ngài ấy còn không có đủ sức lực để ăn.”
Melisandre. Davos rùng mình. “Ả nữ tu đỏ đã làm như vậy với ngài,” ông nói. “Cô ta cho lửa đến phá hủy chúng ta, để trừng phạt Stannis vì đã gạt cô ta sang một bên, để cho ngài biết rằng ngài đừng mong thắng trận nếu không có trò ma thuật của cô ta.”
Gã Lyseni chọn một quả ô-liu mập mạp trong bát. “Ông không phải là người đầu tiên nói như vậy, ông bạn ạ. Nhưng nếu tôi là ông, thì tôi không lớn tiếng vậy đâu. Dragonstone giờ nhung nhúc người của cô ta, đúng vậy đấy, tai bọn họ thính lắm, nhưng dao của bọn họ còn bén hơn nhiều.” Gã thả tọp quả ô-liu vào miệng.
“Tôi cũng có dao. Thuyền trưởng Khorane tặng cho tôi.” Ông lôi con dao găm ra và đặt trên bàn giữa hai người. “Một con dao để cắt ngang l*иg ngực của Melisandre. Nếu cô ta thực sự có tim.”
Salladhor Saan bóc hột ô-liu ra. “Davos ơi, ông Davos thông thái ơi, ông không nên nói những điều như thế, dù chỉ là nói đùa.”
“Tôi không đùa. Tôi sẽ gϊếŧ cô ta.” Nếu cô ta có thể bị gϊếŧ bởi những vũ khí có thể gϊếŧ chết con người bình thường. Davos không biết liệu có thể như thế không. Ông đã thấy Maester Cressen bỏ chất độc vào rượu của cô ta, ông đã tận mắt nhìn thấy, nhưng khi cả hai người cùng uống rượu đã bị tẩm độc, thì chỉ có vị học sĩ chết, còn ả nữ tu đỏ thì không. Nhưng, một con dao cắm phập vào tim… ngay cả quỹ dữ cũng có thể bị gϊếŧ bởi thép lạnh, các nhà thơ đã nói như vậy.
“Ông bạn ạ, những lời nói như thế nguy hiểm lắm,” Salladhor Saan cảnh báo ông. “Tôi nghĩ ông vẫn còn đang say sóng. Cơn sốt cuốn phăng trí khôn của ông rồi. Tốt nhất là ông nên nằm giường nghỉ ngơi lâu lâu một chút, cho đến khi ông khỏe hơn.”
Cho đến khi quyết tâm của tôi yếu đi, ý ông là vậy đấy. Davos đứng lên. Ông thấy cơ thể mình nóng ran, và hơi chóng mặt, nhưng điều đó không quan trọng. “Ông là một gã xỏ lá bội bạc, Salladhor Saan ạ, nhưng ông cũng là một người bạn tốt lắm.”
Gã Lyseni vuốt bộ ria bạc. “Vậy là, vì người bạn già này, ông sẽ ở lại chứ?”
“Không, tôi sẽ đi.” Ông lại ho sù sụ.
“Đi ư? Ông nhìn mình xem! Ông ho sù sụ, chân tay run lẩy bẩy, người còm nhom và yếu xìu. Ông sẽ đi đâu nào?”
“Đến lâu đài. Giường của tôi ở đó, và cả con trai tôi nữa.”
“Và cả ả nữ tu đỏ nữa,” Salladhor Saan nói đầy châm chọc. “Ả ta cũng ở trong lâu đài mà.”
“Cô ta cũng ở trong đó.” Davos nhét dao găm vào bao.
“Lão buôn hành ơi, ông biết gì về chuyện chém gϊếŧ nào? Ông lại đang bệnh, đến cầm dao cũng không nổi. Ông có biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông bị bắt không? Trong khi chúng ta bị cháy rụi trên sông, thì hoàng hậu thiêu rụi những kẻ phản bội. Tôi tớ của bóng đêm, hoàng hậu gọi bọn họ là vậy, ôi, những con người tội nghiệp, và ả đàn bà đỏ hát vang trong khi ngọn lửa được đốt lên.”
