Ngọn núi nằm hơi nghiêng so với mặt đất, nó vốn là một khe đá dài và có hình dạng giống móng vuốt. Thông, táo gai và tần bì mọc lên từ những sườn núi thấp, nhưng bên trên lại trống trơn, khiến chỏm núi đứng đơn độc giữa nền trời đầy mây.
Cậu cảm thấy tảng đá cao đang gọi mình. Cậu leo lên, ban đầu vừa chạy vừa nhảy cẫng lên hết sức dễ dàng, nhưng rồi cậu đi nhanh hơn và cao hơn, đôi chân khỏe mạnh của cậu bấu chặt vào sườn núi dốc. Chim bay túa ra từ những cành cây trên đầu khi nó chạy qua, chúng quắp và vỗ cánh phần phật bay lên trời. Cậu nghe thấy tiếng gió thở dài giữa các tán lá, những con sóc kêu ríu rít với nhau, ngay cả quả thông rơi xuống nền rừng cũng gây tiếng động. Những mùi vị bao quanh cậu như một bài ca, một bài ca ngập tràn cả khu rừng xanh này.
Những viên sỏi khẽ tung lên bên dưới bàn chân cậu khi cậu lấy hết sức nhảy những bước cuối cùng đứng trên đỉnh núi. Mặt trời treo lủng lẳng trên những cây thông cao, đỏ rực và to lớn. Phía bên dưới cậu, cây cối và đồi núi trải dài mãi theo tầm mắt. Một con diều đang bay lượn trên không, con diều đen bay giữa nền trời ửng hồng.
Hoàng tử. Tiếng nói của con người đột nhiên vang lên trong đầu cậu, nhưng cậu vẫn cảm nhận được sự rõ rệt của âm thanh ấy. Hoàng tử của rừng xanh, hoàng tử của rừng sói. Cậu mạnh mẽ, mau lẹ và dữ dội, tất cả những sinh vật sống trong khu rừng xanh này đều e sợ cậu.
Tít xa bên dưới nền rừng, có thứ gì đó di chuyển giữa các thân cây. Một hình dạng màu xám thoắt ẩn thoắt hiện, nhưng cũng đủ để đôi tai cậu vểnh lên. Phía dưới, cạnh một con suối nước xanh đang chảy nhanh, một hình hài khác đang chạy lướt qua. Cậu biết đó là chó sói. Những người anh em nhỏ bé của cậu đang rượt đuổi theo con mồi. Lúc này, hoàng tử nhìn thấy nhiều sói hơn - những cái bóng đang chạy trên những bàn chân xám nhanh nhẹn. Một bầy sói.
Cậu cũng từng có bầy đàn. Đàn của cậu có năm con, và một con thứ sáu đứng ngoài cuộc. Đâu đó văng vẳng tiếng người đang phân biệt anh em cậu, nhưng không nhờ vậy mà anh em cậu mới phân biệt được nhau. Cậu nhớ rõ mùi của từng người. Chúng đều có mùi giống nhau, mùi chung của một đàn, nhưng cũng có điểm khác biệt lắm.
Người anh hay cáu giận với đôi mắt xanh gay gắt đang ở gần, hoàng tử cảm thấy điều đó, mặc dù cậu đã không gặp anh trong nhiều cuộc săn mồi. Nhưng mỗi lần mặt trời lặn cậu lại đi xa hơn, và cậu là con cuối cùng. Những con sói khác đều đi rải rác đâu đó, như những chiếc lá bị gió lớn thổi phăng đi.
Nhưng, đôi lúc, cậu lại nhìn thấy đàn, như thể đàn sói anh em vẫn ở bên cậu, chỉ là chúng ẩn nấp khỏi tầm nhìn của cậu sau một tảng đá hay một rừng cây. Cậu không đánh hơi thấy bọn họ, đêm đến cũng không nghe thấy tiếng hú, nhưng cậu lại cảm thấy sự hiện hữu của chúng sau lưng mình… tất cả bọn họ, trừ người chị gái đã mất. Đuôi cậu gục xuống khi nhớ đến chị. Giờ chỉ còn bốn, không phải năm. Bốn và một con sói trắng không có tiếng nói.
Rừng xanh, những sườn núi phủ tuyết và những ngọn đồi đá, những cây thông vĩ đại và những cây sồi lá vàng, những con suối nước chảy ào ào và những con sông phủ băng đều là của chúng. Nhưng sói tuyết chị bỏ rừng hoang, đi tới nơi trú ngụ và trị vì của những kẻ săn mồi khác, và một khi đã đến nơi đó, sẽ rất khó để tìm đường về. Hoàng tử sói vẫn còn nhớ.
