A Na Côi vội gật đầu, “Vâng, sau này con sẽ không hát nữa.”
Đàn Tế gật đầu, toan răn dạy nàng thêm mấy câu, quay đầu lại, thấy Đàn Đạo Nhất hãy còn ở đây, ông kinh ngạc hỏi: “Sao con còn chưa đi?”
Đàn Đạo Nhất điềm nhiên như không, “Con đang hầu chuyện phụ thân mà.”
“Không cần con nữa,” Đàn Tế phất tay với chàng, “Con đi đi.”
Đàn Đạo Nhất đành di chuyển hai chân, ra đến ngoài cửa, chàng đặt bước rón rén, khẽ khàng áp sát bên cửa sổ, dỏng tai lắng nghe.
“Khụ!” Đàn Tế lớn tiếng ho khan, gọi nô bộc: “Đến chỗ lang quân các ngươi, bảo nó là ta đã chuẩn bị sẵn quà lễ Tết Trùng Cửu, nhắc nó mấy ngày nữa đích thân đến nhà họ Tạ biếu nhạc phụ.”
Nô bộc ứng tiếng đi ra, Đàn Đạo Nhất khẽ nhíu mày, nhanh chóng rời đi.
Trở lại chỗ ở, Đàn Đạo Nhất trầm ngâm suy tư, song nghĩ mãi vẫn không xác định được dụng ý của Đàn Tế, chàng tính toán trong lòng: Đợi Nhu Nhu trở lại, chàng chỉ cần bóng gió hai ba câu là có thể hỏi được đầu đuôi sự việc ấy mà.
Trong lòng bình tĩnh hơn, chàng khẽ mỉm cười, trong lúc chờ A Na Côi, chàng rảnh rỗi kéo một tờ giấy trắng phau lại, gom ống tay áo, nâng bút nắn nót từng nét hai chữ Nhu Nhu, sau đó viết thêm hai chữ A Tùng sang bên cạnh.
Hai chữ này đặt canh nhau, chàng nhìn một hồi, nghĩ thầm: Thể chữ lệ tròn vành dày dặn, hợp viết chữ Nhu, mà cô tùng trên đỉnh núi tuyết thì thiên tư xuất chúng, phóng khoáng tiêu sái, dùng hành thảo vẫn thỏa đáng hơn. Thế là lại giật thêm một trang, một lần nữa viết xuống.
Chàng dậy hứng, múa bút không ngừng, chẳng biết thời gian vụt trôi thoăn thoắt. Chợt nghe tiếng người xì xầm bên ngoài, Đàn Đạo Nhất tưởng là A Na Côi lại đang tác quái ở đâu, lạnh mặt hỏi: “Chuyện gì thế?”
Nô tì thõng tay đi vào, bẩm báo: “Lang chủ muốn chuyển A Tùng sang biệt viện ở, chúng nô trở về thu dọn y phục chăn nệm cho A Tùng.”
Đàn Đạo Nhất sửng sốt, đặt giấy xuống đứng dậy, hỏi: “Dọn sang biệt viện nào?”
“Sang vườn bên kia tường ngăn ạ. Lang chủ nói A Tùng là nương tử chưa xuất giá, ở đây không tiện.”
Đàn Đạo Nhất bất giác nở một nụ cười thư thái, nói: “Tốt lắm.” Thấy mấy tì nữ kia ra ra vào vào phòng A Na Côi, Đàn Đạo Nhất lại hỏi: “Sao nó không tự quay lại một chuyến?”
“Nó ạ?”
Đàn Đạo Nhất định gọi tên Nhu Nhu, lời chưa kịp ra khỏi miệng lại không tình nguyện sửa thành: “A Tùng.”
Tì nữ cười bảo: “Những việc nặng này cứ để chúng nô làm là được.”
Đàn Đạo Nhất nhíu mày, nghĩ đến nghi hoặc lúc trước của mình – A Na Côi không trở lại ngay, Đàn Tế cố ý ra vẻ thần bí. Chàng dứt khoát lắc đầu, lười truy cứu.
Vừa cúi đầu xuống mới ý thức được mình đã viết rất nhiều Nhu Nhu và A Tùng. Vốn nghĩ có thể cho nàng làm mẫu viết phỏng theo, hiện giờ không cần nữa, Đàn Đạo Nhất vo giấy ném đi.
Mấy ngày sau đó không còn chạm mặt A Na Côi. Lúc đi lại dưới hiên nhà yên ắng, thi thoảng Đàn Đạo Nhất nghe thấy tiếng sáo trúc mỏng manh bên kia tường. Tuy Đàn Tế không nạp thϊếp nhưng vẫn có mỹ tì nhạc kĩ đồng liêu biếu tặng, đều nuôi ở biệt viện. Đàn Tế ít khi đến biệt viện, bên kia cũng ít khi có động tĩnh, hai ngày nay lại náo nhiệt khó hiểu, đại khái là vì có A Na Côi chui vào.
Nguyên Dực không chờ được hồi âm từ Kinh Châu, không thể đợi tiếp nữa bèn đến nhà họ Đàn tìm hiểu tin tức, “Sao không thấy A Na Côi đâu?” Hắn lượn một vòng trong phòng xép không bóng người, hỏi Đàn Đạo Nhất.
“Dời đi rồi.”
Nguyên Dực “ồ” một tiếng, gọi một tì nữ lại, hỏi thăm tình hình ở biệt viện. Đàn Đạo Nhất cũng hơi hiếu kì, nghe rất chăm chú. Tì nữ kia nói: “A Tùng bây giờ bận lắm ạ, lang chủ mời mấy vị sư phụ dạy nàng thi từ ca phú, cầm kì thư họa, còn thường xuyên gọi A Tùng đi nói chuyện.”
“Nói cái gì?”
Tì nữ lắc đầu, “Lang chủ không cho nô nghe.”