Davos không hề ngạc nhiên. Ta biết, ông thầm nghĩ, ta biết trước khi ông nói với ta. “Cô ta lôi Lãnh chúa Sunglass từ căn ngục lên,” ông đoán, “và cả các con trai của Hubard Rambton nữa.”
“Đúng vậy, và hỏa thiêu bọn họ, y như cô ta sẽ hỏa thiêu ông thôi. Nếu ông gϊếŧ ả nữ tu đỏ ấy, bọn họ sẽ hỏa thiêu ông để trả thù, và nếu ông gϊếŧ ả không thành, bọn họ sẽ thiêu ông vì dám làm vậy. Ả sẽ hát vang, còn ông sẽ gào thét, và chết ngắc. Mà ông thì vừa mới sống trở lại với đời!”
“Và đó là lý do,” Davos nói. “Để làm việc này. Để kết liễu Melisandre vùng Asshai và kết thúc những việc mà cô ta sẽ làm. Biển cả đưa tôi trở lại vì lý do nào khác nữa? Salla, ông nắm rõ Vịnh Xoáy Nước Đen y như tôi. Không một vị thuyền trưởng nhạy bén nào lại đưa tàu ngang qua các mỏm đá và chấp nhận rủi ro để đáy tàu bị thủng. Vũ Điệu Shayala đáng ra không bao giờ đến gần tôi được.”
“Một cơn gió thôi,” Salladhor Saan khăng khăng nói, “một cơn gió ngu muội, chỉ vậy thôi. Một cơn gió thổi tàu đi quá xa đến phía nam.”
“Và ai gửi đến cơn gió ấy? Salla, Đức Mẹ đã nói chuyện với tôi.”
Gã Lyseni luống tuổi chớp mắt nhìn ông. “Mẹ ông mất rồi…”
“Mẹ biển cả ấy. Người ban cho tôi bảy đứa con trai, thế mà tôi lại để bọn chúng thiêu đốt người. Người nói chuyện với tôi. Chúng tôi đã gọi lửa lên, người nói vậy. Chúng tôi cũng gọi bóng tối lên. Tôi đã chèo thuyền đưa Melisandre vào giữa dòng của Storm’s End và nhìn cô ta gây tai họa.” Trong những cơn ác mộng, ông vẫn thấy rõ cảnh ấy, hai bàn tay đen, gầy hốc hác với lấy đùi cô ta khi nó vặn vẹo chui ra khỏi cái bụng căng phồng của cô ta. “Cô ta đã gϊếŧ Cressen, Lãnh chúa Renly và một người đàn ông dũng cảm tên là Cormay Penrose, và cô ta cũng gϊếŧ các con trai tôi nữa. Giờ đã đến lúc phải có người gϊếŧ cô ta.”
“Phải có ai đó,” Salladhor Saan nói. “Đúng thế, đúng thế, phải có ai đó. Nhưng không phải ông. Ông yếu ớt như một đứa bé con, và ông không phải chiến binh. Ở lại đi, xin ông đấy, chúng ta sẽ trò chuyện nhiều hơn, và ông sẽ ăn thêm, và có lẽ, chúng ta sẽ giương buồm đến Braavos và thuê một Kẻ Giấu Mặt làm việc này, được không? Còn ông, không được, ông phải ngồi xuống và ăn thêm.”
Ông ta đã khiến việc này thêm khó khăn đây, Davos mệt mỏi nghĩ, và thật khó để tranh cãi. “Salla, lòng dạ tôi chỉ nghĩ đến việc trả thù. Không còn chỗ để chứa thức ăn đâu. Để tôi đi đi. Vì tình bạn của chúng ta, hãy chúc tôi may mắn và để tôi đi.”
