Đông Kinh Biện Lương, phủ Khai Phong
Ánh thu nhạt màu, sương sớm lành lạnh.
Trong thư phòng của mình, phủ doãn Bao Chửng chắp tay đi đi lại lại hồi lâu, chân mày trầm tư cau lại.
Chợt thấy Vương Triều bước nhanh vào, khom người bẩm báo. “Đại nhân, Liễu tướng quân đến.”
Đôi mắt Bao Chửng ánh lên, xoay người nói. “Mau mời vào!”
Lát sau, có một vị võ quan hùng dũng bước vào. Người này áng chừng ba mươi, mũ trụ sáng loáng, vừa mạnh mẽ cũng vừa uy vũ, chính là vị tướng đã hộ tống sứ thần Tây Hạ từ biên quan vào kinh đô Đại Tống — Liễu Uy.
Liễu Uy nhìn thấy Bao Chửng thì chắp tay thi lễ nói. “Bao đại nhân, ngưỡng mộ đã lâu.”
Bao Chửng vội đáp lễ, cười nói. “Liễu tướng quân hộ tống sứ thần Tây Hạ vào kinh, khổ cực nhiều rồi.”
Liễu Uy nghe thế cười đáp. “Mạt tướng là bề tôi của Đại Tống, đã ăn bổng lộc của vua thì phải tận trung báo đáp, sao có thể nói khổ cực được.”
Chủ khách cùng ngồi xuống, nha dịch nhanh chóng dâng trà hương lên. Bao Chửng nâng chén, cười nói.
“Bao Chửng mạo muội mời tướng quân tới đây bởi có chút chuyện muốn hỏi thăm tướng quân.”
Liễu Uy khom người nói. “Không dám… Bao đại nhân, mời nói.”
Bao Chửng gật đầu, hỏi. “Tướng quân phụng mệnh hoàng thượng hộ tống sứ thần vào kinh, trên đường có gặp phải biến cố nào không?”
Liễu Uy giật mình nói. “Quả thực trên đường hộ tống, mạt tướng có gặp hiểm cảnh. Không biết làm sao Bao đại nhân lại biết?”
Bao Chửng đáp. “Mấy ngày trước từng có một người bị trọng thương đến trước cửa phủ Khai Phong đánh trống kêu oan, nói rằng có người muốn cướp bảo đao mà Tây Hạ hiến cho Tống triều.”
Liễu Uy nghe vậy đứng bật dậy, kêu lên. “Bao đại nhân! Người đó hiện đang ở đâu? Có thể cho mạt tướng gặp được không?”
Ánh mắt Bao Chừng hạ xuống. “Tướng quân có biết người đó?”
Liễu Uy thở dài. “Đại nhân, thật không dám giấu. Trên đường hộ tống sứ thần, mạt tướng đã đυ.ng độ với một nhóm người bịt mặt muốn cướp bảo đao, thủ hạ thương vong nghiêm trọng. Chính vì thế mạt tướng đã liều mạng phá vòng vây cho phó tướng Đỗ Thịnh thoát ra đi trước tới kinh thành báo tin. Sau khi Đỗ Thịnh rời đi, những binh sĩ còn lại tử chiến tới cùng. Trong lúc nguy cấp tưởng như cùng đường thì thủ lĩnh của lũ cướp kia vô tình chạm phải cơ quan ẩn trên hộp đựng đao, khiến bọn chúng bị tên bắn chết không ít, nhờ thế mới từ chết tìm được đường sống. Theo mạt tướng suy đoán, người đánh trống kêu oan mà Bao đại nhân đã nhắc đến chính là Đỗ Thịnh.”
Bao Chửng nghe xong gật đầu nói. “Nếu vậy, tướng quân gặp rồi sẽ biết.”
Dứt lời sai Vương Triều dẫn đường cho Liễu Uy đến chỗ khám nghiệm tử thi. Người kêu oan kia dù đã chết được mấy ngày nhưng do được bảo quản bằng dược liệu nên diện mạo vẫn như lúc ban đầu.
Trương Long, Triệu Hổ nâng nắp quan tài lên, Liễu Uy vừa thấy đã đau khổ nhắm mắt lại, thở dài mà nói.
“Người này chính là huynh đệ vào sinh ra tử của mạt tướng – Đỗ Thịnh.”
Bao Chửng nói. “Bản phủ sau khi suy đoán ra mọi chuyện đã từng muốn đến gặp thánh thượng xin cho người tìm hiểu xem đao có bị cướp không. Ai dè trước đó đã nghe tin tướng quân hộ tống sứ thần vào kinh.”
