Hậu Duệ Của Sư Tử Vàng

Chương 11: Davos

Không gian buổi sáng sớm vẫn âm u, khói bốc lên từ những vị thần rực cháy.

Tất cả bọn họ đang cháy bừng bừng, Trinh Nữ và Đức Mẹ, Thần Chiến Binh và Thần Thợ Rèn, Lão Bà với đôi mắt ngọc trai và Đức Cha với bộ râu mạ vàng; ngay cả Kẻ Lạ Mặt cũng được tạo hình để trông giống vật hơn giống người. Những khúc gỗ khô cũ kỹ cùng hàng lớp sơn và véc ni bùng cháy trong ngọn lửa dữ dội. Hơi nóng tỏa ra không gian bên ngoài lạnh lẽo; ở phía sau, những máng xối hình thú và những con rồng đá trên bức tường của lâu đài như mờ đi, như thể Davos đang nhìn chúng qua một làn nước mắt. Hoặc là lũ quái vật đang run sợ và kích động…

“Một việc xấu xa,” Allard tuyên bố, mặc dù ít nhất cậu ta cũng đủ khôn ngoan để nói khẽ hơn. Dale cũng lầm bầm đồng ý.

“Im lặng,” Davos quát. “Hãy nhớ các con là ai.” Các con trai ông là người tốt, nhưng còn trẻ, riêng Allard thì đặc biệt hấp tấp và thiếu suy nghĩ. Nếu ta còn là một tay buôn lậu thì có lẽ cuộc đời Allard sẽ kết liễu ở Tường Thành này. Stannis đã cứu ông khỏi kết cục ấy, và lại một lần nữa ta nợ ngài...

Hàng trăm người đã tới cổng lâu đài để chứng kiến lễ hỏa thiêu Thất Diện Thần. Mùi bốc lên trong không khí thật kinh khủng. Ngay cả các chiến binh cũng không thể không thấy khó chịu khi các vị thần mà họ đã tôn sùng cả đời lại bị nhục mạ như vậy.

Nữ tu đỏ bước quanh đám lửa ba lần, lầm rầm cầu nguyện một lần bằng tiếng Asshai, một lần bằng tiếng Valyrian, và một lần bằng ngôn ngữ chung của Bảy Phụ Quốc. Davos chỉ hiểu được thứ tiếng cuối cùng. “R’hllor, hãy đến với chúng con trong bóng tối,” ả cầu nguyện. “Thần Ánh Sáng, chúng con dâng cho ngài những chư thần giả này, bảy chư thần là một, và hắn chính là kẻ thù. Hãy nhận lấy họ và gieo ánh sáng cho chúng con, vì màn đêm tăm tối và chứa đầy những điều kinh khủng.” Hoàng hậu Selyse lẩm bẩm đọc theo. Bên cạnh bà, Stannis đứng nhìn một cách dửng dưng, quai hàm ngài đanh lại dưới bộ râu được cắt tỉa gọn gàng. Ngài ăn mặc lộng lẫy hơn thói quen hằng ngày, có lẽ để cho buổi lễ.

Chiếc bục tế ở Dragonstone là nơi trước đây Nhà Chinh Phạt Aegon quỳ để cầu nguyện trong đêm trước khi ông ra khơi. Nhưng điều đó cũng không cứu được nó khỏi tay người của hoàng hậu. Chúng lật ngược những bàn thờ, kéo đổ những bức tượng, và đập vỡ kính màu bằng búa. Tu sĩ Barre chỉ nguyền rủa bọn chúng, nhưng Ser Hubard Rambton còn để ba con trai của mình leo lên bục để bảo vệ các chư thần của họ. Người nhà Rambton đã hạ được bốn tên lính của hoàng hậu trước khi bị đám lính còn lại hạ gục. Cuối cùng Guncer Sunglass, vị lãnh chúa ôn hòa và nhân nghĩa nhất, cũng nói với Stannis rằng ông không thể nghe theo yêu cầu của ngài được nữa. Giờ thì ông ta ngồi chung trong chiếc xà lim ngột ngạt với hai người con còn sống sót của Ser Hubard. Các lãnh chúa khác nhanh chóng nhận được bài học cho mình.

Các vị thần cũng không có ý nghĩa nhiều lắm với tên buôn lậu Davos, mặc dù giống như hầu hết mọi người, ông cũng cúng Thần Chiến Binh trước khi ra trận, Thần Thợ Rèn khi hạ thủy một con thuyền, và Đức Mẹ khi vợ ông mang bầu. Ông cũng cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy họ bị đốt, và không phải chỉ vì mùi của chúng.

Nếu Maester Cressen còn sống, chắc chắn ông ấy sẽ ngăn chặn việc này. Ông già đã thách thức Thần Ánh Sáng và bị đánh gục vì sự bất kính của mình, hoặc tương tự như thế, theo những lời bàn tán của mọi người. Nhưng Davos biết rõ sự thật. Ông đã nhìn thấy vị học sĩ bỏ cái gì đó vào cốc rượu. Thuốc độc. Còn có thể là cái gì được nữa? Ông ấy uống một cốc thuốc độc để giải thoát Stannis khỏi Melisandre, nhưng bằng cách nào đó vị thần của ả đã che chở cho ả. Ông cũng nóng lòng muốn gϊếŧ chết mụ nữ tu đỏ vì điều đó, nhưng làm gì có cơ hội cho ông, khi mà một học sĩ của thành Citadel còn thất bại? Ông chỉ là một tên buôn lậu được cất nhắc, Davos xuất thân từ Flea Bottom, được biết đến với cái tên Hiệp Sĩ Củ Hành.

Những vị thần bị đốt tạo nên một thứ ánh sáng khá đẹp, lửa và khói cuộn lên màu đỏ, cam, vàng. Tu sĩ Barre từng kể cho Davos nghe việc các vị thần được khắc trên cột buồm của những con thuyền chở triều đại Targaryens đầu tiên đến từ Valyria. Sau nhiều thế kỷ, những hình đó được sơn lại nhiều lần, mạ vàng, mạ bạc và nạm đá quý. “Vẻ đẹp này của lửa sẽ làm thần R’hllor hài lòng hơn,” Melisandre nói khi bảo Stannis kéo chúng xuống và lôi tới cổng thành.

Trinh Nữ nằm vắt ngang Thần Chiến Binh, hai cánh tay cô dang rộng như thể đang ôm lấy vị thần còn lại. Đức Mẹ dường như rùng mình khi lửa liếʍ lên mặt bà. Một cây kiếm dài đâm qua tim bà, và chuôi kiếm bằng da trong ngọn lửa trông như một sinh vật sống. Đức Cha ở dưới đáy, và là hình nộm đầu tiên đổ xuống. Davos nhìn thấy bàn tay của Kẻ Lạ Mặt oằn xuống trong khi những ngón tay cháy đen dần và bay mất từng ngón một, biến thành những tàn than đỏ rực. Gần đó, Lãnh chúa Celtigar thỉnh thoảng lại húng hắng ho. Ông dùng một mảnh vải lanh hình vuông thêu hình những con cua đỏ để che lên khuôn mặt đầy những nếp nhăn. Đám người đến từ thành phố tự trị Myr cùng nhau pha trò cười khi ngồi sưởi bên đống lửa, nhưng mặt Lãnh chúa trẻ Bar Emmon xám xịt lại, và Lãnh chúa Velaryon thì quan sát nhà vua nhiều hơn là nhìn đám cháy.

