Bắc Phạt ở
trong vòng nửa
tháng sau khi Hoàn Nhan Lượng chết,
phát động
toàn diện,
lần này do Tiêu Sơn cùng Lý Hiển Trung dẫn
binh,
lấy Lưỡng Hoài là mặt
trận chính.
Ba vạn nhân mã của Trương Chí Hùng Tân Khí Tật cũng đến sát nhập,
do Tiêu Sơn quản lý,
đội quân của Vương Hữu Trực lại
tiến đến Tương Dương.
Lang Yên
(*đốt phân sói làm khói
tín
hiệu)lại một lần nữa cháy lên
tại vùng đất này.
Bắc Phạt giai đoạn đầu,
sĩ khí các nơi
tăng vọt,
trên khắp cả nước đều là
tiếng
hô giành lại quêhương,
mà chiến đấu cũng
hết sức
thuận lợi,
chiến
trận Giang Hoài còn chưa
tới mười ngày,
đã chiếm được một vài
trọng
trấn
(*trấn quan
trọng,
về mặt quân sự)
như Linh Bích,
Hồng Huyền,Túc Châu ven
bờ sông Hoài,
chiến đấu
tiến
hành
thuận lợi như vậy,
lại khiến cho Tiêu Sơn
bất ngờ,
lại càng không nói đến Triệu Viện cùng những người khác.
Triệu Viện lập
tức chỉ
thị Tiêu Sơn cùng các
tướng lĩnh khác nhanh chóng mở rộng
thành quả,nhưng
thời điểm Tiêu Sơn đối mặt với
tình
huống như vậy,
rồi lại cảm
thấy càng
thêm lo lắng,hắn lén lút nói với Đốc quân
tiền
tuyến Ngu Doãn Văn: “Hiện
tại quân Tống
tuy nhiều,
nhưng phần nhiều là kiêu
binh
hãn
tướng
(*binh kiêu ngạo,
tướng. hung
hãn),
thắng liền
trắng
trợn cầu phong
thưởng,
lại còn
hy vọng có
thể
tiến vào
thành cướp
bóc
bốn phía,
tuy rằng đã cố
hết sứchạn chế,
nhưng loại
tư
tưởng này rất không được,
sớm
hay muộn cũng xảy ra chuyện.”
Ngu Doãn Văn
cũng
có
chút
lo
lắng: “Hoàn Nhan Ung đã điều động khẩn
cấp
mười vạn đại quân,lệnh Đại
tướng Hột Thạch Liệt Chí Ninh
chỉ
huy
mười vạn đại quân
tiến đến Túc Châu,
sức
chiến đấu
của
mười vạn đại quân
lần
này
cùng với
thiêm quân
của Hoàn Nhan Lượng
là
hoàn
toàn bất đồng,
lực
lượng
chiến đấu không
thể
nào so sánh
nổi.
Bởi vì
liên
tục
chiến
tranh
loạn
lạc,
triều đình đánh
thuế
rất
nặng,
dân
chúng đã
có
lời oán
thán.
Thật
lo
lắng sẽ xảy
ra
chuyện!”
Tiêu Sơn lo lắng cái gì cái đó đến,
thời điểm
hắn phái đội quân của Thiệu Hoành Uyên đi nghênh chiến Đại
tướng Kim Quốc Hột Thạch Liệt Chí Ninh,
Thiệu Hoành Uyên có chút mất
hứng mà ngầm kích động
bộ
binh: “Trước kia còn là
hoàng mao
tiểu
tử* dưới
trướng
ta,
hiện
tại đã
thành đại soái
thống lĩnh mười vạn
binh mã,
đều là người quen cũ,
vậy mà
ban
thưởng chẳng đượcbao nhiêu!”
(*ý chỉ
tuổi nhỏ k
hiểu lý lẽ (ý
tứ
trêu chọc
hoặc khinh
thường)
Đội quân dưới
trướng Thiệu Hoành Uyên dưới
loại bất
mãn
này
của ông
mà
cảm xúc giảm sút,
bắt đầu phát sinh
hỗn
loạn,
có
một bộ phận binh sĩ
tiến
hành
châm
ngòi,
thậm
chí
cự
tuyệt
tiếp
nhận banthưởng
của
triều đình,
lý do
là phần
thưởng quá ít.
