Bảy Phụ Quốc

Chương 5: Bran

Alebelly tìm thấy Bran trong lò rèn đang thổi ống bễ cho Mikken. “Ngài học sĩ muốn gặp cậu trong tháp canh, thưa hoàng tử. Có một con chim được gửi tới từ nhà vua.”

“Từ Robb?” Vui mừng, Bran không chờ Hodor mà để Alebelly đưa cậu lên những bậc thang. Anh ta cũng rất cao lớn, nhưng không bằng Hodor và sức khỏe lại càng không thể so bì. Khi họ tới tòa tháp của vị học sĩ thì mặt anh ta đã đỏ bừng và thở hổn hển. Rickon đang đứng đó trước mặt họ, cùng cả hai anh em nhà Walder Freys.

Maester Luwin cho Alebelly lui và đóng cửa. “Thưa hoàng tử,” ông nói với vẻ nghiêm trọng, “chúng ta nhận được một thông điệp từ nhà vua, cả tin tốt lẫn tin xấu. Đức vua đã giành chiến thắng vang dội ở phía tây, giáng một đòn mạnh vào đội quân của Nhà Lannister ở một nơi mang tên Oxcross, và còn chiếm được một vài lâu đài ở đó. Ngài viết cho chúng ta từ Ashemark, trước đây là pháo đài của Nhà Marbrand.”

Rickon giật giật áo choàng của vị học sĩ. “Có phải anh Robb đang về nhà không?”

“Ta e là chưa đâu. Vẫn còn rất nhiều trận đánh đang chờ cậu ấy.”

“Không phải anh ấy đã đánh thắng Lãnh chúa Tywin rồi sao?” Bran hỏi.

“Không,” vị học sĩ trả lời. “Ser Stafford Lannister chỉ huy quân địch. Hắn đã bị gϊếŧ chết trên chiến trường.”

Bran thậm chí còn chưa bao giờ nghe đến cái tên Ser Stafford Lannister. Cậu đồng ý với Walder Lớn khi thằng nhóc nói. “Lãnh chúa Tywin mới là kẻ duy nhất đáng gờm.”

“Thầy hãy nói với Robb là con muốn anh ấy về nhà,” Rickon nói. “Anh ấy có thể đem con sói về, cả mẹ và cha nữa.” Dù biết Lãnh chúa Eddard đã chết, nhưng thỉnh thoảng Rickon vẫn quên mất điều đó... một cách cố ý, Bran nghĩ vậy. Thằng bé bướng bỉnh đúng kiểu của một cậu nhóc lên bốn tuổi.

Bran rất vui mừng trước chiến thắng của Robb, nhưng cũng không kém phần lo lắng. Cậu nhớ lại những gì Osha đã nói trong ngày anh trai cậu dẫn quân đi từ Winterfell. Cậu ấy đi nhầm đường rồi, người phụ nữ du mục đã khăng khăng như vậy.

“Thật buồn là chẳng có chiến thắng nào mà không phải trả giá.” Maester Luwin quay sang phía anh em nhà Walder. “Bác của các cậu - Ser Stevron Frey - là một trong những người phải bỏ mạng ở Oxcross. Ông ấy bị thương trên chiến trường, Robb viết như vậy. Vết thương tưởng như không nghiêm trọng, nhưng ba ngày sau đó ông ấy đã qua đời trong lều khi đang ngủ.”

Walder Lớn nhún vai. “Ông ấy già rồi. Cháu nghĩ phải 65 tuổi. Quá già để tham chiến. Lúc nào ông ấy cũng nói rằng mình mệt mỏi.”

Walder Bé reo lên. “Mệt mỏi vì phải chờ ông nội của chúng ta qua đời, ý mày là thế đúng không? Như vậy nghĩa là giờ Ser Emmon sẽ là người thừa kế?”

