Nguyệt Mê Tân Độ (Trăng Mờ Bến Cũ)

Quyển 2 - Chương 17

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Chớp mắt đã hơn hai năm, hoa nở hoa tàn, Đức Khánh Đế trì quốc hai năm cũng là hai năm Đại Quân Bắc quốc Diệc Dụ đăng cơ. Lan Đô, đế đô A Nhĩ Mộc được thiết lập bên hồ Thiên Trì, lập nên một không gian xanh quanh năm.

Hán hóa Lan Đô trình độ cực cao. Thư sinh Trung Nguyên thi Tú tài, Tú tài thi lên Tiến sĩ, Tiến sĩ thi lên Lão lộ tử Điện sĩ có vẻ đơn giản, ở Lan Đô chỉ có một đường – đó là thi đình.

Nhân tài khắp thiên hạ đều là môn sinh Thiên tử, ngoại trừ trình độ lợi hại cùng siêng năng đọc sách, hộ gia đình quyền quý có tiền có thế sẽ tìm mọi cách làm thế nào mời được tiên sinh giỏi từ Trung Nguyên về xem như hoàn được mấu chốt trong đó rồi, về phần hộ gia đình không có tiền cũng đành phải gom góp tiền mời một vị tiên sinh, tốt xấu cũng buộc lòng phải xem xét lại giá cả nữa.

Có hơn mười hộ gia đình túng quẫn nhất như thế mời một vị lão tiên sinh rẻ rề nhất. Vị lão tiên sinh này hết sức lười nhác, lên lớp muốn nói gì thì nói cái đó, nói đã đời rồi mệt sẽ xua lũ học trò ra ngoài chơi, còn mình thì khò khò ngủ một giấc say sưa, cho nên nhóm chủ mướn đối với vị lão tiên sinh nọ đều có ý kiến cực kỳ sâu sắc.

Thế nhưng, thứ nhất, giá thuê lão tiên sinh dạy học rẻ lắm, có bữa cơm ăn, có nơi để ngủ là được. Thứ hai, dường như lũ trẻ cũng có thể gắng gượng theo kịp tiến trình nên cũng đành cố nhẫn nhịn.

Lão tiên sinh ăn mặc lôi thôi lếch thếch, một cái áo choàng ngắn bằng vải bố màu xanh rách tả tơi, lại còn để chòm râu hoa râm thật dài, trên lông mày còn có một nốt ruồi son. Nhưng mà khi tiên sinh cười, hai mắt uốn cong thành một đôi trăng lưỡi liềm, lộ ra một hàm răng trắng noãn. Có lẽ vì rất gây cho người ta có sự thiện cảm ưa thích cho nên lũ trẻ con yêu mến vị tiên sinh này lắm.

Lão tiên sinh gõ bàn, thở ngắn than dài: “Trước kia trong một khu rừng rậm có hai con sói, một con hết sức bá đạo được gọi là Ác Bá, còn con kia…hừm, phức tạp quá, nó xem ra thì cũng ôn hòa không thể so sánh như sói được, nhưng trên đời này sói ba đuôi là xảo quyệt nhất hung ác nhất, mỗi ngày nó sống như diễn kịch, thôi thì gọi nó là Diễn Trò được rồi.”

“Quan hệ của hai sói hết sức không tốt, nguyên nhân chung quy không vượt ngoài quyền đại thế tiểu, yêu hận tình cừu. Ác Bá kỳ thật là có chút yêu mến Diễn Trò đấy,

cái con sói này nó tự cho là quá thể phải, nhưng mọi thứ đạt đến cũng không hơn gì Diễn Trò, muốn nó thừa nhận bản thân thích Diễn Trò, đó là trăm triệu lần không có khả năng.”

“Việc này vốn không liên quan đến chuyện của Oẳng, các trò nghĩ Oẳng là một con chó thôi ở đâu lại khéo chen chân vào chuyện của sói, chẳng phải là tự chui đầu vào rọ sao?”

Một lũ trẻ con phía dưới nâng má nghe, đột nhiên có đứa giơ tay nói: “Thưa tiên sinh, cái gì gọi là tự chui đầu vào rọ ạ?”

Lão tiên sinh nghiêm túc nói: “Nếu một con chó mà đi thích một con sói thì gọi nó là tự chui đầu vào rọ! Yêu của chó nhiều nhất cũng chỉ là thè lưỡi liếʍ láp, sói thì bất kể yêu hận đều sẽ cắn, rất dễ mất mạng đó.”

Tiên sinh thấy lũ trẻ gật đầu lia lịa mới đung đưa đầu nói tiếp: “Cái chính là Diễn Trò rất khéo giả trang, nó sắm vai thành cún, ngay cả Oẳng cũng bị nó gạt được. Cho nên Oẳng hiển nhiên phải giúp đỡ đồng loại á…”

Bọn trẻ nhỏ giọng thảo luận, nói: “Con chó này ngốc thật…ôi…”

Lão tiên sinh gõ bàn cộc cộc, bảo: “Chó này chính là tài tử!”

“Tài tử cũng không thể chứng minh nó không ngu ngốc!”

“Phải đó, tối đa chỉ chứng minh nó đọc sách nhiều thôi!”

“Các trò đừng ầm ĩ nữa, chó này nhất định là mật thám, nó là chó người phái đến nơi ở của sói!”

“Oa, là thật sao, Diễn Trò thảm thật đó, bị chó lừa rồi…”

“Oẳng đáng ghét quá đi!”

Lão tiên sinh chớp chớp con mắt, cách một lúc lâu sau mới nói: “Thời gian trôi qua, rốt cuộc Oẳng phát hiện Diễn Trò kỳ thật là một con sói, hơn nữa nó còn làm rất nhiều rất nhiều chuyện xấu, vì thế Oẳng quyết định rời xa Diễn Trò.”

“Thật ra Oẳng cũng luyến tiếc không nỡ bỏ đi, kỳ thật nó rất muốn rất muốn tha thứ cho Diễn Trò, nhưng nếu như Oẳng tha thứ cho Diễn Trò, nó sẽ không biết làm sao tha thứ chính mình. Có lẽ chó vĩnh viễn cũng không cách nào lượng thứ bởi cách sói thích nó, sở dĩ vậy nên hiện tại Oẳng bị hai sói truy đuổi chạy trối chết ở trong rừng!”