Mọi khi, Davos cũng cố hỏi han xem ông ta đang nghĩ gì, nhưng một người như Velaryon sẽ không bao giờ tin tưởng Davos. Lãnh chúa của thành Thủy Triều có dòng máu của người Valyria cổ xưa, và gia tộc ông ta đã ba lần gả những cô con gái cho các hoàng tử của triều đình Targaryen; trong khi đó, Davos Seaworth chỉ có mùi tanh của cá và hành. Cũng giống như các vị lãnh chúa khác, ông không thể tin bất kỳ ai trong số họ, và họ cũng không để tên ông trong danh sách hội đồng riêng của mỗi người. Họ khinh bỉ cả các con trai của ông nữa. Tuy nhiên, các cháu trai của ta sẽ cưỡi ngựa đấu thương với con cháu của bọn họ, và ngày nào đó dòng máu của ta và của họ cũng có thể hòa vào nhau lắm chứ. Khi đó chiếc thuyền đen nhỏ của ta sẽ bay cao như những con cá ngựa của nhà Velaryon hay những con cua đỏ của gia tộc Celtigar.

Đó là, trong trường hợp Stannis đoạt được ngai vàng. Nếu ông ấy thất bại…

Mọi thứ ta có hiện nay đều là ta nợ ông ấy. Stannis đã phong ông làm hiệp sĩ. Ngài cho ông một chỗ rất vinh dự trên bàn tiệc của mình, và một chiếc thuyền chiến thay vì con thuyền nhỏ của một tên buôn lậu. Dale và Allard cũng được làm thuyền trưởng trên những con thuyền chiến lớn, Maric là một tay chèo trên chiến thuyền Cuồng Nộ, Matthos phục vụ cha mình trên chiếc Betha Đen, và nhà vua đã cho Devan làm cận vệ của hoàng gia. Một ngày nào đó thằng bé sẽ được phong hiệp sĩ, và cả hai cậu nhóc nhỏ hơn nữa. Marya giờ là bà chủ của một lâu đài nhỏ ở Cape Wrath, được kẻ hầu người hạ gọi là phu nhân, còn Davos có thể đi săn những con hươu đỏ trong chính khu rừng của mình. Tất cả những gì ông có đều là nhờ Stannis Baratheon, mà cái giá của nó chỉ là một vài đốt ngón tay. Những gì ngài làm với ta là thích đáng. Cả đời ta đã coi thường luật lệ của nhà vua. Nhưng ngài đã có được lòng trung thành của ta. Davos chạm tay vào chiếc túi nhỏ được treo bằng một sợi dây da trên cổ ông. Những ngón tay đó là vận may của ông, và giờ đây ông cần sự may mắn. Giống như tất cả mọi người đều cần. Và Lãnh chúa Stannis là người cần nhất.

Ngọn lửa xanh liếʍ lên bầu trời màu xám nhạt. Khói đen bay lên, xoáy tít và cuộn lại. Gió bốc đám khói về phía họ làm mọi người chảy nước mắt và đưa tay lên dụi liên tục. Allard quay sang phía khác, ho hắng và nguyền rủa. Mùi vị của những điều sắp tới, Davos thầm nghĩ. Sẽ có rất nhiều thứ nữa bị đốt trước khi cuộc chiến này kết thúc.

Melisandre mặc áo choàng chùm kín từ đầu đến chân bằng sa tanh màu đỏ tươi và vải nhung màu huyết dụ, đôi mắt ả cũng đỏ như viên hồng ngọc vĩ đại đang lấp lánh trên cổ, như thể viên đá cũng đang bắt lửa vậy.

“Một cuốn sách cổ của vùng Asshai đã viết rằng sẽ có một ngày sau một mùa hè dài đằng đẵng, khi những ngôi sao chảy máu và hơi thở lạnh lẽo của bóng tối nặng nề phả xuống thế gian. Trong giờ phút kinh hoàng ấy, một chiến binh sẽ rút ra từ trong lửa một thanh kiếm đang cháy. Và thanh kiếm đó chính là Sứ Giả Ánh Sáng, Thanh Kiếm Đỏ của các vị anh hùng, người có thể sử dụng nó là Azor Ahai tái thế, và bóng tối sẽ phải khuất phục trước ngài.” Ả cao giọng để cả đạo quân đều nghe thấy. “Azor Ahai yêu dấu của R’hllor! Chiến Binh Ánh Sáng, Con trai của Lửa! Hãy tới đây, thanh kiếm của ngài đang đợi ngài! Hãy tới và nắm lấy nó trong tay!”

Stannis Baratheon sải chân bước lên như một tên lính bước vào cuộc chiến. Các hậu vệ của ngài cũng bước theo để hộ tống. Davos quan sát khi con trai ông, Devan, kéo một chiếc găng tay độn bông dài qua tay phải của nhà vua. Cậu bé mặc một chiếc áo chẽn màu kem với hình ảnh một trái tim bừng cháy được thêu trên ngực áo. Bryen Farring cũng ăn mặc tương tự, và cậu ta đang buộc một chiếc áo choàng cứng bằng da thuộc quanh cổ nhà vua. Ở phía sau, Davos nghe thấy âm thanh xủng xoảng nho nhỏ của những chiếc chuông. “Dưới biển, khói nổi lên thành bong bóng, lửa cháy màu xanh lá, xanh lam rồi đen xì,” Tiếng hát của Mặt Sẹo vang lên đâu đó. “Ồ, ồ, biết rồi, biết rồi.”

Nhà vua nghiến răng nhào vào đống lửa, tay giữ chặt chiếc áo choàng bằng da ở phía trước để tránh bị lửa tạt. Ngài tiến thẳng tới chỗ Đức Mẹ, nhặt lấy thanh kiếm bằng bàn tay mang găng, và rút nó khỏi thanh gỗ đang cháy chỉ bằng một cú giật mạnh. Sau đó ngài rút lui với thanh kiếm giơ cao, ngọn lửa màu xanh ngọc bích bao lấy lưỡi thép màu đỏ anh đào. Đội lính gác vội vã chạy tới phủi những đám tro bám trên quần áo nhà vua.

“Một thanh kiếm lửa!” Hoàng hậu Selyse hô lên. Ser Axell Florent và những tùy tùng khác của hoàng hậu đồng thanh hô vang. “Một thanh kiếm lửa! Rực cháy! Rực cháy! Một thanh kiếm lửa!”

Melisandre đưa hai tay lên trên đầu. “Hãy nhìn xem! Một dấu hiệu được báo trước, và giờ dấu hiệu đó đang ở trước mắt chúng ta! Hãy nhìn Sứ Giả của Ánh Sáng mà xem! Azor Ahai đã sống lại! Tất cả chúng ta hãy tung hô Chiến Binh Ánh Sáng! Tất cả hãy tung hô Con Trai của Lửa!”

Đáp lại ả là một làn sóng những tiếng hò hét, trong khi chiếc găng tay của Stannis bắt đầu âm ỉ cháy. Nhà vua rủa thầm và đâm cây kiếm xuống nền đất ẩm, sau đó dập ngọn lửa đang cháy trên chân ngài.