“Đừng có ngu ngốc như thế,” người anh em họ của cậu ta nói. “Các con của con trai cả được ưu tiên hơn con trai thứ. Ser Ryman là người kế nhiệm, sau đó là Edwyn, Walder Đen và Petyr Mụn Nhọt. Tiếp nữa là Aegon và tất cả đám con trai lão.”

“Ryman cũng già rồi,” Walder Bé nói. “Tao cá là phải hơn bốn mươi. Và bụng ông ấy không được tốt. Mày có nghĩ ông ấy sẽ làm lãnh chúa không?”

“Tao sẽ trở thành lãnh chúa. Tao chẳng quan tâm đến ông ta.”

Maester Luwin nhanh chóng cắt lời. “Các cậu không thấy xấu hổ vì những điều vừa nói à? Nỗi đau buồn của các cậu để ở đâu? Bác của các cậu vừa qua đời đấy.”

“Đúng,” Walder Bé nói. “Chúng cháu đang rất buồn mà.”

Nói là thế, nhưng thực chất chúng đâu có đau buồn gì. Bran cảm thấy nôn nao trong dạ. Chúng thích thú với mùi vị dối trá này hơn mình. Cậu xin phép Maester Luwin cáo lui.

“Được rồi.” Vị học sĩ rung chuông gọi người đến giúp. Chắc hẳn Hodor đang bận rộn dưới chuồng ngựa, vì người xuất hiện là Osha. Tuy nhiên, cô ta khỏe hơn Alebelly, có thể nhấc bổng Bran lên tay và đưa cậu xuống những bậc thang một cách dễ dàng.

“Osha,” Bran hỏi khi họ đi ngang qua sân. “Cô có biết đường đến phía bắc không? Đến Tường Thành... và qua bên kia Tường Thành nữa?”

“Đường đi thì dễ. Hãy tìm con Rồng Băng, và đuổi theo ngôi sao xanh trong mắt người kỵ binh.” Cô ta đi qua một cánh cửa và bắt đầu bước lên những bậc thang quanh co.

“Ở đó vẫn có những người khổng lồ, và... tất cả... lũ Ngoại Nhân, cùng những đứa con của rừng rậm nữa à?”

“Tôi đã thấy những người khổng lồ, đã nghe chuyện kể về những đứa con của rừng rậm, nhưng còn Ngoại Nhân thì... sao cậu lại muốn biết?”

“Cô đã bao giờ nhìn thấy một con quạ ba mắt chưa?”

“Chưa.” Cô ta cười vang. “Và có lẽ tôi cũng không muốn.” Osha đá mở cánh cửa phòng ngủ của Bran và đặt cậu xuống chiếc ghế bên cửa sổ, nơi cậu có thể nhìn thấy khoảng sân bên dưới.

Chỉ vài giây sau khi cô ta bỏ đi, cánh cửa lại bật mở một lần nữa, và Jojen Reed xồng xộc bước vào cùng chị gái Meera theo ngay phía sau. “Cậu đã nghe về con quạ đưa tin rồi à?” Bran hỏi, và cậu bé kia gật đầu. “Đó không phải là một bữa tối như cậu nói, mà là một lá thư gửi từ Robb, và chúng ta tất nhiên không ăn nó, nhưng...”

“Những giấc mơ xanh thỉnh thoảng rất kỳ lạ,” Jojen thừa nhận. “Sự thật ẩn chứa trong đó có phải lúc nào cũng dễ hiểu đâu.”

“Kể cho ta những cơn ác mộng của cậu đi,” Bran nói. “Những điều xấu sắp sửa xảy ra với Winterfell ấy?”

“Giờ thì hoàng tử tin tôi chưa? Ngài sẽ tin những gì tôi nói, dù có quái đản đến thế nào chứ?”

Bran gật đầu.

“Biển cả sẽ tới đây.”

“Biển ư?”