Một cu cậu bên trái giơ tay nói: “Tiên sinh, câu chuyện xưa này kì quái quá đi. Không phải sói nào cũng sợ chó sao, nhà của học trò có nuôi chó, không một con sói nào dám đến bắt dê cả!”

“Đúng đấy… Với lại con chó này sao khi không lại phải đi làm mật thám chứ.

Thật nghĩ không nổi mà!”

Lão tiên sinh hơi xấu hổ, bỗng có một cu cậu cả tiếng nói: “Các cậu rốt cuộc có nghe rõ không vậy hả, tiên sinh nói rồi, Oẳng bị hai sói truy đuổi đó, một con chó với một con sói đương nhiên là sói sợ chó, nhưng hiện tại là hai sói lận đó, Oẳng đương nhiên chỉ có chạy trối chết rồi!”

Lão tiên sinh bật người dậy chỉ vào cậu học trò đó nói: “Nhân tài Điện sĩ, nhân tài Điện sĩ!”

Làm đi làm lại như vậy tiên sinh cũng không còn hăng hái như trước đành xua lũ trẻ con ra ngoài chơi, còn mình thì đậy sách trên mặt ngủ một giấc say sưa.

* * *Mùa đông trên Thảo nguyên lạnh cực kỳ, Lan Đô lại thêm không đến mười tháng nay tuyết cứ đến tung bay, Diệc Dụ khoác áo lông cáo đang sưởi ấm bàn tay bên than lửa cháy rực bỗng nghe một gã Hắc y nhân báo cáo.

“Khả Hãn, chúng ta hầu như đã đạp khắp mọi nơi ở Trung Nguyên nhưng vẫn tìm không thấy dấu vết của Lục Triển Đình. Căn cứ vào trinh thám của chúng ta ẩn náu ở Trang gia, Lục Triển Đình dường như cũng không cậy nhờ bọn họ. Hơn nữa theo các loại dấu vết, Diệc Nhân tựa hồ cũng không tìm được hắn.”

Diệc Dụ khẽ nhướng chân mày, có chút hung ác độc địa nói: “Ta không tin hắn có thể thông thiên độn thổ, cho dù có đào ba thước cũng phải tìm ra hắn cho ta!”

Tiếng hắn vừa dứt, bóng dáng Trang Chi Điệp mặc một chiếc áo gấm màu trắng xuất hiện ngoài phòng, Diệc Dụ không nói nữa, Hắc y nhân nọ cũng lập tức cáo lui.

Trang Chi Điệp đặt bát canh nóng cầm trong tay lên bàn sách phía trước cửa sổ, nói: “Trời lạnh rồi, đây là canh dê vừa mới làm, chàng uống một chút cho ấm dạ!”

“Biết rồi!” Diệc Dụ thuận miệng nói.

Trang Chi Điệp cúi đầu đi tới cửa, lưỡng lự một chút vẫn là quay đầu nói: “Dụ, chàng vì cái gì còn muốn bắt Triển Đình ca ca chứ? Từ đầu đến cuối y đều không có phần có lỗi với chúng ta, huống hồ huynh ấy còn cứu thϊếp nữa!”

Diệc Dụ cúi đầu không đáp lời, Trang Chi Điệp bước lại gần nắm lấy tay hắn, nói: “Thϊếp biết chàng kỳ thật là thích Triển Đình ca ca, chàng cũng rất để ý Thập ca chàng, chàng chỉ là không biết nên biểu đạt như thế nào đúng không? Chàng muốn bọn họ để ý chàng, hai người họ lúc nào cũng phải thời thời khắc khắc đặt chàng trong lòng.

“Nhưng Dụ, trên đời này người với người đều có duyên phận. Chàng xem, Triển Đình ca ca cùng chơi với thϊếp từ nhỏ chàng cũng không đặt thϊếp vào lòng, chính là ở trong lòng thϊếp chỉ có chàng. Cho nên chàng phải hiểu rằng người Triển Đình ca ca thích chính là Thập ca chàng, không phải chàng, Thập ca chàng cũng thích Triển Đình ca ca nên hãy để Đức Khánh Đế đi tìm y đi!”

Diệc Dụ ngẩng đầu, đôi vành mắt hắn đỏ ngầu nghiến răng mà rằng: “Trên đời này Lục Triển Đình có thể thích bất luận người nào, nhưng không thể là Diệc Nhân. Diệc Nhân có thể thích bất kỳ ai nhưng không thể là Lục Triển Đình!” Hắn nói xong phất tay rồi bỏ ra ngoài sân.

Nét mặt Trang Chi Điệp ảm đạm nhìn bóng lưng hắn đi ra khỏi tầm mắt mình.

* * *Diệc Nhân nhìn ngắm những bông cúc trong sân, sắc thu Giang Nam bao giờ cũng trằn trọc trong màu vàng nhạt của những đóa cúc non cùng lá rụng tàn úa. Bà vυ' ẵm tiểu oa nhi đầu đội mũ hổ đi đến. Tiểu hài tử ấy ước chừng một tuổi, trên khuôn mặt rất có thần vận của Diệc Nhân.

Bà vυ' ôm tiểu oa nhi hành lễ với Diệc Nhân nói: “Nô tỳ thỉnh an Hoàng Thượng!”

Diệc Nhân mỉm cười ôm lấy tiểu hài tử: “Câu Lục, gần đây con có khỏe không?”

Tiểu hài tử nghe thấy phụ thân gọi mình dường như hết sức phấn khởi. Diệc Nhân quay đầu nói với bà vυ': “Tiểu Nghi ở Phượng Nghi Quán đã quen chưa?”

“Hồi bẩm Hoàng Thượng, Hoàng hậu nương nương sang đó cũng không tệ, Nương nương gần đây mở vài đợt thi xã, tài tử tài nữ đến cũng nhiều lắm, có rất nhiều ngựa nán lại trong chuồng ngựa của Phượng Nghi Quán ạ!”

Diệc Nhân cười nói: “Xem ra nàng ấy đem sách vở của ta cho về hưu hết rồi!”

“Hoàng hậu nương nương còn hỏi, Câu Lục điện hạ đã có thể nói rồi, sư phó của điện hạ phải chăng cũng nên đi mời về thôi!”