Kim Quốc
thừa
cơ vây
công,
đội quân
của Thiệu Hoành Uyên gần
như
tan
rã
hoàn
toàn,
Túc Châu vừa
chiếm được không quá ba
ngày,
lại bị
cướp
mất.
Thời
điểm
Tiêu
Sơn nghe được tin này, trong lòng cũng không
có quá nhiều cảm giác ngoài ý
muốn,
nhưng lại
khiến cho
hắn
hết sức vui mừng chính là, dưới tình huống toàn quân tan rã
thế này, Lý Hổ
Thần
do mình đề
bạt
lên,
dốc sức chiến đấu ngăn chặn, vớt vát lại
được
không ít
tiền
bạc lương
thực,
lại
còn nhanh
chóng
triệu tập
hội
binh,
tổ chức chống
đỡ, khiến
cho kết quả chiến sự
không đến
nỗi
mất trắng.
Tại Trung
Nguyên, Xuyên Thiểm
nơi quân Tống chiến
đấu,
cũng
gặp phải cùng loại vấn đề
ở trình độ bất
đồng, cũng không có
cái
loại
được
người
người ủng
hộ như phe lạc
quan
của
Trương Tuấn tưởng tượng,
trong
vòng
một
tháng
có thể xuất hiện tình huống thu phục được cố
hương.
Hai bên
rơi vào giằng
co,
căng
thẳng không
thôi,
vừa
lúc đó,
Hoàn Nhan Ung
lại
lần
nữa đưa
tới
thưnghị
hòa,
nguyện ý
thay đổi
một số
hiệp ước bất bình đẳng
trong Thiệu Hưng Nghị Hòa
lúc
trước,đem quân
thần quốc gia đổi
thành quan
hệ
thúc
chất,
của
cải
cống
nạp
hàng
năm
cũng được giảm bớt,
nhưng vẫn yêu
cầu quân Tống
trước
mắt
trả
lại địa bàn Kim Quốc đã
chiếm được
lúc đầu.
Lúc
này điều Tiêu Sơn
lo
lắng
nhất không phải
tình
hình ở
tiền
tuyến,
mà
là
thái độ
của Triệu Viện,hắn
rất
lo
lắng Triệu Viện ở
loại
tình
huống
này
mà đánh
mất
tự
tin,
cho
nên
cố ý ở
lại Kiến Khang
mộtchuyến,
hy vọng
có
thể dùng
hết
tất
cả phương pháp
cổ vũ Triệu Viện,
lại khiến y không
nên
nản
chí.
Nhưng
vượt
ra khỏi dự liệu của
Tiêu
Sơn,
Triệu Viện cũng không giống như trong lịch sử trở
nên
tinh
thần
sa sút bối
rối
hoang
mang, ngược lại càng thêm kiên định với
niềm
tin
trong
lòng.
Triệu Viện đứng
trên
thành lâu Kiến Khang,
nắm
tay Tiêu Sơn,
nói: “Ta đã làm xong chuẩn
bị
bạitrận.
Thất
bại cũng không phải là chuyện gì xấu,
ngược lại còn khiến
ta càng
thêm nhìn rõ
tìnhthế,
đã
biết nhược điểm cùng những nơi cần
thay đổi của quân
ta,
lại khiến
ta
hình
thành được mục
tiêu kế
tiếp!”
Lúc
này,
Tiêu Sơn
thầm
thở phào
nhẹ
nhõm,
hắn
hơi quay đầu,
nhìn
thấy biểu
cảm
trên
mặt Triệu Viện,
căn bản không
có
nửa điểm uể oải
chán
chường
của bại
trận,
ngược
lại,
ánh
mắt y
càng
thêm kiên định,
càng
thêm
tự
tin.
Thời
điểm
đối mặt với thư
thỉnh hòa
của
Kim Quốc,
Triệu
Viện
nghe
theo
đề nghị của Tiêu Sơn cùng Ngu
Doãn
Văn:
Nếu
như quân Kim có
năng
lực
chiếm
được
triều đình của
ta,
thì căn bản sẽ
không
cầu
hòa,
mà là
trực
tiếp
xuất
binh. Bệ
hạ căn bản
không cần
phải
đồng
ý nghị hòa, chiến hay hòa không phải do
Quân
chủ
hai bên quyết định dựa vào một
bản
công
văn,
mà là
quyết định dựa
vào
thực
lực của hai bên.