Gió đổi hướng đột ngột.
Hươu, nỗi sợ hãi và máu. Mùi của con mồi đánh thức cơn đói trong cậu. Hoàng tử lại khịt mũi, quay đầu và cất bước chạy, dọc theo hướng đỉnh núi, hàm cậu bạnh ra. Sườn núi kia sâu hơn sườn núi cậu vừa leo lên, nhưng cậu vẫn chạy vững vàng trên đá, gốc cây và những chiếc lá mục rữa, xuống dốc núi và xuyên giữa các thân cây, những sải chân dài lướt nhanh trên mặt đất. Mùi của con mồi kéo cậu chạy về phía trước, nhanh hơn bao giờ hết.
Con hươu đang nằm trên mặt đất, và chết dần khi cậu đến nơi, bao quanh cậu là tám con sói xám cùng đàn với cậu. Những con sói đầu đàn chuẩn bị ăn, trước nhất là con sói đực, kế đến là con sói cái, chúng lần lượt thay phiên xé thịt tươi từ dưới bụng đỏ quạch máu của con mồi. Những con khác trong đàn phải đợi, rất kiên nhẫn, trừ con cuối cùng – nó đi tới đi lui theo hình vòng tròn, hết sức thận trọng, cách đàn khoảng vài bước chân, đuôi của cậu hạ thấp xuống. Cậu phải ăn cuối cùng, và ăn bất cứ thứ gì mà những con khác để lại.
Hoàng tử chạy theo tiếng gió thổi, vì vậy chúng không nhìn thấy cậu đến khi cậu nhảy lên một khúc gỗ rơi cách chúng khoảng sáu sải chân. Con sói canh gác nhìn thấy cậu đầu tiên, rên lên một cách thảm thương, và cậu lẩn đi. Các con sói cùng đàn với cậu quay đầu lại nơi phát ra tiếng động và nhe răng ra, gầm gừ, trừ con sói cái và con đực đầu đàn.
Con sói tuyết gầm gừ đáp trả cảnh cáo và cậu cũng nhe răng ra. Cậu to hơn chúng, gấp đôi con sói gầy gò cuối đàn, to bằng một nửa hai con sói đầu đàn. Cậu nhảy vọt vào giữa đàn sói, khiến ba con sói văng ra khỏi vòng vây và rơi xuống bụi rậm.
Một con khác lao vào cậu đớp lại. Cậu va vào đầu con sói tấn công, cắn phập vào chân và hất tung nó sang bên, khiến con sói kêu ăng ẳng và chạy đi khập khiễng.
Giờ chỉ còn phải đối chọi với con sói đầu đàn, con sói đực xám, to lớn với cái mõm còn dính máu từ phần thịt bụng mềm của con mồi. Trên mõm nó điểm màu trăng trắng, cho thấy nó là một con sói già, nhưng khi mõm nó há ra, nước bọt còn dính máu đỏ chảy từ răng nó xuống.
Con sói ấy không chút sợ hãi, hoàng tử thầm nghĩ, và mình cũng thế. Sẽ là một trận chiến hay đây. Rồi chúng lao vào nhau.
Chúng đánh nhau rất lâu, vật lộn trên những gốc cây, bãi đá, những chiếc lá rụng và những khúc ruột rơi rải rác của con mồi, cào cấu nhau bằng răng và móng vuốt, rồi chúng buông nhau ra, tạo thế xoay tròn trước đối phương và lại lao vào chiến đấu tiếp. Hoàng tử lớn hơn, và mạnh hơn, nhưng con sói kia có cả bầy. Con sói cái lảng vảng gần chúng, khụt khịt và gầm gừ, và nó lao vào trận chiến mỗi khi con sói đực bị văng ra ngoài, mình mẩy đầy máu. Đôi lúc, các con sói khác cũng lao vào để vồ lấy một cẳng chân hay một bên tai khi hoàng tử quay mặt đi hướng khác. Một con sói khiến cậu tức giận đến mức cậu xoay tít trong cơn thịnh nộ và xé toạc cổ họng kẻ tấn công. Sau cú đòn đó, các con sói khác biết điều giữ khoảng cách an toàn.
Và khi ánh đỏ cuối cùng của ngày len lỏi qua những cành cây xanh và vàng, con sói già nằm mệt lử trên đất, còn cậu nằm sấp, để lộ bụng và cổ họng. Đó là sự bại trận.