Salladhor Saan ngồi xuống. “Ông không phải người bạn đích thực. Khi ông chết, ai sẽ là người đem tro và xương của ông về cho vợ ông và nói với bà ấy rằng bà ấy đã mất chồng và bốn đứa con trai? Chỉ là lão già Salladhor Saan sầu muộn này thôi. Nhưng này, lão hiệp sĩ liều mạng kia, ông lao xuống mồ của ông đi. Tôi sẽ nhét xương của ông vào túi và đưa lại cho mấy đứa con trai còn lại của ông, để tụi nó cho vào bao mà đeo lủng lẳng quanh cổ.” Ông ta vung vẩy bàn tay đầy nhẫn nóng giận. “Đi đi, đi đi, đi đi.”
Davos không muốn đi như thế này. “Salla…”
“ĐI ĐI. Nếu không thì hãy ở lại, tốt hơn là như vậy, nhưng nếu ông định đi, thì đi ngay đi.”
Ông quay người bước đi.
Đoạn đường đi từ Vụ Mùa Bội Thu đến cổng Dragonstone rất dài, và cô độc. Những con đường ở khu vực bến cảng, nơi trước đây binh lính, thủy thủ và đám đông xúm xít giờ trống không và hoang tàn. Nơi mà ông từng bước đi trong tiếng lợn kêu eng éc và gà kêu ríu rít quanh chân, giờ chỉ có chuột chạy nhốn nháo. Đôi bàn chân ông mệt mỏi không muốn nhấc lên, và cơn ho hành hạ tệ đến mức ông phải dừng lại nghỉ. Không ai đến giúp ông, cũng không ai ngó ra khỏi cửa sổ để xem xảy ra chuyện gì. Các cửa sổ đóng chặt, cửa ra vào cài then, và hơn một nửa các ngôi nhà treo đồ tang. Hàng ngàn người giương thuyền đi lên Xoáy Nước Đen, nhưng chỉ có vài trăm người trở lại. Các con trai ta không chết đơn độc. Cầu xin Đức Mẹ ban phước lành cho tất cả những người xấu số.
Khi đến cổng lâu đài, ông thấy cổng cũng bị đóng chặt. Davos nắm tay đập thình thịch lên núm cửa. Không ai trả lời, ông lại đá liên tục vào cửa. Mãi sau mới có một người cầm nỏ xuất hiện bên trên thành và ngó xuống dưới giữa hai miệng máng xối trên tháp. “Ai?”
Ông ngửa cổ ra sau và chụm hai bàn tay quanh miệng. “Ser Davos Seaworth đến gặp nhà vua.”
“Ông say hả? Cút đi và đừng có đập cửa nữa.”
Salladhor Saan đã cảnh báo ông rồi. Davos thử cách khác. “Đến gặp con trai tôi. Devan, cận vệ của nhà vua.”
Gã lính gác cau mày. “Ông nói ông tên gì?”
“Davos,” ông hét lên. “Hiệp Sĩ Củ Hành.”
Đầu gã lính gác biến mất và lúc sau lại nhô ra. “Cút đi. Hiệp Sĩ Củ Hành chết trên sông rồi. Tàu của ngài ấy cháy rụi rồi.”
“Tàu của ngài ấy cháy rồi,” Davos đồng tình, “nhưng ngài ấy còn sống, và ngài ấy đang đứng ở đây. Jate có còn làm chỉ huy cổng không?”
“Ai cơ?”
“Jate Blackberry. Ông ta biết rõ về tôi.”
“Tôi chưa từng nghe đến ông ta. Chắc chết rồi.”
“Lãnh chúa Chyttering vậy.”
“Tôi biết ông ta. Ông ta chết cháy trên Vịnh Xoáy Nước Đen rồi.”
“Hookface Will thì sao? Hay Hal Lợn Thiến?”
“Chết cả rồi,” gã cầm nỏ nói, nhưng nét mặt gã thể hiện sự ngoài nghi bất chợt. “Ông đợi đấy.” Ông ta lại biến mất.