Ngày đó,
Triệu Viện
cùng Tiêu Sơn
ngẩn
người
trên
thành
lâu
trọn vẹn
một
ngày,
thẳng đến khi
trờichiều
ngã về Tây,
y bỗng
nhiên quay đầu
lại,
nhìn Tiêu Sơn,
dùng giọng điệu quả quyết
nói: “Chỉ
cầncó
ngươi ở bên
cạnh,
ta không sợ bất
luận
thất bại
nào
cả!
Càng không
có bất
luận dao động!”
Thế cục quả nhiên như dự
đoán
của Tiêu Sơn cùng Ngu Doãn Văn, Hoàn Nhan Ung
cũng
không vì
Triệu
Viện
cự tuyệt
đàm phán hòa bình mà
trắng trợn tiến Nam, hiện tại
Kim
Quốc
hỗn loạn,
gã cũng không thể tiến hành xuôi Nam lần
nữa,
chỉ
có thể đóng trọng binh tại hai
quân
giằng co.
Mà Tiêu Sơn cũng thừa dịp này
gấp
rút chỉnh
đốn quân đội, bởi vì
đội
ngũ của Thiệu Hoành
Uyên
tan rã, hắn đã
có lý
do để thay máu
(*tổ
chức
lại,
thiế
t lập
lại)
đội
ngũ lần thứ hai, đem
binh
sĩ tan rã
sắp
xếp vào đội ngũ
của
Tân Khí Tật, lại thỉnh thoảng
khơi
mào xung đột quy mô
nhỏ,
dùng
để diễn tập chiến đấu thực tế,
tăng
cường tố
chất
cùng
năng
lực tác chiến cho đội quân.
Thời
điểm
Tiêu
Sơn tích cực chuẩn bị, Triệu Viện cũng không
dừng
tay,
y cũng không bị
ảnh
hưởng
bởi
phe chủ hòa của
đám
người
Sử Hạo, Triệu
Cấu trong
triều, ngược lại còn
bắt
đầu cải tiến vũ
khí
quy mô lớn, chỉnh đốn kinh tế,
liêm
chính thanh minh, chăm lo việc nước. Y
thậm
chí cũng không
trở về Lâm
An,
mà vẫn một
mực
ở lại
Kiến
Khang, thừa dịp chiến tranh mang đến tổn hại
cùng
hỗn
loạn,
cật
lực đề bạt
một
số quan viên có
biểu
hiện
tốt
vào lúc này, lại giáng chức rất nhiều quan viên chỉ thích nói suông mà
không có
chút
thành
tích.
Loại
cải
cách
này,
trong
thời kỳ
hòa bình dĩ
nhiên sẽ đưa
tới
rất
nhiều vấn đề
cùng suy xét
lợi ích vềmọi
mặt,
thậm
chí
ngay
cả khi đã
nắm được
nhược điểm
của
người
mà bản
thân
muốn xử
lý
cũng phảitrắc
trở đánh
hay không,
gắng sức bày
mưu giở
thủ đoạn
mới
có
thể
làm được,
nhưng
tại
thời kỳ đặcthù
như
thế
này,
tức
thì đơn giản
hơn
rất
nhiều.
Chẳng những
thế,
Tiêu Sơn còn có
thể định kỳ chọn phái đi một vài
tướng lĩnh,
đưa về Kiến Khang
tiến
hành giáo dục,
từ
tố chất lãnh đạo cho đến
tư
tưởng đều cố gắng cải
thiện
toàn diện.
Tại thời điểm Triệu
Viện
tiến
hành
một loạt cải cách và
chỉnh đốn, Hoàn Nhan Ung
của
Kim Quốc cũng không
nhàn
rỗi,
gã vốn chuẩn bị
sau
khi Tống Kim nghị hòa liền hạ
lệnh
chiêu
an (*Gọi
về và
sắp
đặt đời sống cho yên.), giảm bớt thuế má, có
thể khiến
cho dân chúng lưu lạc khắp Trung Nguyên
trở về đồng ruộng làm ăn,
nhưng bởi
vì quân Tống tại biên cảnh không ngừng
khiêu
khích, gã
không dám
rút
đại quân về, muốn duy trì
binh
lực,
tức
thì không
thể không
gia tăng thuế má.