Hoàng tử khịt mũi trước con sói và liếʍ láp máu từ lông và thịt nó. Khi con sói già khẽ rên lên, hoàng tử quay đầu đi. Hoàng tử đói rồi, và con mồi là của cậu.
“Hodor.”
Âm thanh bất chợt vang lên khiến cậu dừng lại và gầm gừ. Những con sói khác nhìn cậu bằng đôi mắt vàng và xanh, với vẻ kính nể, và những đôi mắt ấy sáng bừng lên nhờ những tia sáng ban ngày cuối cùng. Không một con sói nào nghe thấy âm thanh ấy. Đó chỉ là một cơn gió lạ thổi vào tai cậu. Cậu cắn ngập bụng con hươu và xé một miếng thịt bự.
“Hodor, hodor.”
Không, cậu thầm nghĩ. Không, không đâu. Đó là ý nghĩ của một cậu bé, không phải ý nghĩ của một con sói tuyết. Quanh cậu, rừng mỗi lúc một tối hơn, cho đến khi chỉ còn bóng của những thân cây trong rừng, và tia sáng lóe lên từ mắt của mấy con sói. Ẩn sâu trong những đôi mắt ấy, cậu nhìn thấy nét mặt đang tươi cười của một người đàn ông, và một mái vòm đá với những bức tường lốm đốm kali. Hơi ấm của máu dần tan biến trên lưỡi cậu. Không, đừng, đừng mà, mình muốn ăn, mình muốn ăn, mình muốn lắm…
“Hodor, hodor, hodor, hodor, hodor,” Hodor hát khi anh ta khẽ lay vai cậu. Cậu luôn cố tỏ ra lịch sự, lúc nào cũng thế, nhưng Hodor cao tới hai mét và khỏe hơn cậu gấp nhiều lần, và cùng lúc, đôi tay to lớn của anh ta vỗ vỗ lên miệng Bran. “KHÔNG,” cậu tức giận kêu lên. “Hodor, bỏ ra, tôi đây, tôi đây.”
Hodor dừng tay, vẻ luống cuống. “Hodor?”
Rừng và sói đều biến mất. Bran lại là Bran, nằm bẹp trong căn phòng ẩm ướt của tháp canh cũ kỹ nào đó và đã bị bỏ hoang cả ngàn năm trước. Bây giờ nó không còn giống một tòa tháp nữa. Ngay cả những tảng đá sụp đổ cũng bị phủ đầy rêu mốc và cây thường xuân, đến mức người ta khó lòng nhận ra bên dưới là tảng đá, trừ khi người ta đứng trên đó. “Tháp Ngã Nhào,” Bran gọi nơi này bằng cái tên đó; nhưng Meera là người tìm được lối đi vào phòng này.
“Ngài đi quá lâu rồi.” Jojen Reed 13 tuổi, chỉ hơn Bran có bốn tuổi. Jojen không to lớn hơn cậu nhiều, có lẽ chỉ khoảng vài phân, nhưng lại có cách nói chuyện rất trịnh trọng, khiến cậu ta có vẻ già hơn và khôn ngoan hơn bình thường. Ở Winterfell, Già Nan gọi cậu ta là “ông cụ non.”
Bran cau mày với cậu ta. “Ta muốn ăn.”
“Chị Meera sẽ mang đồ ăn đến ngay.”
“Ta chán ăn ếch lắm rồi.” Meera đến từ vùng Neck, rất thích ăn ếch, vì vậy, Bran hiểu tại sao chị lại bắt được nhiều ếch đến vậy, nhưng dù vậy… “Ta muốn ăn thịt hươu.” Trong một giây, cậu lại nhớ đến mùi vị thơm ngon của thịt hươu, máu và miếng thịt tươi rói, và cậu chảy nước miếng. Mình chiến đấu, mình thắng vì con hươu ấy. Mình đã thắng. “Ngài có đánh dấu các thân cây không?”
Bran đỏ mặt. Jojen vẫn luôn bảo cậu làm việc này việc kia khi cậu mở mắt thứ ba và khoác lên mình tấm lông của con sói tuyết Mùa Hè. Cậu ta bảo cậu bóc vỏ cây, bắt thỏ mang về nhưng không được ăn, đặt vài viên đá thành một hàng. Những việc ngớ ngẩn. “Ta quên mất,” cậu nói.
“Lúc nào ngài cũng quên.”