“Thần linh! Hãy gieo ánh sáng của ngài xuống cho chúng tôi!” Melisandre hô vang.

“Vì màn đêm rất tăm tối và chứa đầy những điều kinh khủng,” Selyse và người của hoàng hậu hào hứng đáp lại. Ta có nên hô lên không nhỉ? Davos tự hỏi. Ta có nợ Stannis nhiều đến vậy không? Vị thần bốc cháy này có thực sự là của ngài ấy? Bàn tay với những ngón ngắn ngủn của ông nắm lại.

Stannis tháo găng ra và thả rơi nó xuống đất. Các vị thần trong giàn thiêu lúc này gần như không thể nhận ra được nữa. Đầu của Thần Thợ Rèn rời khỏi thân, giờ là một đám than đỏ và tro tàn. Melisandre hát bằng giọng Asshai, giọng ả lên xuống như thủy triều của biển. Stannis cởi chiếc áo choàng bằng da và im lặng lắng nghe. Dù cắm dưới đất, thanh kiếm Sứ Giả Ánh Sáng vẫn sáng rực một màu đỏ máu, nhưng ngọn lửa bám trên thanh kiếm chỉ còn le lói.

Khi bài hát kết thúc, các vị thần không còn gì ngoài đống than, và nhà vua cũng không thể kiên nhẫn thêm được nữa. Ngài nắm lấy khuỷu tay hoàng hậu và đưa bà ta quay lại Dragonstone, vứt Sứ Giả Ánh Sáng lại đó. Ả nữ tu đỏ nấn ná lại một lúc để quan sát khi Devan đang quỳ cùng Byren Farring cuộn thanh kiếm bị đốt đen xì vào chiếc áo choàng da của nhà vua. Thanh Kiếm Đỏ của các vị Anh Hùng trông thật bẩn thỉu và nhếch nhác, Davos nghĩ vậy.

Một số lãnh chúa cũng nán lại và nói chuyện thì thầm bên đám lửa. Khi bắt gặp ánh mắt của Davos, họ chợt im bặt. Một khi Stannis thất bại, bọn chúng sẽ kéo ta xuống ngay lập tức. Ông cũng không thể dựa dẫm được gì vào người của hoàng hậu, một nhóm hiệp sĩ đầy tham vọng và các lãnh chúa nhỏ nhoi, những kẻ đã bán mình cho Thần Ánh Sáng và để được sự nâng đỡ và ưu ái của phu nhân, à không, hoàng hậu Selyse chứ.

Lửa bắt đầu tàn khi Melisandre và các cận vệ rời khỏi với thanh kiếm quý. Davos và các con trai ông hòa cùng đám đông đi dọc bờ biển tới chỗ những con thuyền đang đợi. “Devan đã làm tròn phận sự của mình,” ông nhận xét khi họ cùng bước đi.

“Nó đeo chiếc găng cho nhà vua mà không để bị rơi, đúng vậy,” Dale nói.

Allard gật đầu. “Cái huy hiệu đó trên áo chẽn của Devan, một trái tim đang bốc cháy, đó là cái gì vậy? Huy hiệu của gia tộc Baratheon là con hươu với đôi sừng lớn cơ mà?”

“Một lãnh chúa có thể chọn nhiều hơn một huy hiệu,” Davos nói.

Dale mỉm cười. “Một con thuyền đen và một củ hành hả cha?”

Allard giơ chân đá một viên sỏi. “Bọn Ngoại Nhân hãy đến mà mang củ hành đi... cả trái tim bốc cháy kia nữa. Thật xấu xa khi đốt bảy vị thần.”

“Con trở nên sùng đạo như vậy từ khi nào thế?” Davos nói. “Con của một tên buôn lậu thì biết gì về thành tích của các vị thần kia chứ?”

“Con là con trai của một hiệp sĩ, thưa cha. Nếu cha không nhớ điều đó thì tại sao bọn họ phải nhớ chứ?”

“Con trai của một hiệp sĩ, nhưng không phải là hiệp sĩ,” Davos nói. “Và con sẽ chẳng bao giờ trở thành hiệp sĩ được nếu tiếp tục nhúng mũi vào những chuyện không liên quan đến mình. Stannis là vị vua chính đáng của chúng ta, chúng ta không có quyền nghi ngờ ông ấy. Chúng ta lái những chiếc thuyền của ngài và thực thi mệnh lệnh của ngài. Chỉ có vậy thôi.”

“Thưa cha, về điều này,” Dale nói, “Con ghét những thùng nước mà họ đưa cho con để đưa lên thuyền Hồn Ma. Chúng làm bằng gỗ thông xanh. Nước sẽ hỏng hết cho mà xem, dù là chuyến đi dài hay ngắn.”

“Thuyền Phu Nhân Marya của con cũng vậy,” Allard nói. “Người của hoàng hậu đã thu hết gỗ tốt rồi.”

“Ta sẽ nói chuyện với nhà vua về vấn đề này,” Davos hứa hẹn. Dù sao thì ông nói vẫn tốt hơn là Allard nói.

Các con trai ông là những chiến binh quả cảm và những thủy thủ điêu luyện, nhưng chúng không biết cách nói chuyện với các vị lãnh chúa. Chúng sinh ra ở tầng lớp bình dân, cũng giống như ta, nhưng chúng không muốn gợi lại ký ức đó. Khi chúng nhìn vào lá cờ của gia tộc, tất cả những gì chúng thấy là hình con thuyền đen to lớn bay bay trong gió. Còn với củ hành thì chúng giả vờ không nhìn thấy.

Bến cảng đông chưa từng thấy. Trong mỗi bến đỗ tàu, từng đám từng đám thủy thủ đang bốc xếp lương thực dự trữ, và quán trọ nào cũng đầy ắp binh lính chơi súc sắc, hoặc uống rượu, hoặc tìm gái điếm… một cuộc tìm kiếm vô nghĩa vì Stannis không cho phép gái điếm xuất hiện trên hòn đảo của mình. Thuyền xếp thành hàng trên bờ biển; thuyền chiến và tàu đánh cá, những chiếc tàu vuông chắc chắn và những con thuyền đáy rộng. Những con thuyền lớn nhất chiếm vị trí đẹp nhất: chiến thuyền chỉ huy Thịnh Nộ của Stannis đung đưa giữa hai chiếc Hươu Biển và Lãnh chúa Steffon, chiến thuyền Driftmark Kiêu Hãnh vỏ bạc của Lãnh chúa Velaryon cùng ba chiếc thuyền khác trong hạm đội, chiếc Móng Vuốt Đỏ của Lãnh chúa Celtigar được trang hoàng lộng lẫy, trong khi Cá Kiếm chậm chạp với mũi thuyền dài làm bằng sắt. Ngoài biển nơi thả neo là chiếc thuyền kẻ sọc Valyrian khổng lồ của Salladhor Saan cùng khoảng hơn hai chục chiếc thuyền nhỏ kiểu Lys.