Thời
điểm
này,
chênh
lệch
kinh
tế giữa hai nước Tống Kim bắt
đầu
hiện
ra.
Hai
nơi Giang Nam Tứ Xuyên,
thời kỳ Bắc Tống đã
trở
thành
trung
tâm kinh
tế
của
cả
nước,
Trung Nguyên
trải qua
chiến
loạn,
hiện
thuộc sở
hữu
của Kim Quốc,
vốn
là
nơi
nghèo
túng
lại phải
tăng
thuthuế
má,
ngược
lại khiến
cho
nhiều
người không
ngừng vào
rừng
làm
cướp.
Tại phương
diện
dùng
người, Hoàn Nhan Ung gặp
phải
không ít
khó khăn,
số lượng người
Nữ Chân tương đối ít, phần lớn
đại
thần
giữ chức trong
triều
đều
là người Hán, nhưng
bởi vì Triệu Viện một mực
biểu
hiện
không nghị hòa, chính là
tư thái muốn Bắc Phạt, những
người
Hán
này tâm tư
dao
động,
không biết lúc
nào
quân
Tống
sẽ đánh tới, bản thân có
nên làm Hán gian hay
không, có
nên
góp sức hay không, làm tốt rồi
tương lai
có thể có
một
ngày
bị tính nợ
cũ hay không,
cũng
là một vấn
đề rất lớn.
Bởi vì Tiêu Sơn
tập
trung về cung cấp chế
tạo vũ khí,
quân giám sát
binh khí Tống Triều gần như là mỗi ngày đều có
thành quả mới,
mà vũ khí của Kim Quốc,
ngoại
trừ lấy được
hỏa khí mới*,phần lớn vẫn dừng lại ở
trình độ
trường mâu cung
tên cùng giáp sắt.
(*Nguyên cái câuì thế này除了弄到的新火气的一鳞片抓之外 T^T.)
Theo
thời
gian
chậm
rãi trôi qua, quốc lực
(*
thực
lực q
uốc g
ia)
của hai bên
dưới
loại
tình
huống này, cũng bắt
đầu
chậm
rãi thay đổi. Trong
mấy năm liên tục khẩn trương giằng
co, nhanh
chóng
phát
triển một
nhóm
tướng lĩnh cùng binh sĩ
được
huấn
luyện
thành thục
Năm
năm sau,
Tiêu Sơn ba
mươi
mốt
tuổi,
Triệu Viện
cho
hắn
tạm
thời dời vào
nội
cung Kiến Khang,nghị sự
tại
tẩm
các.
Chỉ đơn
thuần là nghị sự,
Triệu Viện quyết định đem
binh lực cả nước,
giao cho Tiêu Sơn quản quản lý điều động,
lần nữa phát động Bắc Phạt!
Bắc Phạt lần này không còn là
hành động quân sự mạo
hiểm đơn
thuần,
mà là
hai nước so đấuthực lực,
tại
thời điểm mới
bắt đầu,
Tiêu Sơn đánh đến vô cùng khó khăn,
thậm chí còn có
tìnhhuống giành lại được một
thành
trì lại
bị quân Kim chiếm mất,
cứ lấy đi đoạt lại năm sáu lần,trong chiến
tranh,
cũng không phải
tất cả chiến dịch đều là
thắng lợi,
cũng có chiến dịch
thất
bại.
Nhưng
hiện
tại,
đại bộ phận binh sĩ
cùng đại
thần,
đều đối với
thất bại
lặp đi
lặp
lại
này,
đã
có sự
nhậnthức sáng suốt,
thất bại sẽ
nhanh
chóng điều
chỉnh bố
trí
hành động,
lần
nữa xông
lên.
Bắc Phạt
tháng
thứ sáu,
Tiêu Sơn
thống lĩnh năm mươi vạn
binh lực quân Tống,
sau khi
huyết chiến
ba ngày
ba đêm,
một
trận liền giành lại được cựu đô Khai Phong.
Thế trận Trung
Nguyên rất
nhanh đã
thay
đổi,
không
đến
một tháng,
quân
Kim
thất
bại toàn diện,
tin tức các nơi
đều
là thắng lợi, giống
như bông tuyết
hạ xuống bàn Triệu Viện.