Đúng là vậy. Cậu cũng định làm những việc mà Jojen bảo, nhưng một khi cậu là sói, thì những việc đó không còn quan trọng nữa. Khi cậu là sói, luôn có vô số thứ để cậu nhìn, ngửi, và cả một khu rừng bao la để cậu săn mồi. Và cậu còn biết chạy nữa! Không gì tuyệt hơn được chạy, trừ việc chạy săn mồi. “Jojen, ta là hoàng tử,” cậu nói. “Ta là hoàng tử rừng xanh.”
“Ngài là hoàng tử,” Jojen khẽ nhắc cho cậu nhớ. “Ngài còn nhớ, phải không? Nói cho tôi biết ngài là ai.”
“Cậu biết rồi còn gì.” Jojen là bạn và cũng là thầy giáo của cậu, nhưng nhiều lúc Bran chỉ muốn cho cậu ta một đấm.
“Ta muốn cậu nói ra. Nói cho ta biết cậu là ai.”
“Bran,” cậu sưng sỉa nói. Bran, thằng què. “Brandon Stark.” Thằng què. “Hoàng tử của Winterfell.” Của Winterfell đã bị thiêu rụi và quật đổ, người dân nơi ấy bị gϊếŧ chết hết. Những khu vườn bị phá hủy, nước nóng phun ra từ những tường thành nứt nẻ và bốc hơi bên dưới mặt trời. Làm sao mình có thể là hoàng tử của một nơi mà có thể mình không bao giờ được nhìn thấy nữa?
“Mùa Hè là ai?” Jojen hỏi lại.
“Sói tuyết của ta.” Cậu mỉm cười. “Hoàng tử rừng xanh.”
“Bran là một cậu bé, còn Mùa Hè là một con sói. Hai người là một sao?”
“Là hai,” cậu thở dài, “và một.” Cậu ghét Jojen khi cậu ta ngớ ngẩn như thế. Ở Winterfell, cậu ta muốn mình mơ giấc mơ của sói, thế mà bây giờ, lúc nào cậu ta cũng gọi giật mình quay lại.
“Bran, hãy nhớ điều đó. Hãy nhớ ngài là ai, nếu không con sói sẽ hủy hoại ngài. Khi ngài khoác lên mình bộ lông của Mùa Hè, không bao giờ là đủ để chạy, săn mồi và hú gọi đâu.”
Bộ lông ấy là của mình, Bran thầm nghĩ. Cậu thích lông của Mùa Hè hơn da thịt của chính cậu. Làm người đội lốt thì có gì hay nếu mình không thể khoác bộ lông mà mình ưa thích?
“Liệu ngài có nhớ không? Lần sau, nhớ đánh dấu cây nhé. Cây nào cũng được, không quan trọng, miễn là ngài nhớ đánh dấu.”
“Ta sẽ nhớ, ta sẽ nhớ. Nếu cậu thích, giờ ta có thể quay lại và đánh dấu luôn. Lần này ta không quên đâu.” Nhưng ta phải ăn thịt hươu cái đã, và chiến đấu thêm với mấy con sói con.
Jojen lắc đầu. “Không. Tốt nhất là ngài cứ ở đây, và ăn tối. Bằng miệng của chính ngài. Người biến hình không thể sống bằng đồ ăn của con thú của gã đâu.”
Làm sao cậu ta biết chứ? Bran bực dọc nghĩ. Cậu ta có phải là người biến hình đâu, làm sao cậu ta biết được.
Hodor bất thình lình đứng lên, suýt đập đầu vào trần phòng. “HODOR!” anh ta hét lên và chạy ra cửa. Meera đẩy cửa ra trước khi anh ra tới nơi, và chị bước vào phòng. “Hodor, hodor,” anh chàng to béo đã đứng vững và
cười khì.
Meera Reed mười sáu tuổi, đã trưởng thành, nhưng chị không cao hơn cậu em trai là mấy. Những người đầm lầy ẩn dật đều nhỏ bé, có lần chị nói với Bran như vậy khi cậu hỏi sao chị không cao hơn được. Tóc nâu, mắt xanh và mập mạp như một đứa con trai, chị bước đi với sự duyên dáng mềm mại mà Bran chỉ có thể nhìn và ghen tị. Meera có dao găm dài, sắc, nhưng chị thích dùng cây đinh ba để bắt ếch, và bên tay kia là một tấm lưới.
“Có ai đói không?” chị hỏi và giơ cao chiến lợi phẩm: hai con cá hồi nhỏ và sáu con ếch xanh béo tròn.