Diệc Nhân quay đầu lại cười hỏi Câu Lục: “Câu Lục, con nói xem có phải chúng ta nên mời sư phó con trở về rồi không?”

Câu Lục mở cái miệng nhỏ nhắn, lộ ra một đôi răng nanh mới mọc, nước dãi chảy lia lịa, nắm tay be bé quơ quơ. Diệc Nhân xoa xoa đầu Câu Lục cười bảo: “Được rồi, chúng ta nghĩ biện pháp đem vị sư phó không nghe lời này của con trở về!”

Hắn ngoảnh đầu thấy Tông Bố Quách đang lắc lư lật bật ở ngoài cửa bèn bảo bà vυ' ôm lấy Câu Lục rời khỏi, đoạn lạnh lùng thốt: “Vào đi!”

Tông Bố Quách sướиɠ rơn, vội vã di chuyển vào trong quỳ rạp trên mặt đất thưa thốt: “Thần thỉnh an Hoàng Thượng, Hoàng thượng vạn tuế vạn tuế…”

“Được rồi, việc Trẫm sai ngươi làm, ngươi làm thế nào rồi?”

Tông Bố Quách hân hoan nói: “Hồi Hoàng Thượng, vị thuốc ấy hạ thần ước chừng sắc độ hai mươi bốn tháng, sau đó lại sử dụng trên người sống, phối hợp châm chích thử nghiệm ba mươi tám lần, công hiệu nhiều lần, tuyệt đối không có sai sót nhầm lẫn đâu ạ.”

Diệc Nhân trầm ngâm một lúc mới nhìn chằm chằm vào Tông Bố Quách gằn từng chữ một khỏi miệng: “Dược này nếu như xảy ra một chút sự cố nào, Trẫm cam đoan trong vòng hai mươi bốn tháng ngươi nhất định chết không xong!”

Tông Bố Quách chưa bao giờ gặp một Diệc Nhân nói chuyện thanh sắc câu lệ, gã sợ tới mức thân thể mềm nhũn thiếu chút nữa ngã quỵ trên mặt đất, đáp lời lia lịa.

“Nếu thành công…” Diệc Nhân thản nhiên nói: “Ngươi sẽ là Viện sĩ Thái y viện kế tục!”

Tông Bố Quách thoáng cái tâm tình vui mừng khôn xiết, nói năng lộn xộn: “Hoàng Thượng, tuyệt đối sẽ không có sai sót đâu ạ, tuyệt đối sẽ không có sai sót đâu ạ!”

Diệc Nhân vung tay cho phép gã lui ra ngoài.

Tông Bố Quách ra khỏi cửa Thượng Thư Phòng chỉ cảm thấy thân nhẹ như yến, gã trông thấy Lý Đồng ôm án tông chồng lớn chồng nhỏ vội vội vàng vàng mà đi đến Tứ Thư khố, nhịn không được cười nói: “Chao ôi, Lý đại nhân à, chẳng trách Hoàng Thượng đặc biệt muốn ngài đi phụ trách sổ sách án kiện trong Tứ Thư khố, ngài xem xem nhiều hồ sơ thế này ấy thế mà ngài đều có thể nhớ được, đúng là lợi hại thật mà.”

Lý Đồng thấy gã chế giễu châm biếm lặp đi lặp lại không bốn thì hai, nở tiếng cười khẽ, ôm án tông đi đến Tứ Thư khố.

Hắn đặt án tông lên bàn, nhìn quanh quất bốn phía, từ trong đống sách lấy ra một bình rượu nhỏ lén uống một ngụm, nói mừng: “Hạng tiểu nhân như ngươi thì biết cái rắm rít gì, vị trí này so với Khanh Đại Lý Tự thoải mái hơn nhiều!”

Hắn thở dài một hơi, hồi tưởng lại năm đó hắn quỳ gối trước mặt Diệc Nhân đến tận khi mồ hôi thấm nặng vào lớp quần áo, ánh mắt Diệc Nhân mới từ quyển sách trong tay dời đến trên người hắn, thản nhiên nói: “Lý Đồng phải không?”

“Phải ạ!” Lý Đồng run giọng nói.

“Trẫm nghe nói trí nhớ ngươi không tồi, án tử nhiều năm trước còn nhớ rất rõ ràng kỹ lưỡng, tình tiết vụ án cũng phân tích không kém, hiện giờ sổ sách án kiện trong Tứ Thư khố đang cần một nhân tài như vậy, ngươi hãy đến đó hỗ trợ đi!”

Lúc ấy Lý Đồng cũng không biết ngây ngô dại dột thế nào bước ra khỏi Thượng Thư phòng, hắn nguyên tưởng rằng Tứ Thư khố chẳng qua là theo điều lệ một vài ngày nữa Diệc Nhân nhất định sẽ kiếm một cái cớ chặt đầu hắn thôi, ngờ đâu cứ đợi như thế ở Tứ Thư khố ngày này qua tháng nọ.

Hắn vừa định uống một ngụm nữa thì bị ai đó đoạt lấy bình rượu, vẻ mặt quản sự giận dữ nói: “Ông nội nhà ngươi lại lén uống rượu, còn không mau mau chọn cán sự đi, một đống lớn án tông ở đây hôm nay đều phải được trích sửa tại án đấy!”

Lý Đồng nuốt nước bọt thở dài một hơi, lầu bầu nói: “Ta sai rồi, vẫn là làm Khanh Đại Lý tự tốt hơn mà!”

* * *

Diệp Tuệ Minh ở cứ điểm phòng ngự Tây Bắc bàn bạc việc quân cơ bất thình lình ngước lên nhìn sắc trời, vội nói: “Giờ nào rồi?”

Gã vừa nghe nói là gần trưa rồi liền lúng ta lúng túng cắp theo mũ trên bàn bỏ chạy ra ngoài bỏ lại một câu-Hạ ngọ thương nghị tiếp, chúng nhân dường như đã quen với hình ảnh ấy, người nào người nấy nhao nhao cầm lấy mũ từng người từng người một tản ra ngoài.

