Trời trong gió mát, mây che đỉnh núi.
Ngoại ô Biện Lương, bãi đi săn Tây Sơn cheo leo trên ngọn Thương Tùng chót vót, núi non trùng điệp, thấp thoáng sau tầng mây mờ ảo.
Trông về nơi ấy sẽ thấy cờ xí bay phấp phới, cấm vệ quân nghiêm trang đứng vây, hoàng đế Nhân Tông mặc cẩm y bằng nhung, thắt lưng đeo bảo đao dát vàng, trên lưng mang trường cung cùng túi tên, hiên ngang ngồi trên tuấn kỵ. Dù không mặc long bào kim quan chói mắt ngày thường, nhưng thế lại càng tăng thêm mấy phần anh vũ tuấn dật.
Thị vệ đã sớm thả chó săn, chim ưng ra, một con gà lôi kêu phác lên, Nhân Tông giương cung bắn về phía phát ra tiếng kêu, gϊếŧ chết nó.
Sứ thần Hạ Từ Úc ngồi trên ngựa nói mấy câu bằng tiếng Tây Hạ, Liễu Uy vội cười bẩm lại với Nhân Tông. “Vạn tuế, sứ Hạ khen ngợi tài bài cung tài tình của ngô hoàng đấy ạ.”
Nhân Tông mỉm cười, gật đầu nói. “Khanh hỏi xem trẫm đã đủ xứng với bảo đao chưa?”
Liễu Uy cười nói. “Trừ vạn tuế ra, thiên hạ không còn ai xứng với đao này.”
Đương nói chuyện thì thị vệ đem gà lôi về đưa cho Nhân Tông xem, ngài gật đầu rồi giơ roi thúc ngựa vào sâu bên trong núi hơn. Lần săn thú này là thuận theo lời mời của sứ thần Tây Hạ, cũng tiện để tỏ rõ uy nghĩ của Đại Tống thiên triều, Nhân Tông trong lòng vô cùng hứng chí, vốn đang ở độ tuổi bay nhảy của thiếu niên, lại bị giam cầm nơi thâm cung, suốt ngày đối mặt với chính sự, khó tránh khỏi những lúc mệt mỏi chán chường, hiếm mới có dịp rời cung ngao du như vậy, nhất định phải tận hưởng.
Nhân Tông giục ngựa theo đường núi phi nhanh, lại có chó săn đuổi gà núi, hươu rừng ra khỏi chỗ trú, dễ dàng cho việc giương cung bắn, con mồi thu được cứ thế chất cao, cấm quân bốn phía cũng không ngừng lớn tiếng cổ vũ. Sứ thần Tây Hạ cũng tham gia, bắt trúng vài con thú nhỏ như thỏ rừng chẳng hạn, có điều từ đầu đến cuối trầm mặc ít nói, cũng không lấy làm hào hứng lắm. Có khi là bởi bất đồng ngôn ngữ, ngoại trừ thấp giọng trao đổi vài câu với Liễu Uy ra, còn lại không nói với ai câu nào.
Nhân Tông rong ruổi gần hai giờ trong núi, hứng thú còn chưa hết, Liễu Uy liền nhân cơ hội tiến lên nói. “Vạn tuế, cứ đi thẳng đường này về phía đông là Tỳ Bà Cốc, năm xưa khi thần ở kinh thường xuyên đến đó săn thú, tìm được rất nhiều loại thú lớn như lợn, hoẵng.”
Nhân Tông nghe thế vui vẻ hỏi lại. “Ồ? Tỳ Bà Cốc ở cách đây xa không?”
Liễu Uy vội đáp. “Hồi vạn tuế, cùng lắm chỉ mấy dặm đường núi mà thôi.”
Nhân Tông gật đầu nói. “Đã vậy trẫm muốn tới Tỳ Bà Cốc một chuyến, khanh đi thông báo đi.”
Liễu Uy nói vội. “Vạn tuế, cốc này có tên như vậy là bởi hình dáng rất giống cây đàn tỳ bà của mình, lối vào khá nhỏ hẹp, chỉ sợ đại quân không qua được. Chi bằng để thần dẫn một đội thân binh theo cùng vạn tuế và sứ Hạ. Không biết ý vạn tuế ra sao?”
Nhân Tông suy tư trong một chốc rồi nói. “Cũng được, khanh hãy chọn ra hai mươi lính tinh nhuệ theo trẫm tới Tỳ Bà Cốc.”
Liễu Uy khom người. “Thần tuân chỉ.”
Ít lâu sau, thuộc hạ của Liễu Uy là phó tướng Hàn Thuận dẫn một đội binh tới tham kiến Nhân Tông. Hàn Thuận quỳ trước ngựa, cao giọng nói.