“Ta đói,” Bran nói. Nhưng không phải đói vì ếch đâu. Trước đây ở Winterfell, và trước khi xảy ra những việc khủng khϊếp đó, Nhà Walder thường nói rằng ăn ếch sẽ khiến răng bị xanh lét và mọc rêu dưới nách. Cậu tự hỏi liệu gia tộc Walder còn sống hay đã chết. Cậu không nhìn thấy xác họ ở Winterfell… nhưng ở đó có nhiều xác chết lắm, mà bọn họ lại không nhìn vào bên trong các lâu đài.
“Vậy thì chúng tôi phải cho ngài ăn thôi. Bran, ngài giúp tôi làm sạch ếch nhé?”
Cậu gật đầu. Hờn dỗi với Meera khó lắm. Chị ấy vui tính hơn em trai, và lúc nào cũng biết cách làm cho cậu cười. Dường như không có gì khiến chị ấy sợ, hay tức giận. Trừ Jojen, nhưng cũng thi thoảng thôi… Jojen Reed có thể làm tất cả mọi người sợ. Cậu ta mặc toàn đồ màu xanh, đôi mắt tối tăm như rêu, và cậu ta cũng có những giấc mơ xanh. Jojen mơ thấy điều gì, điều đó sẽ thành sự thật. Trừ mỗi chuyện cậu ta mơ thấy mình chết, thế mà giờ mình vẫn sống. Nhưng xét theo nghĩa nào đó, cậu đã chết.
Jojen sai Hodor ra ngoài kiếm củi và đốt lửa trong khi Bran và Meera làm sạch cá và ếch. Họ dùng mũ của Meera làm nồi nấu, chặt mẻ cá ra thành các khúc nhỏ, đổ nước và ít tỏi dại mà Hodor tìm thấy để làm món ếch hầm. Ăn món này không ngon như thịt hươu, nhưng cũng không tệ chút nào, Bran vừa ăn vừa nghĩ.
“Meera, cám ơn,” Bran nói. “Cám ơn chị nhiều.”
“Thưa hoàng tử, không có gì.”
“Mai chúng ta sẽ đi,” Jojen nói, “tốt nhất là chúng ta nên đi tiếp.”
Bran thấy Meera căng thẳng.
“Em lại mơ giấc mơ xanh nào đó à?”
“Không,” cậu ta thừa nhận.
“Thế thì tại sao chúng ta phải đi?” chị gái cậu ta gặng hỏi. “Tháp Ngã Nhào là nơi ở tốt cho chúng ta. Gần đây không có ngôi làng nào, rừng thì phong phú, nhiều cá, nhiều ếch trong suối và hồ… và ở đây không ai tìm thấy chúng ta.”
“Chúng ta sẽ không ở một nơi như thế này mãi.”
“Nhưng ở đây an toàn.”
“Có vẻ an toàn thôi, em biết là thế,” Jojen nói, “nhưng được đến bao giờ nào? Ở Winterfell đang có đánh nhau, chúng ta thấy vô số người chết. Đánh nhau nghĩa là chiến tranh. Nếu chúng ta không hay biết về đội quân nào đó…”
“Có thể là đội quân của anh Robb,” Bran nói. “Anh Robb sẽ sớm trở về từ phương nam, ta biết anh ấy sẽ về. Anh ấy sẽ quay về, với tất cả cờ hiệu và đuổi lũ người Đảo Iron đó đi.”
“Vị học sĩ của ngài không nói gì về Robb khi ông ấy hấp hối,” Jojen nhắc cho cậu nhớ. “Ông ấy nói đám người Đảo Iron ở bờ biển Stony, ở cả phương đông, gã Con Hoang của Bolton. Moat Cailin và Deepwood Motte đều đã sụp đổ, người thừa kế của Cerwyn đã chết, người cai quản thành trì Torrhen’s Square cũng đã chết. Đâu đâu cũng có chiến tranh, ông ấy nói vậy.”
“Chúng ta đã bàn về vấn đề này rồi,” chị cậu nói. “Em muốn về Tường Thành, cùng với con quạ ba mắt của em. Điều đó cũng tốt thôi, nhưng Tường Thành ở xa lắm, Bran thì không đi bằng chân được, chỉ có Hodor cõng ngài ấy. Nếu chúng ta cưỡi ngựa…”
“Nếu là đại bàng chúng ta có thể bay,” Jojen nghiêm nghị nói, “nhưng chúng ta không có cánh, và cũng không có ngựa.”
