Bí Quyết Kinh Doanh Của Người Do Thái

Chương 34: 78: 22 - Tiền Nằm Trong Tay Những Người Có Tiền

Người có chút ít kiến thức về kinh tế đều từng nghe qua đường cong “Lorenz” nổi tiếng. Đường cong ấy thể hiện cơ cấu giữa thu nhập với phân phối – của cải không phải được chia đều trong tay mọi người, mà hoàn toàn ngược lại, tổng số người có thu nhập cao chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ tổng dân số trên toàn thế giới. Nói một cách khác, tiền nằm trong tay của người có tiền.

Chúng ta thường nói: “Tài sản của người Mỹ nằm trong túi của người Do Thái”. Chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng dân số nước Mỹ, nhưng người Do Thái lại sở hữu được số lượng tài sản rất lớn. Không chỉ ở Mỹ, người Do Thái còn gần như độc chiếm thị trường tiền tệ và thương nghiệp ở Nhật cùng một số nước châu Âu, số tỉ phú người Do Thái nhiều không kể xiết. Nếu có người hỏi họ làm cách nào để kiếm tiền được nhiều như vậy, họ sẽ không ngần ngại trả lời: “Tiền vốn dĩ nằm trong tay của người có tiền”. Chúng ta cần phải kiếm tiền từ những người có tiền mới mau chóng làm giàu được.

Đạo lý kinh doanh đó bắt nguồn từ quy tắc “78:22”.

Trong tự nhiên, tỉ lệ giữa Nitơ và Oxy là 78:22; mà trong cơ thể của chúng ta, tỉ lệ giữa nước với các thành phần vật chất khác cũng là 78:22. Có thể thấy, 78:22 là một chuẩn tắc khách quan trong tự nhiên. Ngoại trừ một chút sai biệt nhỏ, ví dụ nó có thể biến thành 79:21 hoặc 77:23… nhìn chung, nó quy định một số thành phần cố định, vĩnh hằng trong vũ trụ này.

Nếu nói “78:22” là một chuẩn tắc đích thực, là một “chân lý tuyệt đối” vượt trên tất cả chân lý, đương nhiên sẽ được những người Do Thái biến thành cơ sở cho hoạt động kinh doanh của dân tộc mình. Bằng cách duy trì chuẩn tắc bất biến này, người Do Thái đã thu về cho mình những nguồn lợi khổng lồ, khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ.

Có thể đưa ra đây một ví dụ: Giả như có người hỏi, trên thế giới người cho mượn tiền nhiều hay người mượn tiền nhiều? Đa số mọi người sẽ trả lời: “Đương nhiên là người mượn tiền nhiều”. Tuy nhiên, câu trả lời của những người Do Thái giàu kinh nghiệm lại hoàn toàn trái ngược. Họ sẽ một mực khẳng định: “Người cho mượn tiền chiếm số lượng tuyệt dối”. Tình hình thực tế cũng đúng như vậy. Nhìn chung, ngân hàng là một cơ cấu cho vay tiền, họ đem số tiền vay được từ rất nhiều người, quay lại cho một số ít người khác vay mượn, qua đó thu lấy lợi nhuận. Theo cách tính của người Do Thái, tỉ lệ người cho mượn tiền và người mượn tiền là 78:22. Ngân hàng lợi dụng tỉ lệ này để kiếm tiền, không bao giờ thua lỗ. Nếu không, nguy cơ phá sản của ngân hàng là khó lòng tránh khỏi.

Một thương nhân Nhật Bản gốc Do Thái khi nhận ra sức hấp dẫn của chuẩn tắc “78:22” này đã vận dụng nó vào hoạt động kinh doanh kim cương của ông. Kết quả đã thu được những thành công ngoài sức tưởng tượng.

Kim cương là một sản phẩm cao cấp, nó chủ yếu là vật sở hữu của những người có thu nhập cao trong xã hội, những người có thu nhập trung bình không thể mua nổi. Vì vậy, hầu hết mọi người đều có quan điểm: “Người tiêu dùng ít, lợi nhuận nhất định không cao”. Nhưng họ lại không nghĩ rằng, số ít những người thu nhập cao ấy lại nắm giữ rất nhiều tiền bạc. Tỉ lệ giữa người có thu nhập phổ thông và người có thu nhập cao là 78:22, nhưng tỉ lệ sở hữu tài sản của họ lai là 22:78.