Davos đợi. Chết, chết hết rồi, ông chán nản nghĩ thầm và nhớ cái bụng trắng của Hal luôn thò ra bên dưới chiếc áo chẽn dính mỡ của ông ta, cùng với vết sẹo dài mà lưỡi câu cá để lại ngang mặt Will, và cả cung cách mà Jate luôn hạ mũ khi gặp đàn bà con gái, bất kể họ năm hay năm mươi tuổi, thuộc tầng lớp thượng lưu hay hạ lưu. Họ bị chết chìm hoặc chết cháy, cùng với các con trai của ta và hàng ngàn người khác, đều đã chết hết dưới suối vàng.
Gã lính cầm nỏ đột ngột trở lại. “Đi quanh lỗ phá vòng vây và bọn họ sẽ cho ông vào.”
Davos làm như được bảo. Lính canh dẫn đường cho ông vào trong đều là người lạ. Họ mang giáo, và trên áo ngực họ có con dấu hình cáo-và-hoa của Nhà Florent. Họ không hộ tống ông đến Trống Đá như ông mong muốn, mà đến dưới mái vòm của Đuôi Rồng và xuống Vườn Aegon. “Đợi ở đây,” trưởng nhóm lính canh bảo ông.
“Nhà vua có biết ta trở về không?” Davos hỏi.
“Chẳng có gì hết. Đợi, ta bảo đợi.” Gã rời đi, đưa theo cả mấy lính canh cầm giáo.
Vườn Aegon tỏa mùi thông dễ chịu, và những thân cây to cao, đen sì mọc lên tứ phía. Trong vườn cũng có hoa hồng dại, những bụi cây nhiều gai cao chót vót, và một khoảng trũng để việt quất mọc lên.
Tại sao bọn họ lại đưa ta đến đây? Davos băn khoăn.
Sau đó ông nghe tiếng chuông kêu khẽ, cùng với tiếng cười khúc khích của trẻ nhỏ, và bỗng nhiên, gã Mặt Sẹo đần độn thò đầu ra khỏi bụi cây, lóng ngóng chạy nhanh hết sức, còn công chúa Shireen chạy theo gót lão. “Ngươi quay lại đây ngay,” công chúa hét to sau lưng gã. “Sẹo, trở lại đây.”
Khi tên ngốc nhìn thấy Daovs, hắn giật mình dừng phắt lại, những quả chuông trên chiếc mũ thiếc có gạc của gã kêu ting ting. Nhảy lò cò từ chân nọ sang chân kia, gã hát, “Máu của thằng ngốc, máu của nhà vua, máu trên bắp đùi trinh nữ, nhưng dây xích cho khách và chuỗi vòng cho chú rể, phải phải phải.” Lúc đó Shireen gần như đã bắt được gã, nhưng vào đúng phút chót, gã lại nhảy lò cò qua một bãi dương xỉ và biến mất giữa các thân cây. Công chúa chạy theo gót gã. Nhìn thấy họ khiến Davos mỉm cười.
Ông lại bụm miệng ho khi một hình dáng nhỏ bé khác chui ra khỏi bờ giậu và lăn tròn vào đúng người ông, khiến ông ngã dúi dụi.
Cậu bé cũng ngã, nhưng rồi đứng vọt dậy. “Ngươi làm gì thế?” cậu bé vừa hỏi vừa phủi phủi áo. Mái tóc đen nhánh xõa xuống cổ áo cậu, và cậu có đôi mắt xanh. “Ngươi không nên chặn đường ta khi ta đang chạy.”
“Phải,” Davos đồng ý. “Tôi không nên.” Một cơn ho khác lại ập đến khi ông cố đứng lên.
“Ngươi bệnh à?” Cậu bé cầm cánh tay ông và kéo ông lên. “Ta gọi ngài học sĩ nhé?”
Davos lắc đầu. “Một cơn ho. Rồi sẽ hết thôi.”
“Chúng ta đang chơi trò cô gái và ác quỷ,” cậu bé giải thích. “Ta là ác quỷ. Trò trẻ con thôi, nhưng em họ lại thích. Ngươi có tên không?”
“Ser Davos Seaworth.”
Cậu bé nhìn ông từ đầu đến chân vẻ ngờ vực. “Ngươi có chắc không đấy? Trông ngươi không có vẻ gì là hiệp sĩ lắm.”