“Sẽ có cách có ngựa,” Meera nói. “Ngay cả ở sâu thẳm của rừng sói cũng có người đi rừng, chủ trại và người săn bắn. Sẽ có người có ngựa.”
“Và nếu họ có ngựa, thì chúng ta ăn trộm sao? Chúng ta là kẻ trộm sao? Mong muốn cuối cùng của chúng ta là bị người ta rượt đuổi.”
“Chúng ta mua ngựa,” chị nói. “Đổi hàng lấy ngựa.”
“Chị Meera, chị nhìn chúng ta thử xem. Một cậu què với một con sói tuyết, một gã to xác ngu si, và hai người đầm lầy ẩn dật ở cách Neck đến cả ngàn dặm. Chúng ta sẽ bị phát hiện. Và lời đồn đại sẽ lan nhanh như gió. Chừng nào Bran còn bị coi là đã chết thì ngài ấy còn được an toàn. Nếu còn sống, ngài ấy sẽ là con mồi cho những kẻ muốn ngài ấy phải chết mãi mãi.” Jojen bước về phía đống lửa rồi lấy que chọc vào bếp. “Đâu đó ở phương bắc, một con quạ ba mắt đang đợi chúng ta. Bran cần một người thầy giỏi hơn em.”
“Jojen, bằng cách nào nào?” chị cậu ta hỏi. “Đi bằng cách nào?”
“Bằng chân,” cậu ta trả lời. “Từng bước một.”
“Từ Greywater đến Winterfell xa cả ngàn, cả vạn, cả triệu dặm, nhưng lúc đó chúng ta còn được cưỡi ngựa. Vậy mà em còn muốn chúng ta đi bộ quãng đường xa hơn thế, trong khi chúng ta không hay biết đích đến ở chỗ nào. Em nói là bên ngoài Tường Thành. Chị, và em đều chưa từng tới đó, nhưng chị biết, bên ngoài Tường Thành là một nơi rộng lớn, bao la lắm Jojen à. Ở đó chỉ có một, hay có nhiều con quạ ba mắt? Làm sao chúng ta tìm được con quạ đó?”
“Biết đâu nó sẽ tự đi tìm chúng ta.”
Trước khi Meera kịp đáp trả, họ nghe thấy âm thanh đó; tiếng hú xa xa của một con sói lảng vảng trong đêm. “Mùa Hè hú sao?” Jojen hỏi và lắng nghe.
“Không.” Bran biết rõ tiếng hú con sói của cậu.
“Ngài có chắc không,” ông cụ non hỏi.
“Chắc chắn chứ.” Hôm nay Mùa Hè đi rất xa và chắc phải rạng sáng nó mới về. Có thể Jojen mơ thấy rừng xanh, nhưng cậu ta không thể phân biệt giữa sói và sói tuyết. Cậu tự hỏi tại sao tất cả bọn họ lại nghe lời Jojen nhiều đến thế. Cậu ta không phải hoàng tử như Bran, cũng không to con và khỏe mạnh giống Hodor, cũng không săn mồi giỏi bằng Meera, vậy mà Jojen luôn là người nói cho bọn họ biết bọn họ phải làm gì.
“Chúng ta nên ăn trộm ngựa như Meera muốn,” Bran nói, “và cưỡi ngựa đến Umbers mãi tận Last Hearth.” Cậu dừng lại một chút rồi nói tiếp. “Hoặc chúng ta có thể lấy trộm một con thuyền, một con buồm và giương buồm theo sông Bạch Đao đến Cảng White. Lãnh chúa Manderly béo ú cai trị ở đó, và ông ta rất thân thiện. Lúc trước ông ta muốn đóng thuyền. Có lẽ ông ta đã đóng được vài chiếc rồi, và chúng ta có thể đi thuyền đến Riverrun và đón anh Robb cùng với đội quân của anh ấy về. Lúc đó chuyện ai biết ta còn sống hay không không còn quan trọng nữa. Anh Robb sẽ không để bất cứ ai làm hại đến chúng ta đâu.”
“Hodor!” Hodor ợ lên. “Hodor, hodor.”
Dù vậy, anh ta là người duy nhất thích kế hoạch của Bran. Meera chỉ mỉm cười với cậu, còn Jojen cau mày. Chị em họ không bao giờ lắng nghe điều cậu muốn, mặc dù Bran là người Nhà Stark và là một hoàng tử, còn người Nhà Reed ở mãi vùng Neck chỉ là người cầm cờ hiệu của gia tộc Stark.