Diệp Tuệ Minh chạy chầm chậm đến khu chăn nuôi phía sau Ngự Hoa Viên, trông thấy bên ngoài một con ưng đứng trên cây Đại hòe, Diệp Tuệ Minh vội vã lấy qua một miếng thịt, vô cùng nịnh nọt mà rằng: “Hải Đông Thanh à, ngài là con ưng mà ta gặp oai hùng nhất, dũng mãnh nhất, có phong độ nhất. Ngài xem cánh của ngài đi nè, ây dô! Mở rộng ra thế này mới là hùng ưng có phong thái đặc biệt chớ.”

“Sao lại có người bắt ngài đi làm con gà chớ, rõ là…rõ là buồn cười chết đi được. Đến đây đi, đây là ta hiếu kính ngài, đây là thịt bò hảo hạng nhất đó, là thịt bò mềm nhất trên thảo nguyên đó, đến đây đi mà!”

Gã sốt cả ruột, tha thiết mà nhìn con ưng nọ, ấy thế mà Hải Đông Thanh đứng ở cành cây trên đầu ngay cả mắt cũng không liếc gã một cái.

Cách một chốc, thái giám chăn nuôi bên cạnh tiến lên tiếp nhận miếng thịt nói: “Tướng quân, hôm nay ngài lại thất bại rồi, ngày mai lại đến vậy!”

Diệp Tuệ Minh thất vọng ủ ê mà cắp theo mũ rời đi, hai tên tiểu thái giám chăn nuôi nhỏ giọng thảo luận: “Mi nói cũng lạ, Diệp tướng quân này hai năm nay lời nào hay cũng nói hết rồi, có khi vỗ cả mông ngựa ta còn cảm thấy buồn nôn, con ưng này cứ trơ trơ một miếng cũng không ăn.”

Thái giám chăn nuôi khác cười nói: “Ngài ấy cư nhiên dám nhét Hải Đông Thanh của Hoàng Thượng vào chuồng gà của một hộ nông dân. Lúc ấy Hoàng Thượng nói ngài ấy chỉ cần tiếp đền một cái thất lễ cho Hải Đông Thanh, nếu như Hải Đông Thanh chịu ăn một miếng thịt ngài ấy cho thì xong rồi. Ta đã nghĩ việc này không đơn giản vậy, quả nhiên cũng hai năm rồi.”

Hai gã vô cùng đồng cảm mà trông bóng dáng Diệp Tuệ Minh đi xa dần.

******

Thẩm Hải Viễn vào phòng Diệc Nhân ôm quyền nói: “Chủ tử, ngài nói chúng ta phải đi tìm Lục Triển Đình, ngài đã có phương hướng rồi ư?”

Diệc Nhân chậm rãi nói: “Mấy năm nay, người của chúng ta cơ hồ đạp khắp Trung Nguyên cũng tìm không được bóng dáng của y…”

“Chẳng những là chúng ta, hiển nhiên nhân mã của Diệc Dụ cũng có tìm kiếm tựa hồ chưa từng tìm được y!”

“Không sai, cho nên ta đoán…” Diệc Nhân quay đầu lại cười nói: “Y trốn ở A Nhĩ Mộc, rất có khả năng trốn tại Lan Đô, ngay dưới mí mắt Diệc Dụ! Chúng ta đi đến đó tìm y.”

* * *

Trong từ đường thôn Hạ Nhĩ Ba thuộc Lan Đô, chờ mười mấy đứa nhi đồng chen chúc nhau ra ngoài, Hoắc Nhĩ Kim Thị sống trong thôn mới xách theo mấy lạng thịt bò vào cửa chính. Lão tiên sinh được mời về thôn dạy học cho lũ trẻ đang đọc sách, đọc đến say sưa lại còn gật gù đắc ý mấy hồi, đúng là dáng điệu của một tú tài nghèo mạt điển hình của Trung Nguyên.

Hoắc Nhĩ Kim Thị cũng không hiểu, Thị cho rằng nhân tài có học vấn thì có thể có dáng dấp như thế, như Thị đây một chữ không biết, đầu tuyệt đối không dám ngẩng cao chỉ có thể cúi thấp.

“Liễu tiên sinh…” Hoắc Nhĩ Kim Thị cười nói: “Lão gia nhà chúng tôi đi Trung Nguyên thu thập dược liệu đã một thời gian rồi, đến bây giờ còn chưa thấy về, tôi muốn xin tiên sinh viết cho một phong thư.”

Thị thấy ánh mắt lão tiên sinh thẳng ngoắc dán mắt vào thịt bò trong tay mình, đành phải liên tục gọi vài tiếng lão tiên sinh mới thu ánh mắt về niềm nở hỏi: “Thị muốn viết những gì?”

Tiên sinh lấy bút mực ra nhanh lắm, trải giấy cũng nhanh, cầm lấy một cây bút gần trụi hết lông nhúng thấm nước mực hỏi lại: “Thị muốn nói gì với chồng?”

Hoắc Nhĩ Kim Thị đặt thịt bò lên bàn do do dự dự nói: “Tôi đương nhiên là muốn y về sớm một chút rồi, tôi nghe nói nữ tử Trung Nguyên bộ dạng xinh đẹp đẫy đà ghê lắm, nam nhân nhà Nghiệp Nhĩ ở đầu thôn ấy, đi ra ngoài một chuyến thôi liền dắt về một nữ nhân Trung Nguyên. Giờ Nghiệp Nhĩ Thị ngày nào cũng đến nhà tôi khóc lóc khiến dược thảo trong nhà lúc nào cũng phơi nắng mà chả khô!”

Lão tiên sinh nghe xong vuốt râu, gật gật đầu, cầm bút viết soàn soạt soàn soạt mấy chữ:

Tưởng nhân tham tối thị li biệt hận,

chích vi cam thảo khẩu điềm điềm đích hống đáo như kim,

hoàng liên tâm khổ khổ nhu vi y đam muộn,

bạch chỉ nhân tả bất tẫn li tình tự,

chúc phù sử quân tử, thiết mạc tố phụ ân nhân.

Nhĩ quả thị bán hạ đương quy dã,

ngã tình nguyện đối trứ thiên nam tinh triệt dạ đích đẳng.

(Tạm dịch:

Nhân sâm hận nhất li biệt,

chỉ vì vị ngọt Cam thảo lừa gạt đến bây giờ,

Lòng Hoàng liên đau khổ nhập nhù vì chàng sa mê,

Bạch chỉ viết chữ tình mà xa bất tận,

căn dặn Sử quân tử, chớ cắt mất kẻo phụ người ơn.