Người Do Thái nhắc nhở chúng ta: Kiếm tiền “78”, tuyệt đối sẽ không bị lỗ. Thương nhân Nhật Bản gốc Do Thái đã nhìn thấu điểm này và nhắm đến những đối tượng nằm trong con số “22” này, thu về cho mình một nguồn lợi nhuận khổng lồ.

Cuối thập niên 60 của thế kỷ 20, thương nhân Nhật Bản gốc Do Thái này lại bắt đầu tìm kiếm thị trường kim cương. Ông tìm đến công ty bách hóa S ở Tokyo, đề nghị thuê một miếng đất nhỏ của công ty để trưng bày các sản phẩm của mình. Nhưng công ty S lại chế nhạo và không chấp nhận.

Thương nhân Nhật Bản vẫn hết sức bình tĩnh, kiên trì thuyết phục công ty về chuẩn tắc “78:22” mà ông hết sức tin tưởng, cuối cùng đã thuê được một góc của công ty – một cửa hàng ở vùng ngoại ô, điều kiện buôn bán không thuận lợi, nhưng thương nhân đó vẫn không hề tỏ ra lo lắng. Ông khẳng định: “Tôi có thể bán được 200 triệu yên!”. Trong cách nhìn của một thương nhân, đó dường như là lời nói của một kẻ ngông cuồng. Nhưng sở dĩ ông có thể mạnh miệng thốt ra như vậy, là vì ông rất tin tưởng vào chuẩn tắc “78:22”.

Sự thực thì, chuẩn tắc “78:22” đã cho thấy tác dụng của nó một cách hết sức nhanh chóng. Ban đầu, ông thu được lợi nhuận 60 triệu yên, vượt hơn 5 triệu yên so với con số mà nhiều người đã dự tính. Bấy giờ lại đúng vào thời điểm đóng cửa mùa bán hàng giá rẻ trong năm. Thương nhân đó lập tức nắm lấy cơ hội, liên lạc với các cửa hàng vàng bạc đá quý bên New York. Bao nhiêu đá quý vừa được chuyển đến hầu như đều được khách hàng tranh nhau mua sạch. Tiếp đó, ông lại thiết lập thêm một số điểm tiêu thụ tại các vùng phụ cận Tokyo, công việc buôn bán hết sức thuận lợi. Mỗi điểm tiêu thụ đều thu được lợi nhuận không dưới 60 triệu yên mỗi ngày. Ngược lại, do không biết nắm bắt thời cơ ngay từ lúc đầu, đợi khi thị trường tiêu thụ trong cả nước đã sôi nổi, công ty bách hóa S mới tung sản phẩm ra ngoài thị trường. Kết quả còn thảm hại hơn cả tình cảnh vốn đã tiêu điều trước đây của công ty.

Còn thương nhân Nhật Bản gốc Do Thái, đến tháng 2 năm sau, hạng ngạch tiêu thụ đá quý của cửa hàng đã vượt mức 300 triệu yên. Ông đã thực hiện được “câu nói ngông cuồng” mà mình từng thốt ra.

Công việc kinh doanh đá quý của ông đạt được thành công, bí quyết nằm ở đâu? Chính là ở chuẩn tắc “78:22”. Ông xem đá quý là một mặt hàng xa xỉ mà những người có nhiều tiền và hơi nhiều tiền đều có thể mua được. Số người này tuy chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ dân số trong nước, nhưng lại sở hữu một số tiền rất lớn. Kiếm tiền từ số người này, lợi nhuận chắc chắn sẽ rất cao.

Đó là sự vận dụng tuyệt vời nhất chuẩn tắc “78:22” vào trong hoạt động kinh doanh của người Do Thái. Đây có lẽ cũng là lời giải thích thái độ cương quyết phản đối của người Do Thái đối với phương thức kinh doanh “lời ít bán nhiều”. Số người mua tuy ít, nhưng nếu có thể đưa ra giá bán cao, giá trị chênh lệch của đơn vị thương phẩm cũng sẽ rất cao. Như thế, tất nhiên sẽ kiếm được nhiều tiền hơn phương pháp “lời ít bán nhiều”.