Trong những
tin
tức này,
phấn khởi nhất chính là Kim quốc Hoàn Nhan Ung
tỏ vẻ nguyện ý
trả lại Mạt đế* Triệu Hoàn
hiện vẫn còn đang ở Ngũ Quốc Thành – Bắc Tống,
hy vọng
hai
bên có
thể dừng
tay,
lấy
biên cảnh Bắc Tống làm ranh giới,
hai
bên là nước láng giềng,
không còn đòi của cải cống nạp
hàng năm.
(*末帝 Tên gọi của các vị vua mất nước)ĩ
Thời
điểm
Triệu
Viện
nhìn
thấy
Hoàng đế
Kim quốc rốt cuộc buông tha cho yêu
cầu
cống
nạp hàng năm, không
khỏi
cười
ha hả, nói
với
tùy tùng bên cạnh: “Đã bảy tám
năm
không
nạp
rồi,
đây là Hoàn Nhan Ung
biết
không thể
quay
lại,
mới
nói thế này!”
Trong mấy năm này,
Trương Tuấn
bởi vì
tuổi cao,
đã chết
bệnh,
Sử Hạo cũng
bởi vì ra sức chủhòa
bị phong
thành Thái Sư không có
thực quyền,
Tể
tướng
hiện
tại là Ngu Doãn Văn
trong lúc Bắc Phạt giành được uy vọng cùng
thanh danh,
phó
tướng
tham gia chính sự còn lại là Trần Tuấn Khanh được
biết đến là người là cương
trực ngay
thẳng.
Lúc
này Ngu Doãn Văn đang ở bên
cạnh Triệu Viện,
nghe Triệu Viện
nói vậy,
cũng
cười
nói: “Bệ
hạchuẩn bị
lúc
nào
rời đi?”
Triệu Viện sững sờ,
lập
tức
bừng
tỉnh,
chính mình rốt cuộc có
thể
trở về cố đô Biện Kinh rồi.Thời kỳ Tĩnh Khang,
Biện Kinh rơi vào
tay giặc,
thời gian đã qua
ba mươi
hai năm,
một lần nữa giành lại.
Triệu Viện khẽ nâng mắt,
trong điện không có cái người mà
bản
thân muốn nhìn
thấy nhất,người kia có lẽ
hiện
tại đang đóng giữ ở Hà Bắc –
biên giới Tống Kim,
nhưng
bản
thân
hy vọngthời điểm
trở về Biện Kinh,
người kia có
thể đứng ở vị
trí gần mình nhất.
Một
lúc sau Triệu Viện
mới
nói: “Viết
thư
hỏi Chính Bình
một
chút,
xem
hắn
lúc
nào
có
thời gian,
trẫmmuốn
cùng
hắn
trở về
cố đô.”
Ngu Doãn Văn
nghe
thấy
lời
này
của Triệu Viện,
trong
lòng
thở dài,
khom
người
nói: “Thần
tuân
chỉ,sẽ phái
người đến
hỏi Tiêu
tướng.”
Lúc Tiêu Sơn
nhận được
thư
của Ngu Doãn Văn,
đang đứng
tại bình
nguyên
(*đồng bằng)
Hà Bắcnhìn về Yên Kinh*
(*Bắc Kinh
thời
nay)
nơi xa,
cũng
chính
là
thủ đô
thời
hậu
thế.
Thời
đại này Yên Kinh không có
bao
nhiêu
người, bởi vì
từ khi bắt
đầu
thời
kỳ Ngũ Đại, khu
vực
Yên Vân đang bị
Liêu
Quốc
nắm
giữ,
cho đến sau khi
Kim
diệt
Liêu,
tức
thì nhập vào địa bàn
của
Kim Quốc,
mấy trăm năm cũng không thuộc
về Tống.
Nhưng
thời
điểm
Tiêu
Sơn
đứng
ở bình nguyên Hà Bắc, tuy
rằng
nhìn
không tới
thành trì
Bắc
Kinh,
nhưng chỉ
cần
nhìn
về phía kia, trong lòng liền có một
loại
xúc
động
cùng
tình
cảm kỳ lạ.
Kiếp
trước
của
hắn
từ đi
lính,
đến được đề bạt*,
đến sau
này khi
tiến vào đại
học Quốc phòng,
đều ở Bắc Kinh.