Liễu Uy cố nén đau buồn nói. “Sau khi vào kinh, mạt tướng đã đi hỏi thăm tung tích của Đỗ Thịnh. Không ngờ cậu ấy lại bị kẻ xấu hãm hại.”
“Không biết tướng quân gặp toán cướp đó ở đâu?”
“Dốc Thạch Hạp ở huyện Định Nghĩa.”
“Tướng quân có tra ra lai lịch của bọn cướp?”
“Bọn chúng mặc quần áo đen, che kín mặt mũi, cũng không hề tiết lộ chút lai lịch nào.”
Bao Chửng gật đầu nói. “Vậy ư. Dẫu sao bảo đao vẫn bình an vô sự, ít ra trong cái rủi có cái may.”
Liễu Uy thở dài. “Bao đại nhân nói phải.” Đoạn đứng dậy thi lễ. “Mạt tướng còn phải trở về hành quán bàn việc vào cung gặp thánh thượng với sứ thần. Không biết có thể đi được chưa?”
Bao Chửng gật đầu. “Bản phủ không dám làm trễ nải công vụ của tướng quân. Người đâu, tiễn Liễu tướng quân.”
Vương Triều lĩnh mệnh, tiễn Liễu Uy rời phủ.
Đợi đến lúc Liễu Uy đi xa rồi, Công Tôn Sách mới từ từ bước ra khỏi phòng khám nghiệm tử thi. “Đại nhân, sao rồi?”
Bao Chửng khẽ lắc đầu, vẻ mặt nghiêm trọng, trầm ngâm nói. “Dốc Thạch Hạp ở huyện Định Nghĩa…”
Công Tôn Sách nói. “Huyện Định Nghĩa thuộc vùng quản hạt của Phụng Ninh quân tiết độ sở Kinh Tây, cách Biện Kinh cũng không xa lắm.”
Bao Chửng suy tư nói. “Đấy chính là điều khiến bản phủ khó hiểu nhất. Bọn chúng nếu muốn cướp đao, sao không chọn chỗ hẻo lánh mà lại ra tay ở một nơi khá gần Khai Phong như huyện Định Nghĩa.”
Công Tôn Sách nói. “Có khi dốc Thạch Hạp kia địa thế hiểm trở, thuận lợi cho việc ẩn nấp, tập kích bất ngờ?”
“Chắc vậy…” Bao Chửng trầm tư hồi lâu, đột nhiên như nhớ ra gì đó, hỏi. “Công Tôn tiên sinh, có tin tức gì của Triển hộ vệ chưa?”
Công Tôn Sách lắc đầu. “Hỏi thăm nhiều ngày, không vẫn hoàn không.”
Bao Chửng lo lắng nói. “Triển hộ vệ nếu sức khỏe vẫn bình thường, bản phủ cũng chẳng bận tâm nhiều. Có điều, cậu ta hiện đang yếu đến vậy, làm sao có thể tự vệ đây?”
Công Tôn Sách khuyên giải. “Đại nhân cũng không cần phải quá ưu sầu. Triển hộ vệ là người tốt, ông trời nhất định phù hộ, có nguy nan gì cũng hóa thành không.”
Bao Chửng thở dài, nhắm mắt lại. “Thực mong là vậy. Bản phủ thà giảm thọ mười năm còn hơn để cậu ta có chuyện gì.”
Công Tôn Sách nói. “Đại nhân nghỉ ngơi chút đi. Sáng sớm mai còn phải cùng thánh thượng tiếp đón sứ thần Tây Hạ.”
Bao Chửng gật đầu nói. “Tiên sinh đi nghỉ trước đi. Bản phủ còn muốn ngồi đây chút nữa.”
—
Gió thu lành lạnh, ánh đèn tàn cất tiếng dài than thở.
Cố nhân tri kỷ nay nơi nao, dẫu có đêm thanh hóa ưu sầu.
Cung vàng điện ngọc, mái ngói chạm thiên.
Lâu đài hoa lệ, điện các cao ngất, uy nghiêm như cung cấm của ngọc hoàng.
Cửa thụy quỳnh ai, hương khí hòa hợp, quả không hổ nơi ở đế vương nhân gian.
Thiên tử lâm hiên, chúng khanh hướng quỳ, uy nghiêm chỉnh túc.
Liễu Uy quỳ trước điện vàng, tấu. “Thần tướng thủ biên quan Liễu Uy, tham kiến Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.”