“Thưa ngài, tôi là Hiệp Sĩ Củ Hành.”
Đôi mắt xanh chớp chớp. “Vị hiệp sĩ với con tàu đen sao?”
“Ngài biết chuyện đó sao?”
“Trước khi ta chào đời, ngươi đưa bác Stannis của ta đi câu cá, khi Lãnh chúa Tyrell vây hãm bác.” Cậu bé đứng thẳng người lên. “Ta là Edric Storm,” cậu tuyên bố. “Con trai của vua Robert.”
“Hiển nhiên rồi.” Davos biết như vậy ngay từ lúc đầu. Cậu bé có đôi tai lồi lên của người Nhà Florent, nhưng mái tóc, đôi mắt, quai hàm, xương má đều của Nhà Baratheon.
“Ngươi biết cha ta không?” Edric Storm hỏi.
“Thần đã nhìn thấy ngài rất nhiều lần khi yết kiến ông bác của người, nhưng tôi và ngài chưa bao giờ trò chuyện.”
“Cha dạy ta chiến đấu,” cậu nói giọng đầy tự hào. “Hầu như năm nào cha cũng đến gặp ta, và thi thoảng cha và ta còn tập luyện cùng nhau nữa. Vào ngày đặt tên họ cho ta, cha gửi cho ta một búa chiến giống y của người, nhưng nhỏ hơn một chút. Nhưng bọn họ bắt ta để nó lại ở Storm’s End rồi. Có thật là bác Stannis ta chặt ngón tay của ngươi không?”
“Chỉ chặt đốt đầu tiên thôi. Thần vẫn còn các ngón tay, nhưng ngắn hơn thôi.”
“Cho ta xem đi.”
Davos cởi găng tay ra. Cậu xem xét bàn tay thật kĩ lưỡng. “Bác không chặt ngón cái của ngươi à?”
“Không.” Davos ho. “Không, ngài không chặt ngón cái.”
“Bác không nên chặt bất cứ ngón tay nào của người,” cậu bé nói. “Đó là hành động xấu.”
“Thần là kẻ buôn lậu.”
“Phải, nhưng ngươi buôn lậu cá và hành cho bác ấy mà.”
“Lãnh chúa Stannis phong hiệp sĩ cho thần vì hành, và chặt ngón tay thần vì thần buôn lậu.” Ông đi lại găng tay vào.
“Cha ta sẽ không bao giờ chặt ngón tay của ngươi.”
“Đúng vậy, thưa ngài.” Robert hoàn toàn khác Stannis, đúng là vậy. Cậu bé rất giống ngài. Ừ, và giống Renly nữa. Ý nghĩ ấy khiến ông lo lắng.
Cậu nhóc định nói gì đó thêm khi họ nghe thấy tiếng bước chân. Davos quay người lại. Ser Axell Florent đang đi xuống đường vào vườn cùng với mười hai quân lính mặc áo choàng. Trên áo ngực họ có hình trái tim đang rực lửa của Thần Ánh Sáng. Quân của thái hậu, Davos thầm nghĩ. Cơn ho lại bất chợt ập đến.
Ser Axell thấp và vạm vỡ, ngực nở, tay chắc, chân cong, và tai đầy lông. Cậu của thái hậu, ông ta là người cai quản thành trì Dragonstone một thập kỷ nay, và luôn luôn cư xử nhã nhặn với Davos, vì biết ông được Lãnh chúa Stannis trọng dụng. Nhưng lần này, trong giọng nói của ông ta không còn sự nhã nhặn nhẹ nhàng nữa, “Ser Davos, và chưa bị chết chìm. Làm sao lại như thế được?”
“Ser, hành vốn nổi mà. Ngài đến đưa tôi đến gặp nhà vua sao?”
“Ta đến đưa ngươi xuống nhà ngục.” Ser Axell ra hiệu cho lính đi lên trước. “Bắt hắn, và lấy dao của hắn. Hắn có ý định gϊếŧ phu nhân của chúng ta.”