“Hoooodor,” Hodor vừa nói vừa lắc lư. “Hooooodor, hooooooooodor, hoDOR, hoDOR, hoDOR.” Thi thoảng anh ta lại thích làm như vậy, chỉ để nói tên anh ta theo cách khác, cứ lặp đi lặp lại như vậy. Lúc khác, anh ta lại im hơi lặng tiếng đến mức người ta quên mất là anh ta có mặt ở đó. Hodor ngờ nghệch lắm. “HODOR, HODOR, HODOR!” anh ta hét toáng lên.
Anh ta sẽ không ngừng lại đâu, Bran nhận thấy như vậy. “Hodor,” cậu nói, “sao anh không ra ngoài tập kiếm đi?”
Anh chàng coi chuồng ngựa đã quên béng gươm kiếm của mình, nhưng bây giờ anh ta đã nhớ ra. “Hodor!” anh ta hét lên rồi bỏ đi tập gươm. Họ có ba thanh gươm lấy trong hầm mộ ở Winterfell, nơi mà Bran và Rickon trốn khỏi đám người của Theon Greyjoy. Bran đòi dùng cây gươm của bác Brandon, Meera cầm cây gươm mà chị tìm thấy trên đùi của Lãnh chúa Richard. Cây gươm của Hodor nhiều tuổi hơn, là một thanh sắt nặng, to, xám xịt sau nhiều thế kỷ bị bỏ quên và hoen gỉ. Anh ta có thể vung gươm suốt nhiều giờ liền. Gần nơi trú ẩn đổ nát này có một thân cây thối rữa, và anh ta đã đốn nó thành nhiều mẩu vụn.
Ngay cả khi anh ta ra ngoài rồi, bọn họ vẫn nghe thấy anh ta rống “HODOR!” ầm lên khi vung gươm đập vào cây. Thật may là rừng sói này rất rộng lớn, nên có thể không ai nghe thấy tiếng anh ta.
“Jojen, ý cậu nói về một thầy giáo khác là sao?” Bran hỏi. “Cậu là thầy giáo của ta. Ta biết ta chưa bao giờ đánh dấu cây như cậu bảo, nhưng lần sau ta sẽ làm. Con mắt thứ ba của ta sẽ mở ra như cậu muốn...”
“Nó mở to đến nỗi tôi sợ ngài sẽ ngã nhào vào đó, và giống những năm tháng còn lại của đời ngài như một con sói trong rừng.”
“Không đâu, ta hứa.”
“Đứa trẻ nào cũng hứa. Con sói liệu có nhớ không? Ngài chạy với Mùa Hè, ngài săn mồi với nó, ngài gϊếŧ con mồi với nó... nhưng ngài phục tùng nó hơn là nó phục tùng ngài.”
“Chỉ là ta quên thôi mà,” Bran càu nhàu. “Ta mới có chín tuổi. Lớn lên ta sẽ giỏi hơn chứ. Ngay cả Florian Ngốc Nghếch và Aemon Hiệp Sĩ Rồng cũng đâu giỏi giang gì khi họ mới có chín tuổi.”
“Đúng thế,” Jojen nói, “ngài nói hay lắm, ấy là nếu như ngày tháng cứ dài mãi... nhưng đâu phải vậy. Tôi biết, ngài mới chỉ là một cậu bé. Nói cho tôi biết gia ngôn của Nhà Stark.”
“Mùa đông đang đến,” mới chỉ nói vậy thôi Bran đã thấy lạnh tê người.
Jojen trịnh trọng gật đầu. “Tôi mơ thấy một con sói có cánh bị các tảng đá ghì chặt xuống đất, và tôi đến Winterfell để giải phóng cho nó. Giờ các tảng đá ấy không còn trói buộc ngài nữa, nhưng ngài vẫn không thể bay được.”
“Vậy cậu dạy ta đi.” Bran vẫn sợ con quạ ba mắt thi thoảng vẫn ám ảnh giấc mơ của cậu, nó mổ liên hồi vào trán cậu và dạy cậu bay. “Cậu là nhà chiêm mộng.”