Nhân Tông gật đầu nói. “Miễn lễ bình thân. Liễu Uy, khanh hộ tống sứ thần vào kinh có thể nói là công cao lao khổ.”
Liễu Uy vội nói. “Vạn tuế quá khen, thần không dám nhận.”
Nhân Tông mỉm cười nói. “Khanh không cần quá khiêm tốn. Trẫm mới nghe Bao khanh nói, trên đường hộ tống, khanh đã bị kẻ xấu tập kích, liều chết chiến đấu, bảo hộ sứ thần an toàn vào kinh.”
Liễu Uy hồi bẩm. “Thần quả thực có bị đánh úp bất ngờ tại dốc Thạch Hạp, huyện Định Nghĩa, may thờ thiên tử nhân ân, tướng sĩ liều chết gϊếŧ giặc, mới có thể bình an vượt qua kiếp nạn.”
Nhân Tông nói. “Sứ thần bình an vào kinh, đỡ được nạn binh đao hai nước. Các khanh dĩ nhiên có công với xã tắc, tất cả tướng sĩ trong quân đều được gia phong một cấp. Trẫm nghe nói phó tướng Đỗ Thịnh phá vòng vây báo tin, cùng cường đạo kịch chiến bỏ mình, thật trung dũng đáng khen. Nay trẫm truy phong thành tứ phẩm Trung Vũ tướng quân, đưa thi hài về quê an táng.”
Liễu Uy dập đầu cao giọng nói. “Thần Liễu Uy, lĩnh chỉ tạ ơn.”
Nhân Tông gật đầu, lại nói. “Liễu Uy, sứ thần Tây Hạ hiện ở đâu?”
Liễu Uy hồi tấu. “Hồi vạn tuế, sứ thần Tây Hạ – Hạ Từ Úc hiện đang chờ ở ngoài điện đợi chỉ.”
“Tuyên!”
Nhân Tông vừa dứt lời, đã có thái giám cao giọng truyền lời ra ngoài, chốc lát sau có một người dị tộc cao lớn, da ngăm, râu quai nón, hai tay bưng hộp bước vào điện vàng, theo tập tục quốc gia mà thi lễ, đồng thời dâng thư của Hạ chủ Nguyên Hạo. Nhân Tông đọc tấu, trên ghi thề xưng thần, vĩnh viễn không bao giờ thay đổi cùng những điều đại loại như thế.
“Hạ chủ Nguyên Hạo nguyện ý quy thuận, trẫm thực yên lòng. Trong đây có ghi mỗi năm đều dâng cống vật, trẫm cũng theo ước hẹn đáp lễ.” Ngài xem xong gật đầu nói.
Liễu Uy vội bước đến kế bên, lập lại một lần bằng tiếng Tây Hạ. Hạ Từ Úc dâng bảo hộp trong tay lên, miệng nói mấy câu không ai nghe hiểu.
Thái giám cầm bảo hộp dâng đến trước mặt Nhân Tông, Liễu Uy khởi bẩm. “Vạn tuế, sứ thần Tây Hạ nói rằng đây là truyền thế bảo đao của vương triều, bởi toàn thân được nạm trân kì châu quý nên gọi là ‘Đao Nạm Vàng’.”
Nhân Tông mở hộp ra xem, quả thấy trên lớp vải lót bằng tơ lụa vàng rực là thanh bảo đao chói lóa hoa quang của Tây Hạ. Lớp vỏ bên ngoài được mạ bằng vàng, trên có đính san hô mã não, bao quanh là hổ phách trân châu. Ở hai bên có hình kim phượng tung cánh bay, chính giữa là một hình bầu dục hơi lõm vào, khắc vài ký tự Tây Hạ lạ mắt. Nhân Tông tính rút đao ra xem thử, nhưng không ngờ nó lại quá chặt, dính cứng vào vỏ không nhúc nhích. Ngài vốn không học võ, lại thấy sứ thần Tây Hạ đứng dưới điện lộ vẻ mặt dửng dưng, đoán chừng người Tây Hạ man di sức lực mạnh hơn người Tống nhiều nên muốn dùng cách này để gây khó xử. Chính vì thế ngài chỉ cười một tiếng rồi đặt đao vào lại trong hộp.
“Thật là bảo đao, trẫm nhận thành ý của Hạ chủ.”
Sứ thần Tây Hạ đáp lại bằng một tràng tiếng lạ, giọng khàn khàn trầm thấp. Liễu Uy vội vàng khởi bẩm Nhân Tông. “Vạn tuế, sứ thần Hạ Từ Úc muốn mời Ngô hoàng mang bội đao này cùng đi săn thú.”