Một nhà trọ nhỏ dột nát nằm ở ngay chân cầu tàu bằng đá nơi Betha Đen, Hồn Ma, và Phu Nhân Marya đậu vào buổi sáng cùng vài chiếc thuyền khác, với khoảng một trăm tay chèo. Davos thấy khát nước. Ông tách khỏi các con trai mình và tiến về phía nhà trọ. Phía trước căn nhà là một miệng máng xối cao bằng nửa thân người, nó đã cũ mòn bởi nước mưa và muối biển đến nỗi bức tượng chỉ còn lại những đường nét lờ mờ. Tuy thế, Davos và nó đã trở thành những người bạn cũ. Ông vỗ lên đầu bức tượng đá khi rảo chân bước vào. “Chúc may mắn,” ông lẩm bẩm.

Trong căn phòng chung ồn ào, Salladhor Saan đang ngồi ăn nho trong một chiếc tô bằng gỗ. Khi nhìn thấy Davos, hắn vẫy ông lại gần. “Ngài hiệp sĩ, lại đây ngồi với tôi. Ăn một quả nho đã nào. Hai quả đi. Chúng ngọt cực kỳ đấy.” Gã đàn ông đến từ Lys này miệng lưỡi ngọt xớt, lúc nào cũng mỉm cười và là điển hình của sự lòe loẹt ở cả hai bên bờ biển hẹp. Hôm nay hắn mặc vải bạc lấp lánh với ống tay viền thụng dài quết cả xuống đất. Cúc áo được khắc thành hình những con khỉ màu xanh ngọc, và bên trên những lọn tóc quăn trắng lưa thưa là chiếc mũ màu xanh lá vui nhộn, được trang trí với một chiếc quạt lông công.

Davos lách qua dãy bàn và ngồi xuống ghế. Trước khi trở thành hiệp sĩ, ông vẫn thường mua hàng hóa từ Salladhor Saan. Bản thân gã này cũng là một tên buôn lậu, đồng thời là một thương gia, một nhà cái, một tên cướp biển khét tiếng, và một hoàng tử tự phong của vùng Biển Hẹp. Khi một tên cướp biển trở nên quá giàu có, người ta phong cho hắn làm hoàng tử. Chính Davos đã có một chuyến tới Lys để thuyết phục lão già lừa đảo đó về dưới trướng Lãnh chúa Stannis.

“Ngài không xem những vị thần bị hỏa thiêu à, thưa ngài?” Davos hỏi.

“Các nhà tu đỏ có một đền thờ rất lớn ở Lys. Họ lúc nào chẳng đốt thứ nọ thứ kia và khấn vái với vị thần R’hllor của họ. Đống lửa của họ làm tôi phát chán. Vua Stannis rồi cũng nhanh ngán thôi, tôi hy vọng như vậy.” Dường như chẳng quan tâm đến nguy cơ bị người khác nghe lén, hắn ta vẫn ngồi ung dung ăn nho, nhằn hạt ra khỏi miệng và dùng một ngón tay búng chúng đi. “Chim Ngàn Màu của tôi hôm qua đã tới đây, thưa ngài. Đó không phải là thuyền chiến, mà là thuyền buôn, nó từng đi qua Vương Đô. Ngài chắc chắn không muốn ăn một quả nho chứ? Người ta nói ở thành phố trẻ em đang đói khát.” Hắn đung đưa chùm nho trước mặt Davos và mỉm cười.

“Tôi chỉ cần rượu, và tin tức.”

“Người Westeros lúc nào cũng vội vàng,” Salladhor Saan phàn nàn. “Tôi hỏi ngài, việc đó có gì tốt đẹp chứ? Ai sống vội vã thì người đó sẽ nhanh chóng xuống mồ thôi.” Hắn ợ lớn. “Lãnh chúa của thành Casterly Rock đã cử cậu con trai lùn của mình đến Vương Đô. Có lẽ ông ta hy vọng khuôn mặt xấu xí của gã lùn sẽ làm kẻ địch khϊếp sợ à? Hay là chúng ta sẽ cười đến đứt ruột mà chết khi thấy Quỷ Lùn nhảy cỡn trên tường thành, ai mà biết được? Gã lùn đã đuổi tên chỉ huy cục mịch, vụng về của đội áo choàng vàng và thay vào đó là một hiệp sĩ với một bàn tay bằng sắt.” Hắn bứt một quả nho, và bóp nát nó bằng ngón trỏ và ngón cái, cho đến khi vỏ của nó bung ra. Nước nho chảy xuống dọc những kẽ tay hắn.

Một cô gái phục vụ đi ngang qua, Davos giữ lại để yêu cầu một cốc rượu. Quay ra với Saan, ông hỏi. “Thành phố đã phòng ngự như thế nào?”

Hắn nhún vai. “Những bức tường rất cao và chắc chắn, nhưng ai sẽ sử dụng nó? Họ đang dựng nỏ bắn đá và bắn lửa, ồ, vâng, nhưng đội quân áo choàng vàng quá mỏng và quá non nớt, và không có ai trợ giúp. Một cuộc tấn công mau lẹ, như một con diều hâu lao xuống bắt thỏ rừng, và thành phố vĩ đại đó sẽ thuộc về chúng ta. Hãy cho chúng ta gió để căng những cánh buồm, và ngay chiều mai nhà vua của ngài có thể ngồi lên chiếc Ngai Sắt. Chúng ta sẽ cho Quỷ Lùn mặc quần áo sặc sỡ rồi lấy mũi giáo chọc vào má hắn, bắt hắn nhảy múa cho chúng ta xem, và có lẽ hoàng đế vĩ đại của ngài sẽ tặng cho tôi một đêm với thái hậu Cersei xinh đẹp. Tôi đã xa các bà vợ của mình lâu lắm rồi, tất cả chỉ để phục vụ cho nhà vua.”

“Cướp biển,” Davos nói. “Ngài chẳng có bà vợ nào cả, chỉ có các thê thϊếp, và ngài được trả công rất hậu hĩnh mỗi ngày, cùng với mỗi chiếc thuyền của mình.”

“Đó mới là hứa hẹn thôi,” Salladhor Saan nói một cách buồn rầu. “Ngài hiệp sĩ yêu quý, cái tôi cần là vàng, chứ không phải mấy chữ được viết trên giấy.” Hắn thả một quả nho vào miệng.

“Ngài sẽ có vàng khi chúng ta chiếm được ngân khố ở Vương Đô. Chẳng có ai trong Bảy Phụ Quốc liêm chính bằng Stannis Baratheon. Ngài ấy chắc chắn sẽ giữ lời.” Ngay khi Davos nói ra những lời đó, ông nghĩ, thế giới này đã thối nát quá sức tưởng tượng, khi những tên buôn lậu thấp hèn cũng dám đòi xác minh danh dự của nhà vua.

“Cho nên ông ta cứ nói mãi thôi. Theo tôi, cứ để chúng ta làm như tôi vừa bảo đi. Chẳng có quả nho nào chín hơn thành phố đó đâu, ông bạn cũ ạ!”

Cô gái phục vụ quay lại với cốc rượu cho Davos. Ông đưa cho cô gái một đồng xu. “Có thể chúng ta sẽ chiếm được Vương Đô như ngài nói,” ông đưa chiếc cốc lên miệng, “nhưng chúng ta sẽ giữ được nó trong bao lâu? Nghe nói Tywin Lannister đang ở Harrenhal cùng với một đội quân lớn, và Lãnh chúa Renly...”