Trong
cảm
nhận
của
hắn,
nơi đây
mới
thật sự
là
thủ đô
cùng
trái
tim.
Hắn
thậm
chí
có
thể
nhớlại,
tào phớ Bắc Kinh
cùng
con
người và
mùa xuân ở Vương Phủ Tỉnh*.
Những ký ức
này đã sớm đóng
chặt
trong
trí
nhớ
của
hắn,
nhưng
hiện
tại
rồi
lại vô
tình ùa
ra.
Hắn
hiểu được Yên Kinh
lúc
nàycùng
hậu
thế
là
hoàn
toàn khác
nhau,
nhưng
hắn vẫn
có
thể phác
họa
ra khung
cảnh
của Trường Thành,
Bát Đại Lĩnh,
Sơn Hải Quan
một
cách
rõ
ràng.
(*Nguyên văn là 提干nói chung là trong lúc làm lính có biểu hiện xuất sắc nên sau khi tốt nghiệp đc cử đi học ở viện quân sự.)
(**Là một trong những phố mua sắm nổi tiếng nhất của Bắc Kinh. Vào thời nhà Thanh, 8 khu nhà quý tộc và công chúa đã được xây ở đây sau khi một giếng nước ngọt đầy nước được phát hiện ở đây, do đó tên phố là “Vương Phủ” (nơi ở của bậc vương) và “Tỉnh” nghĩa là “giếng”.),
Tiêu
Sơn có chút sững sờ,
năm
đó mộng tưởng khi xuyên qua thời không này,
hôm nay đã
thực
hiện
được, nhưng không biết vì cái
gì,
lại càng cảm thấy bất an.
Có lẽ là
nghĩ
tới mấy chục năm sau
– Thành Cát Tư
Hãn
càn quét đại lục Á Âu, có
lẽ là nghĩ đến
lịch
sử ô
nhục
của
Trung
Quốc
cận
đại,
hoặc
có lẽ
là nghĩ tới đủ
loại
sự tình của Thiên Triều,
hắn
cũng
không
rõ lắm. Chẳng
qua là hắn
thích đứng trên thành lâu Chân Định, nhìn về
phương Bắc tưởng như quen thuộc rồi lại
là nơi chưa từng đặt chân đến
trong thế
giới
này.
Ngũ Loan
nhận được
thư
của Ngu Doãn Văn,
chờ đến khi y
leo
lên
thành
lâu,
đi
tìm Tiêu Sơn,
thấychính
là
một
cảnh
như vậy.
Tướng quân một
thân
thiết giáp
hôi
bào
(*áo choàng màu
tro),
tay vịn
thành lâu lạnh lẽo,
bất động nhìn về phương Bắc,
giống như một pho
tượng
trong ánh
trời chiều.
Ngũ Loan đi qua: “Tướng quân,
triều đình
có
thư.”
Ban đầu Tiêu Sơn không quen xưng
hô kiểu này,
nhưng đã nhiều năm như vậy,
hắn đối với xưnghô này đã không còn xoắn xuýt như lúc
trước,
hắn cũng không quay người,
chỉ
hỏi: “Viết gì?”
Ngũ Loan
nói: “Bệ
hạ
hỏi
người,
lúc
nào
có
thời gian,
quay về Kiến Khang
một
chuyến,
triều đìnhchuẩn bị dời đô đến
cựu kinh.”
Tiêu Sơn ừ một
tiếng,
gật đầu,
khóe môi
băng lãnh dần
hòa
tan,
hơi nhếch lên,
một nụ cười
hiện lên
trên mặt
hắn.
Đã mấy
tháng chưa nhìn
thấy Triệu Viện rồi,
trong lòng rất nhớ y.
Đến bây giờ Tiêu Sơn
cùng Triệu Viện đã
cùng
nhau bảy
tám
năm
rồi,
lúc
trước
thời điểm
chỉ
cầnnghĩ
tới Triệu Viện
liền
có
loại xúc động
muốn đè y xuống
như
thế
nào
cũng áp
chế không
nổi,
rốtcuộc đã
chậm
rãi
nhạt đi,
nhưng
lại
nhiều
hơn
một phần ấm áp
cùng
lo
lắng,
những
năm
này
chínhmình vẫn
luôn không
có
nhà,
thời điểm
nhìn
thấy
người
chung quanh
lần
lượt kết
hôn,
con
cái
thànhhàng,
Tiêu Sơn
có
chút
hâm
mộ,
nhưng
chỉ
cần vừa
nghĩ
tới Triệu Viện,
liền
cảm giác
chỉ
cần
có
thể ở bên
cạnh y
là đủ,
che
chở bảo vệ y,
là kết
cục
tốt
nhất
của
mình.