Chàng quả là Bán hạ Đương quy,

ta tình nguyện chờ thâu đêm với Thiên nam tinh.)

Hoắc Nhĩ Kim Thị nhìn mấy dòng chữ rồng bay phượng múa nọ vui mừng nói: “Tiên sinh đúng là tiên sinh, viết cái này đâu ra đấy rồi tôi nhờ người mang thư đi!”

Lão tiên sinh trông theo bóng dáng tươi cười của Thị lại ngó thịt bò trên bàn cười nói: “Lục Triển Đình ơi Lục Triển Đình, chữ của đại tài tử Trung Nguyên ngươi đây hiện giờ cũng chỉ trị giá một miếng thịt bò này thôi!”

Tuy là y ngoài miệng nói thế nhưng người lại xách thịt bò lên, vui mừng hớn hở nói: “Thật sự cũng sắp quên mùi vị thịt bò là thế nào rồi, dù sao cũng phải tìm một ít vật liệu ngon chuẩn bị cho mày mới không uổng công tao ngày ngày nhớ nhung á!”

Y chỉnh mũ ngay ngắn đoạn chạy chầm chậm vào sau núi trong thôn, ngâm nga tiểu khúc trong miệng tìm nhặt những cành cây trong rừng.

Y đang tìm kiếm bỗng đám trẻ con vung vẩy cành cây xông đến bên cạnh, một đứa nhỏ hỏi: “Tiên sinh, thầy tìm gì thế?”

Lục Triển Đình cho lũ học trò khoa tay múa chân một chút, nói: “Là một loại hương thảo, đợi chút nữa ta dùng hầm thịt bò!”

Bọn trẻ nuốt nước bọt, trong đôi mắt đen sẫm lộ ra những tia nhìn thèm thuồng. Lục Triển Đình cười nói: “Các trò tìm giúp ta, tìm được rồi hầm xong thịt thầy trò ta sẽ cùng ăn!”

Bọn trẻ cùng kêu lên reo hò, “Vèo” một tiếng cả bọn chạy đi tìm hương thảo.

Lục Triển Đình thoáng cười gượng, ngó xuống miếng thịt bò trong tay thở dài: “Lát nữa phải cắt ra thật nhỏ mới được!” y ngẫm ngẫm nghĩ nghĩ, lại vui vẻ nói: “Dù sao so với không có thừa, có thể nếm được mùi vị thịt là tốt rồi!” Nói xong y cúi đầu lại vui vui vẻ vẻ mà tìm tiếp hương thảo.

Y đang mải tìm thình lình đàn chim đủ loại trong rừng cây bay ra, Lục Triển Đình lắng tai nghe, xa xa truyền đến từng đợt thét to cùng tiếng vó ngựa. Y thầm nghĩ không tốt, vội vã cả tiếng hô bọn trẻ tập trung lại sang bên này, y gộp tất cả lũ trẻ con ở ven đường, nhìn lướt qua hỏi: “Nhã Đô nhà Hoắc Nhĩ Kim đâu?”

“Nhã Đô nói trò ấy biết hương thảo ở đâu nên đi tìm một mình rồi!”

“Đúng đó, trò ấy không muốn cho bọn trò biết, như vậy tiên sinh sẽ lại khả dĩ khen trò ấy là nhân tài điện sĩ nữa!”

Lục Triển Đình ngắt lời bảy cái miệng tám cái lưỡi của bọn trẻ, hỏi rõ ràng phương hướng gấp gáp chạy đi, trông thấy Nhã Đô đang nhỏng mông vùi vào giữa bụi cỏ ở đằng xa.

Một số người phục sức kỵ binh đang giương cung cài tên nhắm ngay mấy con nai chạy vọt đến, Lục Triển Đình không kịp suy xét nhiều thêm, phóng người bổ nhào về phía trước ôm lấy Nhã Đô, mấy mũi tên từ đỉnh đầu vèo vèo bay qua. Lục Triển Đình chỉ cảm thấy vai phải đau nhói, khẽ nâng đầu thấy trên vai phải mình cắm một mũi tên lông vũ, không dằn được khẽ cười gượng.

Mấy con ngựa ngừng lại trước mặt bọn y, có một vài Lang quân độ tuổi thiếu niên dáng dấp cũng ước chừng mười bảy mười tám tuổi, một người cầm đầu nhìn ngoài trông có vẻ mi dài mặt ngọc, nét mặt dường như pha lẫn một ít lo lắng hỏi: “Hai người không có chuyện gì chứ?”

“Cậu nói xem?” Lục Triển Đình chịu đau tức cười nói.

“Lão thật to gan, Trường Thị Lang chúng ta hỏi lão gì lão hãy đáp đó!”

“Lão trúng tên rồi!” Lục Triển Đình bò dậy, y chỉ hơi cử động chỗ bị thương liền co rút lại, không cầm được đau đến nhăn răng.

Thiếu niên Thị Lang nọ phân phó: “Dẫn ông ấy đi xem đại phu!”

“Không cần đâu!” Lục Triển Đình xua tay nói vội: “Trong núi này nhất định có thảo dược, để tự lão đi hái một ít rồi đắp lên, không cần phiền phức làm gì!”

Thiếu niên Thị Lang nọ nhíu nhíu mày nói: “Tuy nói trúng tên không phải thương nặng gì nhưng làm không tốt cũng sẽ tai nạn chết người đấy!”

Lục Triển Đình cười nói: “Thật sự là không cần!”

Y xoay tròn con ngươi, nói: “Không bằng thế này đi, tuy nói trúng tên không phải thương nặng gì nhưng mời một đại phu xem bệnh chí thiểu phải một bạc tiền, một thang thuốc trị thương dù sao cũng hai bạc tiền, sau đó là một ít thuốc thang dưỡng thương, tiền đại phu chẩn bệnh tái khám, trước trước sau sau tổng cộng cũng phải một lượng bạc.”

“Cậu xem lão lớn tuổi thế này rồi, hai tháng này chỉ sợ làm gì cũng không thể sống nổi, cậu bồi thường cho lão tổng cộng ba lượng bạc việc này cũng coi như xong rồi.”