“À, đúng rồi, cậu em trai,” Salladhor Saan nói. “Phần này không được hay lắm, ông bạn ạ. Vua Renly đã bắt đầu hành động. Ồ không, xin lỗi, ở đây là Lãnh chúa Renly. Có nhiều vua quá, lưỡi tôi bắt đầu mệt mỏi với từ đó rồi. Cậu em Renly đã rời Highgarden với người vợ trẻ của mình, cùng các lãnh chúa hoa hòe hoa sói và các hiệp sĩ chói lọi, và một đoàn bộ binh hùng hậu. Hắn đang hành quân trên con đường trải hoa hồng của ngài tới cùng một thành phố vĩ đại mà chúng ta đang nói đến ở đây.”

“Hắn đem cả vợ theo sao?”

Gã lại nhún vai. “Hắn đâu có nói lý do cho tôi. Có lẽ hắn không dám rời xa cái hang ấm áp giữa hai đùi cô ả, dù chỉ một đêm. Hoặc là hắn đã quá tự tin vào chiến thắng lần này.”

“Cần phải báo tin này cho nhà vua.”

“Tôi đã định làm vậy, thưa ngài. Nhưng bệ hạ lúc nào cũng cau mày giận dữ mỗi khi gặp tôi, khiến tôi run rẩy khi đứng trước mặt ông ấy. Ngài có nghĩ ông ấy sẽ thích tôi hơn nếu tôi mặc một chiếc áo lông và chẳng bao giờ cười? Nhưng tôi sẽ không làm như vậy đâu. Tôi là người thật thà, và ông ấy sẽ phải chịu đựng tôi trong quần áo lụa là gấm vóc. Bằng không tôi sẽ đưa thuyền của tôi đến nơi nào tôi được yêu quý hơn. Thanh kiếm đó có phải Sứ Giả Ánh Sáng gì đâu, ông bạn.”

Hắn đổi chủ đề đột ngột khiến Davos lo lắng. “Thanh kiếm?”

“Đúng, thanh kiếm được rút ra từ lửa. Họ kể cho tôi chuyện đó, và nó khiến tôi tức cười quá. Một thanh kiếm bốc cháy sẽ giúp Stannis như thế nào đây?”

“Một thanh kiếm lửa,” Davos sửa lại.

“Bốc cháy,” Salladhor Saan nói, “và ngài hãy vui mừng vì điều đó đi, bạn của tôi. Ngài có biết truyền thuyết về việc rèn Sứ Giả Ánh Sáng không? Tôi sẽ kể cho ngài nghe. Thời đó bóng tối bao trùm trên mặt đất. Để chống lại điều đó, người anh hùng cần phải có thanh kiếm của mình, ồ, một thanh kiếm khác biệt chưa từng thấy bao giờ. Vì thế trong ba mươi ngày đêm, Azor Ahai làm việc miệt mài trong một ngôi đền để rèn thanh kiếm trong lửa thiêng. Nung, quai búa, và gập lại, rồi lại nung, quai búa, và gập lại, vâng, cho đến khi thanh kiếm được hoàn thành. Nhưng khi anh ta ném nó vào nước để làm nguội thép, nó vỡ tung thành từng mảnh.

“Là một anh hùng, anh ta không được phép nhún vai và đi tìm những quả nho chín sẵn tuyệt vời như thế này, vì vậy anh ta bắt đầu lại. Lần thứ hai anh ta mất năm mươi ngày đêm, và thanh kiếm lần này có vẻ tốt hơn thanh kiếm trước. Azor Ahai bắt một con sư tử để làm nguội thanh kiếm, bằng cách đâm xuyên qua trái tim con vật, nhưng một lần nữa thanh kiếm lại vỡ và nứt ra. Lần này anh ta đau buồn và thất vọng vô cùng, vì anh ta biết mình sẽ phải làm gì.

Một trăm ngày và một trăm đêm anh ta rèn cây kiếm thứ ba. Khi nó sáng trắng lên trong ánh lửa thiêng, anh bèn gọi vợ mình. ‘Nissa Nissa,’ anh gọi tên cô gái, ‘nàng hãy cởϊ áσ ra, và hiểu rằng ta yêu nàng hơn tất cả mọi thứ trên đời.’ Cô gái làm theo, tôi cũng không hiểu được lý do, và Azor Ahai đâm cây kiếm đang bốc khói qua trái tim đang đập của cô gái. Người ta nói tiếng kêu vừa đau đớn vừa hạnh phúc của cô để lại một vết nứt trên bề mặt của mặt trăng, nhưng máu, linh hồn, sức mạnh và sự can đảm của cô đều hòa vào lưỡi thép. Đó chính là truyền thuyết về việc rèn Sứ Giả Ánh Sáng, Thanh Kiếm Đỏ của các vị Anh Hùng.”

“Giờ ngài hiểu ý tôi rồi chứ? Hãy vui mừng vì đó chỉ là một thanh kiếm bốc cháy mà bệ hạ rút ra từ lửa. Ánh sáng mạnh quá cũng làm đau mắt ngài đấy, ông bạn, và lửa thì có thể gây bỏng.” Salladhor Saan ăn nốt quả nho cuối cùng và chép miệng. “Ngài nghĩ khi nào nhà vua sẽ lệnh cho chúng ta ra khơi, hiệp sĩ của tôi?“

“Tôi nghĩ sẽ sớm thôi,” Davos nói, “nếu vị thần của ông ấy đồng ý.”

“Vị thần của ông ấy? Không phải chính là các vị thần của ngài hay sao? Vị thần của Ser Davos Seaworth, hiệp sĩ của chiếc thuyền chở hành đâu rồi?”

Davos dừng lại một chút và nuốt một ngụm rượu. Nhà trọ rất đông đúc, và ngươi không phải là Salladhor Saan, Davos tự nhắc mình như vậy. Hãy thận trọng với câu trả lời của mình. “Vua Stannis là vị thần của ta. Ngài đã tạo ra ta, đem lại phước lành cho ta bằng niềm tin của ngài.”

“Tôi sẽ nhớ điều này.” Salladhor Saan đứng lên. “Xin thứ lỗi. Những quả nho làm tôi đói quá, và bữa tối đang chờ tôi ở Valyrian. Thịt cừu băm với tiêu và mòng biển quay nhồi nấm, thì là, và hành. Chúng ta sẽ sớm được dùng bữa cùng nhau ở Vương Đô đấy nhỉ? Chúng ta sẽ mở tiệc trong Tháp Đỏ, trong khi gã lùn hát tấu hài cho chúng ta nghe. Nếu ngài nói chuyện với Vua Stannis, ngài có thể nói với ông ấy là tới khi trăng khuyết, ông ấy sẽ nợ tôi thêm ba mươi nghìn đồng vàng nữa. Nhà vua đáng lẽ phải đưa những vị thần đó cho tôi. Họ rất đẹp và không đáng bị đốt như vậy. Có thể chúng sẽ rất được giá nếu đem bán ở Pentos hay Myr. Tuy nhiên, nếu ông ấy tặng tôi thái hậu Cersei trong một đêm thì tôi sẽ cân nhắc tha thứ cho ông ấy.” Gã buôn lậu thành Lys vỗ lưng Davos, và khệnh khạng bước ra khỏi nhà trọ như thể hắn làm chủ nơi đó vậy.