Triệu Viện
hôm nay,
kết cục khẳng định
bất đồng với cái người uất ức mà chết
trong
thâm cung của lịch sử.
Đương nhiên sẽ khác,
Triệu Viện Bắc Phạt
thành công,
đoạt lại được cựu kinh,
cho dù mình đi đâu đến đâu,
nghe đều là lời
tán
thưởng
từ
tận đáy lòng của dân chúng cùng
binh sĩ,thậm chí còn có người dựa vào chuyện Triệu Viện là con cháu của Triệu Khuông Dận
(*赵匡胤),biên ra không ít chuyện
thần
thoại cùng
truyền kỳ.
Hiện
tại Triệu Viện nói một câu,
lập
tức
trởthành
thánh chỉ,
không người nào dám cãi lời,
cũng không có ai muốn cãi lời.
Uy vọng của y
trong mấy đời Tống Đế,
trở
thành Thánh Minh
(* sáng suốt như thánh)
Thiên
tử chân chính
trong miệng dân chúng.
Chỉ cần nghĩ đến
bốn chữ “Thánh Minh Thiên Tử”,
cũng có một phần công lao của mình,
Tiêu Sơn liền không nhịn được
hơi cong khóe miệng.
Chỗ nào có y,
nơi đó là nhà.
Tiêu Sơn không ở lại Chân Định quá lâu,
đến đêm liền dẫn nghìn kỵ
binh
trở lại Kiến Khang,
dọc đường đi cũng không đi quá nhanh,
thậm chí có cơ
hội còn nhìn ngắm phong cảnh xung quanh.Hắn cũng không nóng nảy đi gặp Triệu Viện,
bởi vì về sau
hai người sẽ còn rất nhiều rất nhiềuthời gian.
Mười
ngày sau Tiêu Sơn đến Kiến Khang,
sau khi gặp
mặt Triệu Viện,
liền ở
lại
tẩm
các.
Loại
chuyện
này
cũng không phải
lần
một
lần
hai,
đã đến
tình
trạng
này,
hai
người
cũng không
còn
cố kỵ
thân
tín bên
cạnh
nữa
rồi,
Tiêu Sơn ôm Triệu Viện,
ôn
nhu
hôn y,
dùng phương
thức
cùng
tiết
tấu khiến đối phương vui
thích,
chậm
rãi
ra vào.
Cho dù Tiêu Sơn
hiện
tại đã không đến
mức
lập
tức bắn,cũng không
còn giày vò suốt đêm vẫn không
mệt
mỏi,
nhưng
thời điểm
hắn ôm Triệu Viện,
cảmthấy
tình
cảm không
hề giảm sút,
ngược
lại
càng
thâm sâu,
phảng phất giống
như
loại
rượu
cất
lâunăm,
mặc dù không kích
thích giống
rượu
mạnh
cay
nồng,
nhưng
lại khiến
người
ta
càng
thêm say
mê yêu
thích không buông
tay.
Ba ngày sau cỗ kiệu của Triệu Viện chính
thức khởi
hành,
bởi vì là dời đô đến cựu kinh,
đội ngũtrùng
trùng điệp điệp,
chỉ là đội ngũ cầm cờ,
đã
trên vạn người,
càng không cần phải nói đến rất nhiều quan viên cùng
hậu cung nữ quyến,
còn có
thân là Thái
thượng
hoàng Triệu Cấu nữa.
Lần
này khởi
hành
trọn vẹn
một
tháng,
mới đến Biện Kinh.