Thiếu niên Thị Lang nghe xong cười nói: “Giá của lão ngược lại cũng coi như hợp lý!” Gã nhảy xuống ngựa từ trong ngực lấy ra hai thỏi bạc ròng đưa cho Lục Triển Đình nói: “Ở đây tổng cộng là mười hai bạc ròng.”

Lục Triển Đình nhếch miệng cười cũng không chối từ thoải mái nhận lấy. Thiếu niên nọ cười, vừa định xoay người đi đột nhiên nhớ tới gì đó, ngồi xổm xuống ôm đồm túm lấy cánh tay Lục Triển Đình, nói một tiếng

đắc tội, đánh một chưởng lên trên vai bị trúng tên, mũi tên trên vai Lục Triển Đình bay thẳng ra ngoài găm ở trên thân cây.

Lục Triển Đình trông bóng lưng thiếu niên, cười nói với Nhã Đô ở bên đang trợn mắt há hốc mồm: “Thiếu niên này xem ra cũng không tệ lắm!”

Bọn trẻ phía sau hối hả chạy đến, vây quanh Lục Triển Đình máu me trên người vào giữa, khóc lóc một trận ào ào như trút nước.

Lục Triển Đình nhìn lũ học trò nước mắt giàn giụa, thở dài nói: “Đừng khóc nữa, hôm nay tiên sinh dắt các trò vào trong thành ăn một bữa ngon nhé!”

Đám con nít sững sờ, nước mắt trên mặt chưa khô lập tức đứng lên reo hò.

Lục Triển Đình trở về phòng mình thay đổi một bộ quần áo, xử lý miệng vết thương qua loa một chút, may mà mũi tên kia cắm vào khi đã là thế cuối rồi nên miệng vết thương cũng không sâu lắm. Sau đó Lục Triển Đình băng bó sơ qua rồi cùng mười đứa trẻ tràn ngập vui mừng đồng thời ngồi lên xe bò đi vào trong thành.

Mặc dù Lan Đô thiết lập tại không gian xanh thế nhưng ngoài đồng cỏ ra, bão cát đại mạc vẫn cứ thường xuyên ghé thăm. Bởi vậy trong thành bất kể nam nữ đều thịnh hành đội mũ cài theo mạng che mặt, Lục Triển Đình cuốn mạng che mặt lên nhìn tường thành đá trong nắng chiều vàng kim, bỗng nhiên có một chút hoài niệm tường quét vôi trắng ngói xanh, một phần kiều diễm của Kim Lăng bên ấy.

Không biết sao, dường như luôn luôn có một bóng người như ẩn như hiện trong lòng, ngực y quặn đau, tự cường đặt lực chú ý trên phố phường ngựa xe đông đúc. Y đảo mắt nhìn lướt qua một gian kiến trúc kiểu Hán triều, chữ màu phấn vàng “Đắc Nguyệt Lâu”, bèn cả tiếng nói: “Gian này được rồi!”

Tiểu nhị có một chút khinh thường nhìn y buộc xe bò bên cạnh tuấn mã yên ngựa vàng ngọc, Lục Triển Đình ngẩng đầu sải bước dẫn mười mấy đứa trẻ vào Đắc Nguyệt Lâu chọn một chỗ sát cửa sổ ngồi xuống.

Lục Triển Đình thấy tiểu nhị bợ đỡ, đặt hai thỏi bạc từ trong ngực lên bàn, cười nhạt nói: “Đi làm cho ta một bàn thịt dê tổng cộng mười hai bạc đến đây!”

Thần sắc trên mặt tiểu nhị ngay tức khắc lóe sáng, thu lấy bạc một mạch đi xuống.

Lục Triển Đình uể oải duỗi thắt lưng, vặn vẹo hai bên trái phải quan sát mấy cái đầu của bọn trẻ ngồi xung quanh đang phấn khởi không thôi. Y dựa vào bệ cửa sổ nhìn người ngựa qua lại như con thoi không ngớt dưới lầu, đường phố huyên náo sầm uất, ví như không phải trang phục người ở đây có một chút khác biệt, chợt một ánh mắt nhìn lại ắt sẽ tưởng nhầm mình đã trở về đất Giang Nam.

Chân trời ráng đỏ cuồn cuộn, gió mùa thu thổi, vậy mà lại nổi lên trận tuyết lớn như lông ngỗng rơi xuống êm ái trầm bổng, Lục Triển Đình không khỏi thở ra một hơi thật dài.

Thang gác của Đắc nguyệt lâu một hồi đạp vang, có một nhóm người đi lên, có người tựa hồ nói thầm vài câu với tiểu nhị. Chỉ chốc lát sau tiểu nhị qua đấy, cười mỉa nói: “Vị lão gia này, ngài có thể chuyển chỗ ngồi được chăng? Lão gia Trường Thị Lang bên ngoài muốn một vị trí sát cửa sổ.”

Lục Triển Đình ngáp một cái không đáp, bên ngoài có người cất cao giọng nói: “Nếu như người bên trong bằng lòng nhường lại chỗ, bàn rượu của các vị ta xin mời.”

Lục Triển Đình nghe xong lập tức đứng dậy, lại nghe có một thanh âm ôn hòa nói: “Vị trí tự nhiên có thứ tự đến trước xếp trước, đến sau xếp sau. Chúng ta há lại làm khó người khác, ta cũng không thích vị trí sát cửa sổ, quá ồn, chúng ta ngồi ngay đây đi!”

“Nếu tiên sinh tùy ý thế, vậy ủy khuất tiên sinh ngồi chỗ này rồi!”

Nghe thanh âm người này tuổi không lớn mấy, nhưng dường như là người tâm phúc của nhóm người nọ, nghe tiếng động ngồi xuống phía sau bình phong, Lục Triển Đình bụng đầy thất vọng ngồi xuống nguyên vị, lại cảm thấy hai thanh âm kia nghe có chút quen tai.

Lại nghe thanh âm trong trẻo nói: “Ẩm thực Lan Đô tuy rằng không hoa thức phong phú bằng Trung Nguyên nhưng lại đặc sắc, đặc biệt Bát trân Thảo nguyên do Đắc Nguyệt Lâu làm, chỉ cần dùng tảo biển sinh trưởng tốt, cộng thêm gà tươi, lòng trắng trứng ướp đều với muối, lấy tay vo thành viên bánh bỏ vào l*иg hấp hấp chín trên lửa lớn, chín tới thì bày bánh tảo ra mâm.