Ser Davos Seaworth nán lại bên cốc rượu của mình thêm một lúc nữa và suy nghĩ. Một năm trước, ông đã ở Vương Đô cùng với Stannis khi Vua Robert mở một cuộc đấu thương ngựa cho ngày lễ đặt tên của hoàng tử Joffrey. Ông nhớ đến thầy tu đỏ Thoros của thành Myr, và thanh kiếm lửa mà ông ta đã sử dụng trong cuộc đấu. Ông ta đã có một cuộc trình diễn đầy màu sắc, chiếc áo choàng đỏ của ông ta bay phấp phới, trong khi lưỡi kiếm của ông cháy rực với ngọn lửa màu xanh xám, nhưng mọi người đều biết chẳng có ma thuật thực sự nào đằng sau nó cả, và cuối cùng ngọn lửa cũng tắt ngúm và Bronze Yohn Royce đánh vỡ đầu ông ta chỉ bằng một cây chùy rất bình thường.

Giờ là câu chuyện có thật về lửa, một điều thật kỳ diệu. Nhưng mọi thứ có cái giá của nó… Khi nghĩ về Nissa Nissa, ông tưởng tượng ra nàng Marya của mình, một người phụ nữ đầy đặn, chất phác với bộ ngực đã chảy xệ và nụ cười đôn hậu, người phụ nữ tốt nhất trên thế giới này. Ông cố nghĩ tới hình ảnh ông đâm cây kiếm xuyên qua ngực bà, và rùng mình. Ta không sinh ra để làm anh hùng, ông đã quyết định như vậy. Nếu đó là cái giá của cây kiếm ma thuật thì ông chẳng thèm trả cái giá ấy.

Davos uống nốt cốc rượu, gạt nó qua một bên và rời khỏi nhà trọ. Trên đường ra, ông lại vỗ lên đầu bức tượng máng xối và lẩm bẩm: “May mắn nhé.” Mọi người đều cần điều đó.

Trời đã dần sáng khi Devan xuống thuyền Betha Đen, trên lưng một con ngựa nhỏ trắng như tuyết.

“Chào cha,” cậu ta thông báo, “Nhà vua lệnh cho cha họp cùng ông ấy trong phòng có chiếc Bàn Vẽ. Cha sẽ phải phi ngựa đến đó ngay lập tức.”

Davos rất vui khi nhìn thấy Devan lộng lẫy trong bộ trang phục dành cho cận vệ, nhưng mệnh lệnh triệu tập khiến ông không được dễ chịu cho lắm. Ngài sẽ lệnh cho chúng ta ra khơi chứ? Ông tự hỏi. Salladhor Saan không phải là thuyền trưởng duy nhất cảm thấy thời điểm tấn công Vương Đô đã quá chín muồi, nhưng một tên buôn lậu cần phải học được tính kiên nhẫn. Chúng ta không có hy vọng chiến thắng. Ta cũng đã nói với Maester Cressen như vậy vào ngày trở lại Dragonstone, nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Chúng ta quá ít người, trong khi kẻ địch thì đông gấp bội. Nếu dìm hết những tay chèo của mình, tất cả chúng ta sẽ chết. Tuy vậy, ông vẫn trèo lên lưng ngựa.

Khi Davos vào tới tháp Trống Đá, một tá hiệp sĩ quý tộc và các tùy tùng cấp cao vừa rời khỏi. Lãnh chúa Celtigar và Velaryon mỗi người trao cho ông một cái gật đầu cụt lủn, rồi tiếp tục bước đi trong khi những người khác hoàn toàn làm ngơ trước ông. Nhưng Ser Axell Florent đã dừng lại nói vài câu.

Chú của hoàng hậu Selyse là một con sâu rượu, với cánh tay mập mạp và đôi chân vòng kiềng. Ông ta cũng có đôi tai vĩ đại của gia tộc Florent, thậm chí vĩ đại hơn tai của cháu gái mình. Mái tóc thô cứng, rậm rạp trên đầu không ngăn cản được ông nghe ngóng mọi chuyện diễn ra trong lâu đài. Trong một thập kỷ, Ser Axell là người cai quản lâu đài Dragonstone trong khi Stannis ngồi trong hàng ngũ hội đồng của Robert tại Vương Đô, nhưng sau đó, ông ta đã trở thành người đứng đầu trong số tùy tùng của hoàng hậu. “Ser Davos, như thường lệ, tôi thật vui mừng khi gặp ngài,” ông ta nói.

“Và tôi cũng vậy, thưa ngài.”

“Sáng nay tôi cũng chú ý đến ngài đấy. Các vị thần giả cháy thật vui mắt, ngài có thấy vậy không?”

“Chúng cháy sáng rực.” Davos không tin người đàn ông này, cùng với điệu bộ lịch sự của ông ta. Nhà Florent đã quyết định ủng hộ Renly.

“Quý cô Melisandre nói với chúng tôi rằng thỉnh thoảng thần R’hllor cho phép những người đầy tớ trung thành của mình nhìn được tương lai trong ngọn lửa. Có vẻ khi tôi quan sát đống lửa sáng nay, dường như tôi nhìn thấy hàng tá các vũ công xinh đẹp, những thiếu nữ trong trang phục bằng vải lụa vàng đang xoay tròn trước một đức vua vĩ đại. Và tôi nghĩ viễn cảnh đó hoàn toàn đúng đắn, thưa ngài. Một hình ảnh huy hoàng đang chờ đợi đức vua sau khi chúng ta chiếm được Vương Đô và ngai vàng vốn phải thuộc về ngài ấy.”

Stannis đâu có thích những màn nhảy múa đó, Davos nghĩ bụng, nhưng ông không dám xúc phạm chú của hoàng hậu. “Tôi chỉ nhìn thấy lửa thôi,” ông nói, “nhưng khói bốc lên làm tôi chảy nước mắt. Ngài thứ lỗi nhé, bệ hạ đang chờ tôi.” Davos bước qua, và tự hỏi làm sao Ser Axell có thể gây rắc rối cho ông được. Ông ta là người của hoàng hậu, và ta là người của nhà vua cơ mà.

Stannis ngồi vào chiếc Bàn Vẽ với Maester Pylos bên cạnh, một đống giấy lộn xộn bày ra trước mặt. “Ser,” nhà vua nói khi thấy Davos bước vào, “lại đây và xem lá thư này.”

Ông ngoan ngoãn chọn đại một tờ giấy. “Trông nó đẹp đấy, thưa bệ hạ, nhưng thần sợ rằng mình không thể đọc những chữ trong đó.” Davos có thể giải mã được những bản đồ và bảng biểu dù ở thể loại nào, nhưng thư từ và các giấy tờ khác thì nằm ngoài khả năng của ông. Nhưng Devan con của thần đã được học chữ, cả Steffon và Stannis nữa.

“Ta quên mất.” Một nếp nhăn bực bội xuất hiện giữa hai đường lông mày của nhà vua. “Pylos, đọc cho ông ấy nghe đi.”