“Tôi mơ thấy sóng biển vỗ ầm ì xung quanh Winterfell. Tôi thấy những con sóng đen xô vào cổng thành và các tòa tháp, sau đó nước muối chảy qua tường và tràn ngập lâu đài. Xác người chết trôi nổi trên sân. Khi mới mơ thấy giấc mơ này hồi ở Greywater, tôi không nhìn rõ khuôn mặt họ, nhưng giờ thì rõ ràng rồi. Một là Alebelly, người lính gác đã hô tên chúng tôi trong bữa tiệc lần trước. Tu sĩ của ngài là người thứ hai. Cả thợ rèn của ngài nữa.”

“Mikken ấy à?” Bran vừa bối rối vừa hoảng sợ. “Nhưng biển cả cách đây hàng trăm, hàng ngàn hải lý, và nếu biển có đến thật thì tường thành của Winterfell cũng quá cao, làm sao nước có thể tràn vào?”

“Trong đêm tối, nước biển sẽ chảy tràn qua những bức tường đó,” Jojen nói. “Tôi thấy những người chết, ướt nhẹp và trương phềnh.”

“Chúng ta phải kể cho mọi người thôi,” Bran nói. “Alebelly và Mikken, và Septon Chayle. Ta phải cảnh báo để họ không bị chết đuối.”

“Làm vậy không thể cứu được họ,” cậu bé mặc đồ xanh trả lời.

Meera bước tới chiếc ghế cạnh cửa sổ và đặt một tay lên vai cậu. “Họ sẽ không tin đâu, Bran.”

Jojen ngồi lên giường của Bran. “Kể cho tôi ngài mơ thấy gì đi.”

Ngay cả lúc này Bran vẫn thấy hoảng sợ, nhưng cậu đã thề sẽ tin họ, và một người nhà Stark vùng Winterfell thì không bao giờ nuốt lời. “Ta có nhiều giấc mơ khác nhau,” cậu trình bày chậm rãi. “Có những giấc mơ về sói, nhưng chúng không thực sự đáng sợ như những giấc mơ khác. Ta chạy, rồi săn, rồi gϊếŧ những con sóc. Có những giấc mơ trong đó con quạ tới và dạy ta cách bay. Thỉnh thoảng cái cây cũng xuất hiện trong giấc mơ, nó gọi tên ta. Điều đó làm ta sợ hãi. Nhưng tồi tệ nhất là những giấc mơ khi ta ngã.” Cậu nhìn xuống sân với cảm giác đau khổ. “Trước đây ta chưa bao giờ ngã cả. Khi trèo lên tường thành, ta đi khắp nơi, lên tận những chóp mái, dọc theo những bức tường, và còn cho quạ ăn ở Tháp Cháy. Mẹ sợ ta sẽ ngã, nhưng ta biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Vậy mà ta đã rơi xuống thật, và bây giờ lần nào đi ngủ ta cũng nằm mơ thấy mình rơi xuống.”

Meera bóp vai cậu. “Tất cả chỉ có thế thôi à?”

“Ta đoán vậy.”

“Người biến hình,” Jojen Reed nói.

Bran nhìn cậu ta với đôi mắt mở to. “Sao cơ?”

“Người đội lốt. Những kẻ biến hình. Thú dữ. Họ sẽ gọi ngài như vậy nếu họ nghe được những giấc mơ sói của ngài.”

Những cái tên một lần nữa khiến Bran sợ hãi. “Ai sẽ gọi ta như vậy?”

“Chính thần dân của ngài. Một số người sẽ sợ hãi nếu biết ngài thực sự là ai. Một số người thậm chí còn cố gϊếŧ ngài nữa kia.”

Già Nan thỉnh thoảng có kể những câu chuyện kinh dị về thú dữ và những kẻ biến hình. Trong các câu chuyện đó, chúng luôn là ma quỷ. “Ta không giống như thế,” Bran nói. “Ta không như thế. Đó chỉ là những giấc mơ thôi.”

“Giấc mơ sói không hoàn toàn là một giấc mơ đâu. Ngài nhắm chặt con mắt thứ ba lúc đang còn thức, nhưng khi ngài chìm vào giấc ngủ, nó sẽ choàng mở và linh hồn ngài tìm kiếm một nửa còn lại. Năng lượng tràn đầy bên trong cơ thể ngài.”