“Thần Hàn Thuận tham kiến vạn tuế.”
Nhân Tông ngồi trên ngựa, thấy những binh lính này đều khôi ngô anh hãn, gật đầu nói. “Được!”
Dứt lời vung tay quất ngựa, vội vã hướng về phía đông.
Mọi người chạy như bay trên đường núi, thoáng chốc đã thấy con đường độc đạo hẹp dẫn vào trong sơn cốc, hai bên là vách đá cao sừng sững. Nhân Tông giục ngựa chạy vào, được một quãng, con đường nhỏ hẹp mở ra trước mắt một quang cảnh rộng lớn, bốn phía thấp thoáng rặng núi xanh bao bọc, xa xa ánh mây lơ đãng bắc ngang. Quả là một nơi vô cùng đẹp.
Liễu Uy thúc ngựa tiến lên nói. “Vạn tuế, đây chính là Tỳ Bà Cốc.”
Nhân Tông gật đầu. “Trẫm thật không ngờ là ngay cạnh thành Biện Lương còn có một nơi tuyệt cảnh đến vậy.”
Nói rồi cho ngựa chậm rãi đi sâu vào cánh rừng của cốc, sứ Hạ cũng theo sát phía sau. Trong rừng thật yên tĩnh dễ chịu, văng vẳng tiếng chim chóc líu lo, cùng tiếng suối róc rách đằng xa. Nhân Tông cao hứng săn mấy con gà cảnh, thỏ hoang, trong lòng vô cùng thích thú. Đột nhiên nhớ lại thì không thấy sứ thần Tây Hạ đâu nữa rồi.
Nhân Tông ghìm cương hỏi. “Liễu Uy! Khanh có thấy sứ thần đâu không?”
Liễu Uy, vốn vẫn theo sát sau lưng Nhân Tông, đáp. “Sứ Hạ bảo rằng mới thấy một con hoẵng chạy qua nên muốn đuổi theo.”
Nhân Tông nhíu mày. “Có thân binh nào theo không?”
Liễu Uy đáp. “Xin vạn tuế an tâm, có phó tướng của thần là Hàn Thuận đi theo rồi ạ.”
Đúng lúc đó, bụi cỏ phía trước đột nhiên vang tiếng sột soạt, cành lá lay động. Liễu Uy vội nói.
“Vạn tuế! Nhất định là con hoẵng mà sứ Hạ đang đuổi đây!”
Nhân Tông nổi hứng muốn săn, cho ngựa lặng lẽ đi tới, nín thở tập trung tinh thần chuẩn bị bắn. Đột nhiên lùm cây lay động, một thứ gì đó sáng loáng bay vọt ra. Ngài hốt hoảng, mặt mày biến sắc, theo bản năng nghiêng người né tránh. “Phập” một cái, một mũi tên cắm thật sâu vào thân cây sau lưng ngài.
Nhà vua kinh hoàng, cao giọng hô. “Có kẻ hành thích! Người đâu, hộ giá!”
Lúc này sau lưng vang lên tiếng “keng” dài của kiếm rút ra khỏi vỏ, Nhân Tông quay đầu nhìn, ra là Liễu Uy vẫn đi theo mình từ đầu tới giờ.
Ngài vội nói. “Liễu Uy! Có người hành thích! Mau…” Chưa kịp nói xong đã thấy bảo kiếm trong tay Liễu Uy giơ lên cao, rồi đột ngột chém về phía mình.
Nhân Tông thất kinh, trong tay bây giờ chỉ có cây cung gỗ, hoàn toàn không thể ngăn được lưỡi kiếm kia. Chính vì thế, trước khi nó có thể chạm tới đích, trong lúc hốt hoảng, ngài liều mạng nhảy né khỏi ngựa. Đường kiếm lia ngang cổ con ngựa, khiến nó chồm người lên, hí vang đau đớn rồi ngã vật xuống chết. Ngài kinh ngạc nhìn Liễu Uy, giận dữ nói.
“Liễu Uy… Ngươi, ngươi dám mưu nghịch hành thích!”
Liễu Uy cầm kiếm nhảy xuống ngựa, bước tới mấy bước. Lúc này, ở bụi cỏ trước mặt có tiếng loạt xoạt vang lên, Hàn Thuận tay cầm nỏ từ từ bước ra, mũi tên khi nãy quả nhiên là do gã bắn. Liễu Uy cười lạnh lùng, nói.
“Vạn tuế, vi thần chọn chỗ yên tĩnh này làm nơi an nghỉ, không biết có vừa lòng người không?”