“Thưa bệ hạ.” Vị học sĩ cầm một tờ giấy da lên và hắng giọng. “Tất cả mọi người đều biết ta vì ta là con trai ruột của Steffon Baratheon, Lãnh chúa của Storm’s End, mẹ ta là phu nhân Cassana thuộc Nhà Estermont. Ta tuyên bố trước danh dự của gia tộc mình rằng anh trai Robert yêu quý của ta, cựu vương gần đây của chúng ta, đã không để lại người con đẻ nào, thằng nhóc Joffrey, thằng nhóc Tommen, và con bé Myrcella đều là sản phẩm của mối tình lσạи ɭυâи ghê tởm giữa Cersei Lannister và em trai ả là Jaime – Sát vương. Với dòng dõi và huyết thống của mình, hôm nay ta tuyên bố thừa kế Ngai Sắt của Bảy Phụ Quốc vùng Westeros. Hãy để những người con chân chính tuyên bố lòng trung thành của họ. Thực hiện trước Ánh Sáng Của Thánh Thần. Trước biểu trưng và con dấu của Stannis thuộc Nhà Baratheon, vua của vùng Andals, thành phố Rhoynar, và Tiền Nhân, và Lãnh chúa của Bảy Phụ Quốc.” Tờ giấy da kêu sột soạt khe khẽ khi Pylos đặt nó xuống bàn.

“Từ lần sau cứ đọc là Ser Jaime – Sát vương,” Stannis nghiêm trang nói. “Dù sao thì hắn cũng là một hiệp sĩ. Ta không biết có nên gọi Robert là anh trai yêu quý không nữa. Ông ta chẳng hề yêu quý ta.”

“Một cử chỉ lịch sự vô hại, thưa bệ hạ,” Pylos nói.

“Một câu nói dối. Bỏ đi.” Stannis quay về phía Davos. “Vị học sĩ nói với ta rằng chúng ta có 117 con quạ trong tay. Ta định sử dụng tất cả bọn chúng. 117 con quạ sẽ đem 117 bản sao của bức thư của ta đến mọi ngõ ngách trong vương quốc, từ Arbor cho đến Tường Thành. Có thể hàng trăm con quạ sẽ chiến thắng những cơn bão, diều hâu hay những mũi tên. Nếu vậy, hàng trăm vị học sĩ sẽ đọc lời của ta cho bằng đó vị lãnh chúa ở những cung điện và phòng ngủ... và sau đó những lá thư sẽ được đốt bỏ, người đọc phải đảm bảo sẽ kín miệng tuyệt đối. Nhưng những lãnh chúa này yêu quý Joffrey, hoặc là Renly, hoặc là Robb Stark. Ta là vị vua chính đáng của họ, nhưng họ sẽ từ chối ta nếu có thể. Vì vậy ta mới cần ngươi.”

“Thần sẵn sàng nghe lệnh, thưa bệ hạ. Luôn luôn như vậy.”

Stannis gật đầu. “Ta lệnh cho ngươi đưa thuyền Betha Đen về phía bắc, đến Gulltown, Đảo Fingers, và Quần Đảo Three Sisters, thậm chí là Cảng White. Con trai ngươi Dale sẽ đi về hướng nam đến Wraith, đi qua mũi Wrath và Broken Arm, dọc theo bờ biển Dorne đến Arbor. Mỗi người sẽ đem theo một thùng thư, và các ngươi sẽ phân phát chúng tới từng bến cảng, lâu đài và các làng chài. Đóng chúng lên những cánh cửa hoặc lễ đường, nhà trọ để bất cứ ai biết đọc đều có thể đọc được.”

Davos nói, “Thế thì ít quá.”

“Ser Davos nói đúng đó, thưa bệ hạ,” Maester Pylos đồng ý. “Nếu đọc to những bức thư lên có lẽ sẽ tốt hơn.”

“Tốt hơn, nhưng nguy hiểm hơn,” Stannis nói. “Những từ ngữ đó sẽ không được đón nhận một cách nồng nhiệt đâu.”

“Vậy hãy cho thần những hiệp sĩ để làm việc đó,” Davos nói. “Như vậy chúng sẽ có trọng lượng hơn những lời thần nói.”

Stannis dường như có vẻ rất hài lòng với điều đó. “Đúng, ta có thể cho ngươi các hiệp sĩ. Ta có một trăm hiệp sĩ, và họ sẽ đọc thư thay vì chiến đấu. Hãy tỏ ra đàng hoàng ở những nơi có thể, và lén lút ở nơi nào cần lén lút. Tận dụng mọi mánh khóe của một tên buôn lậu mà ngươi biết, những chiếc thuyền đen, những vũng, vịnh kín, và bất cứ thứ gì cần thiết. Nếu ngươi dùng hết thư, hãy bắt vài thầy tu và bảo họ chép thêm những bản khác. Ta muốn dùng cậu con trai thứ hai của ngươi nữa. Cậu ta sẽ đưa thuyền Phu Nhân Marya băng qua Biển Hẹp, tới Braavos và các Thành Phố Tự Trị khác để đưa thư đến những người cai trị ở đó. Cả thế giới sẽ biết đến những tuyên bố của ta, và sự bỉ ổi của Cersei.”

Ngài có thể nói với họ, Davos nghĩ, nhưng liệu họ có tin? Ông trầm ngâm liếc nhìn Maester Pylos. Nhà vua bắt gặp ánh mắt đó. “Maester, có lẽ ngươi phải bắt tay viết đi thôi. Chúng ta sẽ cần rất nhiều thư, trong thời gian rất ngắn.”

“Tuân lệnh.” Pylos cúi chào và bước ra.

Nhà vua đợi cho đến khi anh ta đi khỏi rồi nói: “Có chuyện gì mà ngươi không thể nói trước mặt vị học sĩ của ta được thế, Davos?”

“Lãnh chúa của thần, Pylos không có vấn đề gì, nhưng khi nhìn chuỗi hạt trên cổ anh ta, thần không thể không thương tiếc Maester Cressen.”

“Có phải lỗi của anh ta mà ông già phải chết không?” Stannis liếc nhìn đống lửa. “Ta chưa bao giờ muốn Cressen xuất hiện ở bữa tiệc đó. Ông ấy đã giận dữ với ta, đúng vậy, ông ấy cũng cho ta những lời khuyên tồi tệ, nhưng ta không muốn ông ấy phải chết. Ta đã hy vọng có thể cho ông ấy vài năm thư thái, an nhàn. Ít nhất thì ông ấy cũng xứng đáng được như vậy,” nhà vua nghiến răng, “nhưng ông ta lại chết. Và Pylos đã phục vụ ta rất tốt.”

“Pylos không phải là vấn đề. Những lá thư... Thần tự hỏi không biết các lãnh chúa của ngài tiếp nhận nó như thế nào?”

Stannis khịt mũi. “Celtigar đọc nó với vẻ ngưỡng mộ. Nếu ta cho hắn xem nhà xí của ta thì hắn cũng nói là đáng ngưỡng mộ thôi mà. Những người khác gật gù như một đàn ngỗng, tất cả trừ Velaryon, ông ta nói lưỡi thép mới quyết định vấn đề, chứ không phải vài dòng chữ trên giấy da. Như thể ta chưa từng lường trước vậy. Quỷ tha ma bắt những lãnh chúa của ta đi. Ta sẽ nghe nhận xét của ngươi.”

“Lời lẽ của ngài thẳng thắn và đanh thép.”

“Và chân thực.”

“Và chân thực. Nhưng ngài chẳng có chứng cứ gì. Về chuyện lσạи ɭυâи này. Mọi chuyện vẫn dậm chân tại chỗ như một năm trước.”