“Không phải,” Jojen nói, “tôi chỉ là một thằng nhóc có những giấc mơ thôi. Nhà chiêm mộng biết nhiều hơn thế. Họ cũng là người biến hình như cậu, và những người giỏi nhất trong số họ còn có thể khoác mọi bộ lông hay bộ da của mọi con thú biết bay, biết bơi, hay biết bò, và họ có thể nhìn thấu mắt của cây đước, để thấy rõ mọi sự thật được ẩn giấu trên đời này. Bran, các vị thần trao tặng cho chúng ta nhiều thứ lắm. Chị Meera là người săn mồi. Các vị thần cho chị ấy khả năng chạy nhanh, và đứng lặng lâu đến mức chị ấy như biến mất. Tai chị thính, mắt chị tinh, tay luôn sẵn sàng với vợt và giáo. Chị có thể thở khi ngụp lặn dưới bùn và chạy nhanh như bay giữa các thân cây. Tôi không làm được những việc như thế, và ngài cũng vậy. Với tôi, các vị thần cho tôi những giấc mơ về rừng xanh, và với ngài... Bran, ngài có thể hơn tôi nhiều. Ngài là một con sói có cánh, và không ai hay biết ngài có thể bay xa, và bay cao đến đâu... nếu có người chỉ bảo cho ngài. Làm sao tôi có thể dạy ngài nắm lấy một món quà mà tôi không hiểu? Chúng ta nhớ đến Tiền Nhân ở vùng Neck, và những đứa con của rừng rậm vốn là bạn bè của họ... nhưng người ta quên nhiều chi tiết lắm rồi, và còn nhiều chuyện chúng ta chẳng bao giờ được biết.”
Meera cầm tay Bran. “Nếu chúng ta cứ ở đây, không gây phiền nhiễu cho ai, ngài sẽ được an toàn cho đến khi chiến tranh kết thúc. Dù vậy, ngài sẽ không học hỏi được gì, trừ những gì em trai tôi dạy ngài, và ngài vừa nghe em ấy nói rồi đấy. Nếu chúng ta rời bỏ nơi này để trú ngụ tại Last Hearth hay bên ngoài Tường Thành, chúng ta phải chấp nhận rủi ro là sẽ bị bắt. Tôi biết, ngài mới chỉ là một cậu bé, nhưng ngài cũng là hoàng tử của chúng tôi nữa, là con trai lãnh chúa của chúng tôi, và là người thừa kế đích thực. Chúng tôi đã thề sẽ trung thành với ngài, dù non rời bể cạn, dầu sôi lửa bỏng cũng vẫn một lòng với ngài. Bran à, rủi ro này là của ngài. Lựa chọn cũng là của ngài. Chúng tôi là đầy tớ sẵn sàng nghe lệnh ngài.” Chị cười khì. “Ít nhất là trong việc này.”
“Ý chị là,” Bran nói, “hai người sẽ làm theo điều ta nói sao? Thật không?”
“Thật chứ, thưa hoàng tử,” chị trả lời, “vì vậy, hoàng tử nên cân nhắc kỹ lưỡng.”
Bran cố nghĩ cho thấu đáo, theo đúng lối suy nghĩ của cha cậu. Bác Hother Whoresbane và Mors Crowfood Nhà Greatjon là những người hung dữ, nhưng cậu nghĩ họ cũng sẽ trung thành. Karstark cũng vậy thôi. Karhold là tòa lâu đài kiên cố, cha vẫn luôn nói vậy. Có Umber hoặc Karstark chúng ta sẽ được an toàn.
Hoặc họ có thể đi đến phương nam với lãnh chúa béo Manderly. Ở Winterfell, lão ta cười suốt ngày, và có vẻ như không bao giờ liếc nhìn Bran với nhiều sự trắc ẩn như những lãnh chúa khác. Tòa lâu đài Cerwyn gần hơn Cảng White, nhưng Maester Luwin từng nói Cley Cerwyn đã chết rồi. Gia đình Umbers, Karrstarks và Manderlys có thể đều đã chết hết rồi, cậu nhận thấy như vậy. Cũng như cậu, nếu cậu bị người Đảo Iron hay gã Bolton bắt được.
Nếu bọn họ cứ ở đây, ẩn nấp bên dưới Tháp Ngã Nhào, sẽ không ai tìm thấy bọn họ. Cậu sẽ được sống. Và què chân.
Bran thấy mình đang khóc. Một thằng nhóc ngu ngốc, cậu thầm nghĩ. Dù cậu đi đến đâu, đến Karhold, Cảng White hay Greywater, thì đến đó cậu vẫn cứ bị què. Cậu nắm chặt tay thành nắm đấm.
“Ta muốn bay,” cậu nói với hai người bọn họ. “Làm ơn. Hãy đưa ta đến chỗ con quạ ba mắt.”