Thời
điểm
đến Biện Kinh,
đúng
vào buổi sáng mùa xuân tháng ba, quan viên thành Biện Kinh đã sớm
nhận
được
tin
Hoàng
đế dời đô, Hoàng cung tại Tĩnh Khang trong thời kỳ chiến hỏa đã
bị hư
hại
rất nhiều,
không còn
chút
bóng
dáng
của
ngày
xưa,
nhưng
về sau khi Hoàn Nhan Lượng xâm lược phía Nam
đã từng phung
phí tu sửa
qua
một lần, so với
Hoàng cung Bắc
Tống
thì
càng thêm
tráng
lệ.
Triệu Viện
trong
tiếng
hô của
bách quan cùng dân chúng
hai
bên đường mà
tiến vào Hoàng cung,
Thái Cực Điện vang
tiếng
tấu nhạc,
Triệu Viện đội miện quan mặc áo
bào
thêu nhật nguyệt
thập nhị
hoa chương*,
đứng
trong đại điện,
tiếp nhận cái lạy của vạn dân,
y đã sớm không còn
bộ dạng của
thiếu niên năm đó,
Triệu Viện
ba mươi
hai
tuổi
thoạt nhìn càng
thêmtrầm ổn,
trên mặt
hiện ra
thần sắc kiên nghị.
Duy chỉ có ánh mắt của y,
thời điểm rơi vào người Tiêu Sơn đang đứng
trước đội ngũ,
trong đó là ôn nhu cùng quyến luyến,
giống như
trước kia.
(Trung Quốc xưa trên lễ phục của đế vương cùng quan viên bậc cao có thêu mười hai loại hoa văn trang trí.)
“Các khanh
bình
thân!”
Giọng nói uy nghiêm của Triệu Viện vang vọng khắp đại điện,
“Đại Tốngta có
thể giành lại cố đô,
nỗi nhục được rửa sạch,
là niềm vui của quốc gia.
Bắt đầu
từ
hôm nay nghỉ
ba ngày,
không cần
tảo
triều!”
Cùng ngày,
Triệu Viện giống như những
bậc đế vương
trước kia của Đại Tống,
duyệt
binh vùng ngoại ô,
Tiêu Sơn dẫn
hai mươi vạn đại quân đóng
trong Kinh,
theo
thứ
tự đi đến
trước mặt Triệu Viện,
hô vạn
tuế,
quân uy
hùng dũng,
vô cùng chói mắt.
Ngày
hôm sau
là
hưu
mộc,
Triệu Viện sai
người
truyền Tiêu Sơn vào
cung,
hai
người sóng vai,
dưới gốc
liễu
trong Hoàng
cung Biện Kinh,
mắt
hướng về
nhau,
thái giám
cung
nữ
chung quanh đều
thứcthời
lui
ra,
để
cho
hai
người không gian
riêng.
Hai
người
liền
hôn
môi dưới ánh
mặt
trời
ngày xuân,
xung quanh
là
mùi
hoa
thơm
ngát,
tiếng
chim êmtai,
nụ
hôn
này phá
lệ
ngọt
ngào,
dù
có
ngàn
lần vạn
lần
cũng không
chán ghét.
Tiêu
Sơn dùng mũi mình cọ
cọ mũi Triệu Viện:
“Viện
Viện, ta
yêu ngươi!”
Triệu Viện vẫn mỉm cười như cũ,
lúc này đây y không giống như những lần
trước,
dùng “Ta
biết,ngươi đã nói rất nhiều lần rồi”
để
trả lời,
mà là sau khi nhìn Tiêu Sơn một lúc lâu,
trịnh
trọng nói: “Ta cũng yêu ngươi!”
Hai
người ôm
nhau
thật
chặt,
nụ
hôn dường
như vĩnh viễn sẽ không đứt đoạn.
Tiêu
Sơn cảm thấy Triệu Viện trong
ngực
hôm nay đặc biệt đẹp, hắn
theo
môi
Triệu
Viện
hôn
thẳng
một
đường
xuống dưới, bắt đầu
mở ra đai
lưng
của
đối phương.
Nhưng
rồi
vào lúc đó, sau
bóng
cây
bỗng
truyền đến
một
tiếng
ho khan,
Tiêu
Sơn cùng Triệu
Viện
đều giật mình,
cùng
nhau
nhìn
qua,
đã thấy một người mái tóc
hoa
râm bước ra.
Không phải
ai khác,
chính
là
người vừa
cùng Triệu Viện
trở
lại
cựu kinh,
trở
lại
chốn
cũ – Thái
thượnghoàng Triệu Cấu.