“Có ít chứng cứ ở Storm’s End. Gã con hoang của Robert. Gã con hoang ông ấy có được trong đêm đám cưới của ta, trên chính chiếc giường mà họ chuẩn bị cho ta và cô dâu của mình. Delena là người nhà Florent, và là một trinh nữ khi Robert có được cô ta, nên ông ấy thừa nhận đứa bé. Edric Bão Táp, người ta gọi thằng nhóc như vậy. Nghe nói thằng nhóc giống anh trai ta như đúc. Nếu ai nhìn thấy cậu ta, và sau đó nhìn lại Joffrey và Tommen, thì họ sẽ không thể không nghi ngờ, ta nghĩ…”

“Nhưng làm sao họ có thể nhìn thấy cậu ta, nếu cậu ta sống ở Storm’s End?”

Stannis nhịp nhịp ngón tay lên chiếc Bàn Vẽ. “Đây là một điều khó khăn.” Nhà vua ngước nhìn lên. “Chắc ngươi muốn nói nhiều về bức thư. Vậy cứ tiếp tục đi. Ta không coi ngươi là một hiệp sĩ, để ngươi có thể nói tất cả mà không cần chút lịch sự nào. Các lãnh chúa của ta đã lịch sự đủ rồi. Nói những gì ngươi muốn nói đi, Davos.”

Davos cúi đầu. “Có một câu ở đoạn cuối. Nó như thế nào nhỉ? Đoạn được thực hiện dưới Ánh Sáng Của Thánh Thần...”

“Đúng.” Nhà vua nghiến chặt hàm răng.

“Thần dân của ngài sẽ hiểu sai câu đó.”

“Giống như ngươi từng hiểu sai à?” Stannis hỏi.

“Thần nghĩ nên nói là: Được thực hiện dưới sự chứng kiến của các vị thần và mọi thần dân, hoặc trước lòng thành của các vị tân thần và cựu thần...”

“Ngươi trở nên sùng đạo từ khi nào vậy, tên buôn lậu?”

“Đó là câu hỏi vừa rồi thần muốn dành cho ngài đấy, thưa bệ hạ.”

“Vậy sao? Có vẻ tình yêu của ngươi dành cho vị thần mới của ta cũng không nhiều hơn tình cảm dành cho vị học sĩ mới là bao nhỉ.”

“Thần không biết vị Thần Ánh Sáng này,” Davos thừa nhận, “nhưng thần biết các vị thần bị đốt sáng nay. Thần Thợ Rèn đã giúp những chiếc thuyền của thần được an toàn, trong khi Đức Mẹ cho thần bảy đứa con trai khỏe mạnh.”

“Vợ ngươi cho ngươi đấy chứ. Ngươi có cầu nguyện đến cô ta không? Thứ sáng nay chúng ta đốt chỉ là gỗ thôi.”

“Có thể như vậy,” Davos nói, “nhưng khi thần còn là một cậu nhóc ở Flea Bottom phải đi ăn xin từng đồng một, thỉnh thoảng các thầy tu cũng cho thần đồ ăn.”

“Giờ thì ta cho ngươi đồ ăn.”

“Ngài đã cho thần một vị trí danh dự trên chiếc bàn của mình. Và để đổi lại, thần cho ngài sự thật. Thần dân của ngài sẽ không yêu quý ngài nếu ngài tước đi của họ vị thần mà họ vẫn tôn thờ, và cho họ một vị thần mới toanh có cái tên kỳ cục khi nói ra trên đầu lưỡi.”

Stannis đứng phắt dậy. “R’hllor. Khó nói đến vậy sao? Ngươi nói họ sẽ không yêu quý ta? Họ đã bao giờ yêu quý ta chưa? Làm sao ta có thể để mất một thứ ta chưa bao giờ có?” Nhà vua di chuyển đến cửa sổ phía nam và nhìn ra mặt biển dát ánh trăng. “Ta không còn tin vào các vị thần vào cái ngày chiến thuyền Ngọn Gió Kiêu Hãnh vỡ tan tành trên vịnh. Vị thần nào tàn ác đến mức dìm chết cả cha mẹ ta sẽ không nhận được sự tôn kính của ta, ta thề như vậy. Ở Vương Đô, Tu Sĩ Tối Cao bảo ta rằng tất cả sự công bằng và tốt đẹp đến từ Bảy Vị Thần, nhưng mọi thứ ta nhìn thấy đều là do con người tạo nên đấy chứ.”

“Nếu ngài không tin vào các vị thần…”

“…tại sao còn quan tâm đến vị thần mới làm gì?” Stannis chen ngang. “Ta cũng đã tự hỏi mình câu hỏi đó. Ta không biết nhiều, và cũng không quan tâm đến các vị thần, nhưng các thầy tu đỏ thực sự có sức mạnh.”

Vâng, nhưng là kiểu sức mạnh gì? “Cressen có sự thông thái.”

“Ta đã tin vào sự thông thái của ông ta và những mưu mẹo của ngươi, chúng đem lại cho ta cái gì, tên buôn lậu kia? Các lãnh chúa ở Storm’s End đuổi cổ ngươi về. Ta đã cho một kẻ ăn xin đến cầu cạnh bọn họ, và bọn họ cười nhạo ta. Được thôi, giờ sẽ không có lời cầu xin nào nữa, và không ai có thể cười nhạo được nữa. Ngai Sắt lẽ ra phải thuộc về ta, nhưng làm sao để ta có được nó? Có tất cả bốn vị vua trong vương quốc này, và ba bọn họ đều có nhiều người và nhiều vàng hơn ta. Ta có những con thuyền... và ta có cô ấy. Nữ Tu Đỏ. Một nửa số hiệp sĩ của ta thậm chí sợ hãi khi nói tên cô ấy, ngươi có biết không? Dù cô ta không thể làm gì khác, nhưng một mụ phù thủy có thể khiến những người lớn sợ đến vậy cũng không thể xem thường được. Kẻ sợ hãi là kẻ thua cuộc. Và có lẽ cô ấy có thể làm được nhiều hơn thế. Ta sẽ tìm ra.

Khi còn là một đứa trẻ, ta tìm thấy một con chim ó bị thương và đã chăm sóc cho nó lành lại. Ta đặt tên cho nó là Đôi Cánh Kiêu Hãnh. Nó đậu trên vai ta, bay từ phòng này sang phòng khác theo ta và mổ thức ăn trong tay ta, nhưng nó không bay đi. Hết lần này đến lần khác ta muốn nó bay, nhưng không lần nào nó bay qua được ngọn cây. Robert gọi nó là Đôi Cánh Yếu Ớt. Anh trai ta có một con chim ưng gộc tên là Sấm Rền, và nó chưa bao giờ tấn công trượt mục tiêu. Cho đến một ngày chú của chúng ta, Ser Harbert, bảo ta hãy thử một con chim khác. Ta đã tự biến mình thành thằng hề với Đôi Cánh Kiêu Hãnh, ông ấy nói vậy, và ông ấy đã đúng.” Stannis Baratheon quay người khỏi cửa sổ, và khỏi những cái bóng đang di chuyển trên vùng biển phía nam. Đã đến lúc ta cần có một con chim ưng khác rồi, Davos. Một con chim ưng đỏ.”