“Bàn tay lạc đà, mũi lừa, bướu lạc đà, sừng hươu, nấm đầu khỉ thái thành viên, đuôi bò xắt hình hoa cúc, dùng vải mỏng gói chúng lại riêng biệt cho vào nồi, thêm vào nước cốt gà, muối, hành, gừng, phối với rượu Hoa điêu trên mười năm để mất đi vị gây, đoạn vớt chúng ra để ráo nước.”

“Sau đó xếp từng miếng bàn tay lạc đà, mũi lừa, sừng hươu, bướu lạc đà trình tự vào bát, lại lọc thêm nước gà, ít muối, rượu hoa điêu mười năm, hành, gừng đã thấm vị trong l*иg hấp, chọn bỏ hành, gừng, gạn ra nước canh rưới lên trên mặt bánh tảo.

“Lại dùng nước canh đã gạn ra ninh đuôi bò, sau khi chín nhừ thì điểm xuyết vào giữa mâm, xào nấm đầu khỉ còn lại với nước cốt gà, muối ăn chờ gia vị trong nồi ngấm vị sau đó thêm bột vào canh cho đặc rồi chế quanh bốn phía tảo. Món này ăn vô cùng bổ dưỡng, tiên sinh nhất định phải nếm thử.”

Thanh âm ôn hòa kia tiếp lời:” Không nghĩ kiểu thức món ăn thảo nguyên vậy mà phiền phức như thế, chỉ nghĩ rằng tính tình người thảo nguyên chân chất, háo uống rượu chén lớn ăn miếng thịt to, không thích gì đó quá mức tinh tế.”

Âm thanh trong trẻo nói: “Tiên sinh quá khiêm nhượng rồi, cái hiếm của Bát trân trên thảo nguyên chính là thực vật, nếu như luận phương pháp nấu nướng, cái này sao có thể bì với Trung Nguyên, nghe nói trong hoàng cung Trung Nguyên chỉ món gà nấu hạt sen đã có ba mươi sáu cách làm rồi!”

Thanh âm Ôn hòa tựa như không cho là đúng, cười nói: “Ăn thế phí quá rồi!”

Lục Triển Đình nghe đến đó mồ hôi đã muốn tuôn như mưa, y đã nghe ra âm thanh trong trẻo là vị Trường Thị Lang nọ gặp ở trong rừng, thanh âm ôn hòa kia cũng không thể giả được nữa đích thị Diệc Nhân.

Trước kia Lục Triển Đình bất kể thế nào cũng không không nghĩ Diệc Nhân sẽ xuất hiện ở chốn này, mà còn cùng một nơi với một vị Trường Thị Lang trong cung đình Lan Đô. Y nguyên là thay Diệc Nhân sợ hãi một hồi, nhưng nghĩ lại, chỉ sợ Diệc Nhân tám chín phần mười có phòng bị mà đến, đích thực so với chính mình an toàn nhiều lắm, quan tâm hắn còn không bằng quan tâm chính mình.

Bọn nhỏ thấy Lục Triển Đình đổ một đầu mồ hôi khom lưng quay tới quay lui ở dưới bàn, chúng ngồi xổm xuống hỏi: “Tiên sinh, thầy tìm gì thế?”

Lục Triển Đình chìa ngón trỏ làm động tác chớ có lên tiếng, nhỏ giọng nói: “Sói đến rồi!”

Trong lúc lũ trẻ mù mịt khó hiểu thì tiểu nhị cất tiếng – Dê đến đây, thấy một con dê nướng đến vàng óng bóng nhẫy đặt vào giữa trận reo hò của bọn trẻ, làm sao còn quản đến sói của tiên sinh nữa, cả đám bò lên trên bàn dùng đủ hai tay chén dê, tiểu nhị chỉ đành liên hô –

cẩn thận phỏng đấy.

Lục Triển Đình làm sao còn có tâm tư mà đi phẩm dê, y lắng tai nghe không xót một câu đối thoại nào cách vách.

“Nghe nói riêng Lục Triển Đình đứng đầu tứ đại tài tử Trung Nguyên cực chú trọng ẩm thực, nói xem một người không có trình độ đoan nhìn y xào hai món là biết rồi!” Giữa tiệc có người nói xen vào.

Diệc Nhân khẽ cười nói: “Đó há chẳng phải ngự trù có năng lực nhất trong cung sao!”

Chúng nhân cười ồ một trận, Lục Triển Đình thì lại một bụng tức giận.

Lại nghe người nói: “Văn nhân Trung Nguyên chuộng uống trà, nghe nói càng là danh sĩ đối với trà càng có chú trọng, giữa danh sĩ và tăng nhân thường có thuyết đấu trà. Người Hán còn có một đại văn nhân sáng tác thơ nói rằng:

Tùng lai danh sĩ ái bình thủy, tự cổ cao tăng hỷ đấu trà(1). Thẩm Tiên Sinh không ngại giảng giải cách đấu trà này là như thế nào chăng.”

Lục Triển Đình nghe có người gọi hắn là Thẩm Tiên sinh không khỏi sửng sốt, lập tức nghĩ nhất định là Diệc Nhân đổi tên rồi.

Nghe Diệc Nhân nói: “Không dám, nói về nước trà chính là hương, sắc, vị cùng cách thức uống trà, hoặc giả nói đến thiên thời, địa lợi, nhân hòa, uống khi nào, uống ở đâu, lại cùng với ai cộng ẩm đều có liên quan với trình tự uống trà.”

“Cùng loại trà, dùng nước pha khác nhau, cấp độ trà ngon có thể cách nhau đến ngàn dặm,

Lục Vũ nói “Nhất nước suối, nhì nước sông, ba là nước giếng”(2) tổng cộng có bảy nguồn nước đệ nhất thiên hạ.”

“Thứ nhất là Nam Linh sông Dương Tử Giang, thứ nhì là suối Thạch Tuyền chùa Huệ Sơn ở huyện Vô Tích, thứ ba là Thạch tuyền ở chùa Hổ Khâu Tô Châu, thứ tư là Nước chùa Quan Âm, huyện Đan Dương, Nước chùa Đại Minh, Dương Châu xếp thứ năm, thứ sáu là nước Tùng Giang, sau cùng là Hoài Thủy, huyện Bách Nham, Đường Châu thứ bảy. Đủ thấy pha trà cần phải có được nước tốt”

Chúng nhân tấm tắc tán dương.