“Ta không muốn thế. Ta muốn trở thành một hiệp sĩ.”

“Hiệp sĩ là những gì ngài muốn. Nhưng người biến hình mới thực sự là ngài. Ngài không thể thay đổi điều đó, Bran, ngài không thể chối bỏ hay phủ nhận nó được. Ngài là một con sói có cánh, nhưng ngài sẽ không bao giờ bay.” Jojen đứng dậy và bước về phía cửa sổ. “Trừ khi ngài mở mắt ra.” Cậu ta dí mạnh hai ngón tay vào trán Bran.

Khi đưa tay lên nơi Jojen vừa chỉ, Bran chỉ thấy có làn da lành lặn và mềm mượt. Chẳng có con mắt nào cả. Một con mắt đang nhắm lại cũng không. “Làm sao ta có thể mở nó ra nếu nó không có ở đó?”

“Ngài sẽ không thể tìm được con mắt đó bằng ngón tay đâu, Bran. Ngài phải tìm nó bằng trái tim cơ.” Jojen nhìn chằm chằm khuôn mặt Bran với đôi mắt xanh kỳ lạ. “Hay ngài sợ hãi?”

“Maester Luwin nói chẳng có gì trong giấc mơ đáng để chúng ta sợ hãi.”

“Có đấy,” Jojen nói.

“Là cái gì?”

“Quá khứ. Tương lai. Sự thật.”

Họ đang làm cho cậu lúng túng hơn bao giờ hết. Khi ở một mình, Bran đã cố hết sức, nhưng cậu không biết cách nào có thể mở được con mắt thứ ba. Dù có nhăn trán hay trỏ tay vào đó, cậu cũng chẳng thấy gì khác biệt so với trước.

Những ngày sau đó, cậu cố cảnh báo mọi người về những gì Jojen đã mơ thấy, nhưng mọi chuyện không giống như những gì cậu mong đợi. Mikken nghĩ giấc mơ thật tức cười. “Biển ấy à? Thật trùng hợp, tôi luôn muốn nhìn thấy biển. Nhưng tôi chưa bao giờ được đến đó. Và giờ thì biển đến với tôi, phải không nhỉ? Các vị thần thật tốt bụng khi hoàn thành điều ước cho một thợ rèn nghèo.”

“Các vị thần sẽ đưa tôi đến nơi họ thấy phù hợp,” Septon Chayle nhẹ nhàng nói, “nhưng tôi không nghĩ mình sẽ chết đuối đâu, Bran. Tôi lớn lên bên bờ sông Bạch Đao, ngài biết đấy. Và tôi bơi cũng khá cừ.”

Alebelly là người duy nhất có vẻ chú ý đến lời cảnh báo. Anh ta tự mình tới nói chuyện với Jojen, rồi sau đó không dám tắm hay tới gần miệng giếng. Cuối cùng, anh ta bốc mùi kinh khủng đến nỗi sáu lính gác khác phải ném anh ta vào một bồn nước nóng và cọ rửa trong khi anh ta la hét rằng họ đang dìm anh ta chết đuối như lời cậu bé ăn thịt ếch. Từ đó trở đi, lần nào nhìn thấy Bran hay Jojen trong lâu đài, anh ta cũng cáu bẳn và lẩm bẩm.

Một vài ngày sau khi Alebelly được ném vào bồn tắm, Ser Rodrik trở về Winterfell cùng với tù binh của mình, một chàng trai trẻ vạm vỡ với đôi môi mọng ướt và mái tóc dài, hắn có mùi nhà xí, một mùi thậm chí kinh khủng hơn cả của Alebelly trước đó. “Hắn ta tên là Hôi Thối,” Hayhead trả lời khi Bran hỏi tên. “Tôi chưa bao giờ biết tên thật của hắn. Hắn phục vụ gã con hoang của nhà Bolton và giúp hắn ta ám sát phu nhân Hornwood, họ nói vậy.”