Chuyện phát sinh ngoài ý muốn, Nhân Tông ngạc nhiên nói. “Săn thú?”
Liễu Uy hồi bẩm. “Hồi vạn tuế, đây là cựu lệ của vương đình Tây Hạ. Đao này là vật tượng trưng cho vương quyền, phàm là người đứng đầu triều Tây Hạ đều phải cầm đao này đi săn thú để tỏ uy vũ.”
Nhân Tông gật đầu nói. “Ra là như vậy.”
Bao Chửng bước ra khởi bẩm. “Vạn tuế, săn thú lần này quá vội vàng, theo thiển kiến của thần không nên khinh nhẹ như vậy.”
Thái sư Bàng Tịch hừ lạnh. “Bao đại nhân nói sai rồi. Người nước Hạ thượng võ ai ai đều biết, đao này lại là vật thể hiện hoàng quyền, vạn tuế nếu không đáp ứng chẳng phải làm xấu đi uy nghi Đại Tống à?”
Bao Chửng nghiêm mặt nói. “Tây Hạ vừa xưng thần, thề quy phục Đại Tống, vĩnh viễn không thay đổi. Vậy có ích gì khi Ngô hoàng dùng cách này để tỏ rõ uy nghiêm thiên triều?”
Bàng Tịch cũng không chịu yếu thế, nói. “Bao đại nhân nói như vậy chẳng phải để vạn tuế chủ động yếu thế, làm dao động Đại Tống quân tâm sĩ khí?”
Thừa tướng Vương Duyên Linh cũng khởi bẩm. “Vạn tuế, lão thần cho rằng lời Bao Chửng nói khá có đạo lý.”
Bàng Tịch cau mày nói. “Thừa tướng, từ chối sứ thần như vậy, làm sao tỏ rõ uy nghi của triều đình?”
Vương Duyên Linh nói. “Thái sư, chuyện này…”
Nhân Tông mặc dù là thiên tử của quốc gia nhưng vẫn mang trong mình tính tranh cường háo thắng của thiếu niên, thấy sứ thần Tây Hạ vốn có ý khinh thị, lại càng không có chuyện nhượng bộ, vì thế nói. “Các ái khanh không cần tranh luận nữa. Trẫm đồng tình với ý kiến của thái sư.”
Bao Chửng bẩm vội. “Thần mong vạn tuế nghĩ lại thật kỹ.”
Nhân Tông khoát tay nói. “Ý trẫm đã quyết, Bao khanh không cần nhiều lời. Liễu Uy, hãy dịch lại cho sứ Hạ biết, trẫm mời tham gia nghi thức săn thú kia!”
Liễu Uy đáp. “Thần tuân chỉ!” Dứt lời vội dùng tiếng Tây Hạ thuật lại ý chỉ của Nhân Tông cho sứ thần.
Sứ thần Hạ Từ Úc thấy Nhân Tông đã đồng ý liền khom người thi lễ.
Nhân Tông nói với Bàng Tịch. “Ba ngày sau trẫm sẽ cùng sứ Hạ đi Tây Sơn săn thú, việc này giao cho thái sư lo liệu.”
Bàng Tịch đắc ý ra mặt, khom người nói. “Vạn tuế yên tâm, lão thần nhất định dốc hết tâm huyết hoàn thành.”
Bao Chửng vẫn muốn khuyên can, vội nói. “Vạn tuế…” Nói còn chưa xong đã bị thừa tướng Vương Duyên Linh lặng lẽ kéo ống tay áo, thấp giọng bảo. “Thánh ý đã quyết, Bao đại nhân có nói thêm cũng chỉ uổng công.”
“Bao Chửng chỉ là… thấy việc này có điểm không ổn.”
Vương Duyên Linh thở dài. “Vạn tuế hứng thú rất cao, khuyên nữa chỉ sợ chọc giận long nhan.”
Bao Chửng chỉ biết thở dài, trong lòng chợt thấy bất an không lui.
Nhân Tông đứng lên nói. “Thiên triều cùng Tây Hạ từ giờ hòa hảo, kéo dài đến trăm năm. Nay trẫm cùng sứ Hạ cùng nhau đi săn, coi như một giai thoại. Từ hôm nay trở về sau, trở thành thần quý, cùng bầy con tôi, mãi không thay đổi!”
Chúng thần quỳ xuống dập đầu, cao giọng nói.
“Ngô hoàng anh minh! Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”