Nhân Tông dù gặp biến bất ngờ, nhưng dẫu sao vẫn là quân chủ đương triều, nhanh chóng ổn định lại tinh thần, nghiêm nghị chất vấn. “Ngươi cố ý dẫn trẫm đến chỗ thâm sơn cùng cốc này?”
Liễu Uy mỉm cười, gật đầu. “Đúng vậy.”
Nhân Tông lạnh lùng nói. “Ngươi đặc biệt chọn nơi địa thế hiểm yếu này để cho cấm vệ quân không cách nào theo được!”
Liễu Uy nói. “Không sai. Lối vào Tỳ Bà Cốc rất hẹp, lại ít người lui tới, đến lúc cấm vệ quân biết mà chạy đến đã là quá muộn rồi. Huống chi bọn họ căn bản sẽ không hay biết gì hết.”
Nhân Tông giận dữ nói. “Lớn mật lắm, Liễu Uy! Ngươi dám mượn danh hiến đao để cấu kết với Tây Hạ mưu toan hành thích trẫm ư!”
Liễu Uy rất bình tĩnh nói. “Chính xác, thần đã mưu thông với nước địch, lên kế hoạch hành thích. Chỉ có điều, đến lúc này hoàng thượng mới biết thì cũng muộn rồi.”
Nói rồi bàn tay khẽ động, mũi kiếm nhằm thẳng cổ họng Nhân Tông.
Nhân Tông dù không giỏi võ công nhưng lúc ở trong cung có cùng thị vệ thân cận học chút công phu, nếu dùng để đối phó với người bình thường cũng không quá khó khăn gì. Nhưng Liễu Uy xuất thân con nhà võ, lại còn là tướng lĩnh cầm quân nơi sa trường, võ công không hề tầm thường, Nhân Tông sao là địch thủ được. Cố gắng ứng đấu mấy chiêu đã hoảng loạn, hơn nữa sức lực không cân bằng, đỡ đòn thôi đã chật vật rồi, nói gì tới đánh trả.
Liễu Uy những tưởng có thể một kiếm lấy mạng Nhân Tông, ai ngờ lại kéo dài đến mấy chiêu, trong lòng cũng thấy lo lắng. Có điều võ công của Nhân Tông cách Liễu Uy rất xa nên dù lo cũng không đủ sợ, cười lạnh nói.
“Vạn tuế, có giãy giụa thế nào cũng khó thoát khỏi cái chết, chi bằng ngoan ngoãn chấp nhận có phải hơn không?”
Nhân Tông thấy kiếm thế thay đổi, hung hãn gấp bội, trong lòng càng thêm kinh hoàng. Trên người ngài giờ ngoài bảo đao nạm vàng ra không còn thứ gì có thể ứng chiến, vội vàng lui về sau hai bước, đưa tay muốn rút đao ra. Nhưng bất luận có ra sức đến cỡ nào cũng không làm đao nhúc nhích tí ti.
Liễu Uy cười chế giễu. “Sao thế, vạn tuế? Sợ đến mức ngay cả một thanh đao cũng không rút ra nổi?”
Nhân Tông tức giận. “Ngươi đã ra tay phá hoại đao?!”
Liễu Uy không đáp, mũi kiếm thay đổi, nhằm vào cổ họng của Nhân Tông. Ngài mau chóng né người, trường kiếm của Liễu Uy cứ thế đuổi theo, bây giờ là tới ngực. Nhân Tông trong lúc cấp bách giơ Đao Nạm Vàng lên đỡ, không ngờ nội lực trên kiếm mạnh đến nỗi khiến cả cánh tay tê rần, ngã xuống đất, mắt nổ đom đóm, tai ù cả đi.
Hàn Thuận đứng một bên nhìn, thấy Nhân Tông đã ngã xuống không thể đứng dậy, vội cầm nỏ lên nhằm vào chỗ chí mạng trên ngực mà bắn. Chợt có gì đó bay vυ't qua không trung, theo sau đó là tiếng kêu thảm thiết phá vỡ sự yên tĩnh của núi rừng. Liễu Uy quay đầu nhìn lại, đã thấy Hàn Thuận ôm tay kêu la thảm thiết, máu chảy ròng ròng từ chỗ bị ám tiễn cắm vào. Cái nỏ trong tay rơi vào trong bụi cỏ dưới chân.
“A!”
Đột nhiên một cơn gió mát thổi nhẹ qua, mang theo tiếng xào xạc khẽ vang. Liễu Uy thấy trước mắt hoa lên, một lam ảnh bay vụt qua, linh động như mèo, nhanh nhẹn như yến.
Nhân Tông và Liễu Uy không hẹn mà cùng kêu lên.
“Triển hộ vệ!”
“Triển Chiêu?!”