Tên con hoang cũng đã chết, Bran nghe tin đó trong bữa tối. Người của Ser Rodrik đã bắt gặp hắn đang làm một việc kinh khủng ở vùng Hornwood (Bran cũng không hiểu rõ là việc gì, nhưng hình như phải cởi hết quần áo khi làm việc đó) và bắn hắn bằng cung tên khi hắn cố trốn chạy. Tuy nhiên, họ đã đến quá muộn để cứu phu nhân Hornwood. Sau đám cưới của hắn và phu nhân Hornwood, tên con hoang đã khóa bà trong một tòa tháp và bỏ đói. Bran nghe mọi người nói khi Ser Rodrik phá cửa tòa tháp bước vào, ông thấy bà ta đã chết với miệng đầy máu và vài ngón tay bị nhai đứt.

“Con quái vật đã buộc cho chúng ta một cái nút khó gỡ,” người hiệp sĩ già nói với Maester Luwin. “Dù thích hay không thì phu nhân Hornwood vẫn là vợ hắn. Hắn bắt bà ấy đọc lời thề trước cả tu sĩ và cây đước, và làʍ t̠ìиɦ với bà ấy ngay trong đêm hôm đó trước sự chứng kiến của bao nhiêu người. Bà ấy đã ký một di chúc trong đó tuyên bố hắn là người thừa kế và niêm phong lên đó.”

“Lời thề đọc trước lưỡi gươm chẳng có giá trị gì,” vị học sĩ phản đối.

“Roose Bolton có lẽ không cho là như vậy. Ít nhất với vấn đề đất đai.” Ser Rodrik trông có vẻ không vui. “Ta chỉ muốn lấy đầu tên hầu này của hắn, chắc hẳn hắn cũng xấu xa như tên chủ nhân. Nhưng có lẽ phải giữ hắn sống tới khi Robb từ chiến trường trở về. Ngài ấy là nhân chứng duy nhất cho những tội ác kinh khủng của gã con hoang. Có thể khi Lãnh chúa Bolton nghe câu chuyện của hắn, ông ta sẽ hủy bỏ lời tuyên bố của mình, nhưng trong lúc đó các hiệp sĩ của Manderly và người của Dreadfort đang chém gϊếŧ lẫn nhau trong rừng ở Hornwood, và ta thì không đủ mạnh để ngăn cản họ.” Vị hiệp sĩ già quay lại chỗ ngồi của mình và nghiêm nghị nhìn Bran. “Cháu dạo này thế nào, trong khi ta đi vắng, thưa hoàng tử? Ra lệnh cho vệ binh của ta không được tắm à? Cháu muốn họ cũng bốc mùi như Hôi Thối, đúng không?”

“Biển đang tới đây,” Bran nói. “Jojen đã thấy điều đó trong giấc mơ xanh của cậu ấy. Mebelly sẽ bị chết đuối.”

Maester Luwin kéo mạnh chuỗi hạt trên cổ áo. “Thằng nhóc nhà Reed tin rằng nó có thể nhìn thấy tương lai trong những giấc mơ của nó, Ser Rodrik. Tôi đã nói chuyện với Bran rằng những điềm báo đó không chắc chắn, nhưng nếu đó là sự thật thì dọc bờ biển Stony sẽ có vấn đề đấy. Hải tặc trên những chiếc thuyền dài sẽ tấn công làng chài, cưỡиɠ ɧϊếp và đốt phá. Leobald Tallhart đã cử cháu trai là Benfred đến đối phó với chúng, nhưng tôi hy vọng bọn cướp sẽ lên thuyền và chuồn ngay lập tức khi nhác thấy dáng binh lính của ta.”