Diệc Nhân cười nói: “Ngươi xem, trà

Mông Đỉnh

này đáng tiếc lại dùng nước sông Nặc Hà trong thành Lan Đô mà pha, nếu như dùng nước suối đầu nguồn Thiên Trì, mùi vị trà này đã có thể khác nhau trời vực rồi.”

Mọi người tán dương lia lịa, âm thanh trong trẻo phân phó người dùng khoái mã đến Thiên Trì lấy một bầu nước đến.

Lục Triển Đình nghe đến đây, hơi cười nhạt một tiếng, phủi miệng khinh thường, y nghiêng đầu trông tuyết rơi ngoài cửa sổ ngày càng lớn, cầm lấy chén trà trước mặt, đổ ngược ra ngoài cửa sổ.

Một bàn ăn mười hai bạc ròng rất nhiều, Lục Triển Đình cũng nhịn không được tranh nhau với mười hai đứa trẻ. Không bao lâu quyét sạch hết một bàn, tiêu diệt đến gọn gàng sạch sẽ. Lục Triển Đình gọi tiểu nhị phân phó vài câu, sau đó dẫn tiểu hài tử đi xuống đầu thang khác.

Diệc Nhân đang tập trung tinh thần, nghe có người nói ngày hôm nay vì săn bắn nai rừng mà gặp chuyện nguy hiểm, hắn nghe lão tiên sinh người Hán dũng cảm quên mình cứu tiểu hài tử, không những có thể trấn tĩnh như gió thổi may bay đối mặt với vết thương bị tên bắn còn có thể đòi tiền bồi thường chẩn bệnh, đôi con ngươi liền co lại.

Trường Thị Lang cười nói: “Hôm nay Tiên sinh đường xá xa xôi mà đến chắc hẳn cũng mệt rồi, nếu ăn no rồi, tôi liền an bài tiên sinh đi nghỉ ngơi!”

Diệc Nhân cười nói được, lúc này tiểu nhị bưng đến cho hắn một cái chén, nói: “Vừa rồi vị khách quan sát vách kia bảo ta đưa cho ngài, hắn nói thiên thủy cần gì phải lấy ở Thiên trì, người pha trà chưa hẳn phẩm được trà.”

Diệc Nhân chạm lấy cái chén đã nguội lạnh, thấy tuyết thủy hòa tan trong chén, hoa tuyết trong như băng sạch như ngọc nổi lềnh bềnh trên mặt nước liền vội hỏi: “Người này đâu?”

Tiểu nhị vừa mới nói một câu

đi xuống rồi, Diệc Nhân đã xông xuống lầu ngay dõi mắt trông về phía xa, nào còn bóng dáng Lục Triển Đình.

Thẩm Hải Viễn cũng xuống theo, nhỏ giọng nói: “Sao vậy ạ, chủ tử?”

Diệc Nhân khẽ cười, nói: “Y mới vừa ở cách vách, thiên trì là tuyết hòa với nước trên đỉnh Thiên Sơn, y lấy tuyết rơi từ trời xuống, với thiên thời địa lợi mà thắng ta hai trù liên tiếp, sở dĩ cười nhạo ta chẳng qua là một người pha trà vị tất hiểu được phẩm trà!”

Hắn nhìn chén tuyết thủy đoạn giơ lên miệng uống một hơi cạn sạch khẽ cười nói: “Không sao, ta cũng không tính thắng ngươi ở những chỗ này!”

Chú thích:

(1) Tùng lai danh sĩ ái bình thủy, tự cổ cao tăng hỷ đấu trà:

Đây là cấu đối mà Trịnh Bản Kiều, một thành viên của “Bát quái Dương Châu” đã viết tặng cho Đạo Tăng Diệp quán trên núi Lục An, Dương Châu. Nội dung câu đối đã lột tả ý nghĩa, nét đẹp của trà, nước pha trà cũng như đấu trà giữa văn nhân và tăng ni Phật tử.

(2) Lục Vũ

(733 – 804), tự là

Hồng Tiệm

(季疵),[1], xưng

Tang Trữ Ông, tên hiệu khác là Cánh Lăng Tử, Đông Cương Tử, Trà Sơn Ngự Sử. Ông còn có tên khác là Tật, hiệu Quý Tì[1]. Người Cánh Lăng, Phức Châu[1]

thời nhà Đường (nay là thành phố Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc). Ông là người có kinh nghiệm sống phong phú, học vấn sâu rộng, có nhiều sáng tạo trong các lĩnh vực Văn học, Lịch sử, Kí kịch, Âm vận, Phương chí, Thư pháp…Tuy nhiên, ảnh hưởng được người đời sau nói đến nhiều nhất của ông lại là nghiên cứu về trà đạo. Ông suốt đời yêu thích trà, đã viết cuốn sách chuyên nghiên cứu về trà là:

Trà kinh

đây là bộ sách lý luận Trà học chuyên môn đầu tiên trên thế giới. Lục Vũ được người đời sau tôn lên là

Trà thánh, đó là một trong mười vị thánh trong lịch sử Trung hoa

Trà thần Lục Vũ có nói một câu, đã trở thành khuôn vàng thước ngọc cho trà nhân cả ngàn năm nay: “Nhất nước suối, nhì nước sông, ba là nước giếng” (sơn thủy thượng, giang thủy trung, tỉnh thủy hạ). Tác phẩm Trà Kinh cũng nói rằng: lấy nước suối không phải bạ đâu lấy đó, nước từ thác cao đổ xuống đã không được, nước suối ở khúc suối chảy lờ đờ qua đất cát cũng không được. Nước suối tốt nhất phải lấy ở khúc suối chảy trên sỏi, chảy vào hồ đá. Còn nước sông, đây phải là sông ngày xưa, thời chưa bị ô nhiễm như ngày nay, đương nhiên cũng phải lấy ở thượng nguồn, lấy giữa dòng sông, nơi sông không chảy xiết như sắp đến đập, đến thác, phải lấy nước xa nơi người ở. Về nước giếng, thì những giếng thượng hạng thường là giếng của chùa, chùa ở trên núi hoặc ít nhất cũng xa nơi đô hội hỗn tạp.