“Phải rồi, và sau đó sẽ chuyển sang tấn công nơi khác. Quỷ tha ma bắt lũ hèn nhát đó. Bọn chúng cũng đâu khá hơn gã con hoang nhà Bolton là bao. Chúng sẽ không bao giờ dám cướp phá nếu quân đội chính của chúng ta không cách nơi đây hàng nghìn dặm về phía nam.” Ser Rodrik nhìn Bran. “Cậu ta còn nói với cháu điều gì nữa?”

“Jojen nói nước sẽ chảy qua tường thành của chúng ta. Cậu ấy nhìn thấy Alebelly chết đuối, Mikken, và cả Septon Chayle nữa ạ.”

Ser Rodrik nhíu mày. “Ồ, thế thì nếu phải dẫn quân đi chống lại bọn cướp, ta sẽ không đem theo Alebelly. Thằng nhóc không nhìn thấy ta chết đuối đấy chứ? Không thấy đúng không? Tốt.”

Nghe điều đó khiến Bran cảm thấy phấn chấn hơn. Vậy có thể họ sẽ không chết đuối, cậu nghĩ vậy. Nếu họ tránh xa biển cả ra...

Meera cũng nghĩ như thế vào đêm hôm cô và Jojen vào phòng Bran chơi trò domino ba mặt, nhưng em trai cô chỉ lắc đầu. “Những gì tôi thấy trong giấc mơ xanh không thể thay đổi được.”

Điều đó làm chị gái cậu ta giận dữ. “Vậy các vị thần gửi lời cảnh báo làm gì nếu chúng ta không thể thay đổi được những gì sắp diễn ra?”

“Em không biết,” Jojen nói một cách buồn bã.

“Nếu em là Alebelly, có lẽ em sẽ nhảy quách xuống giếng cho xong lời tiên tri ấy rồi nhỉ! Anh ta phải chiến đấu chứ, và Bran cũng vậy.”

“Ta?” Bran bỗng cảm thấy lo sợ. “Ta phải chiến đấu với cái gì? Ta cũng sẽ chết đuối sao?”

Meera nhìn cậu với vẻ tội lỗi. “Đáng lẽ tôi không nên nói thế.”

Cậu có thể nhận ra cô gái đang che giấu điều gì đó. “Cậu có nhìn thấy ta trong mơ không?” Bran lo lắng hỏi Jojen. “Ta cũng chết đuối hay sao?”

“Không chết đuối.” Jojen nói như thể mỗi lời thốt ra đều khiến cậu ta đau. “Tôi mơ thấy người đàn ông hôm nay tới đây, gã mà mọi người gọi là Hôi Thối ấy. Ngài và em trai ngài nằm chết dưới chân hắn, và hắn đang lột da mặt của các ngài với một thanh kiếm dài màu đỏ.”

Meera đứng bật dậy. “Nếu xuống được căn ngục tối, chị có thể dùng giáo đâm thấu tim hắn. Vậy làm sao hắn có thể hãm hại Bran nếu hắn đã chết?”

“Những người gác ngục sẽ ngăn chị lại,” Jojen nói. “Lính gác. Và nếu chị nói với họ lý do tại sao chị muốn gϊếŧ hắn, họ sẽ không tin đâu.”

“Ta cũng có lính gác,” Bran nhắc cho hai người họ nhớ. “Alebelly, Poxy Tym, Hayhead, và tất cả những người khác.”

Đôi mắt xanh rêu của Jojen ánh lên đầy thương cảm. “Họ cũng không thể ngăn được hắn, Bran. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi thấy đoạn kết thúc. Tôi thấy ngài và Rickon trong hầm mộ của nhà ngài, sâu trong bóng tối với tất cả các vị vua đã qua đời và những con sói bằng đá của họ.”

Không, Bran nghĩ. Không thể như vậy. “Nếu ta bỏ đi... tới Greywater, hay tới chỗ bầy quạ, một nơi nào đó thật xa để chúng không thể tìm thấy ta...”

“Chẳng ích gì đâu. Giấc mơ có màu xanh, Bran, và những giấc mơ xanh không bao giờ nói dối.”