Cứ thế, mọi người đều vui vẻ. Thái tử đắc ý dạt dào, gửi thϊếp mời đông đảo danh sĩ hiền thần đến phủ thái tử tụ hội.
Nguyên Dực vừa được giải lệnh cấm, cũng nhận lời mời đến, sóng vai cùng Đàn Đạo Nhất đi vào sân phủ thái tử. Người đương thời thích nhất chuyện phiếm, phần lớn danh sĩ thái tử mời đến đều hào sảng không câu thúc, y quan không ngay ngắn, hai chân duỗi ra, nghiêng trái ngả phải ngồi đầy đất trong lâm viên.
Guốc gỗ gõ mặt đất “lộc cộc”, Nguyên Dực đang cười nhạt thì thấy thái tử tay áo bồng bềnh, đi tới như cưỡi mây đạp gió, hắn lập tức đổi sang mặt cười, chắp tay thi lễ với thái tử, “Đệ còn chưa kịp chúc mừng huynh trưởng.”
Thái tử ngoài ba mươi tuổi, bên môi để râu quai nón ngắn, rất cao lớn, mặc xiêm y phiêu dật thế này nom không hài hòa lắm. Bản thân y cũng cảm thấy không quá tự tại, cười ha hả, nhấc chân quẳng hai chiếc guốc gỗ vào hồ, nói: “Xỏ cái thứ này ta như biến thành nữ nhân vậy.”
Nguyên Dực không vừa mắt dáng vẻ đắc ý của thái tử, nuốt giận vào bụng nịnh y: “Huynh trưởng oai phong hùng tráng, là nam nhân trong nam nhân.”
Thái tử chắp tay, ánh mắt tủm tỉm dừng lại trên người Đàn Đạo Nhất, cất lời khen tự đáy lòng: “Đàn lang, tướng tá vàng ngọc, cốt cách hạc tùng, chẳng trách nữ nhân kinh thành đều đuổi theo ngắm ngươi.”
Đàn Đạo Nhất hờ hững, “Điện hạ quá khen, tại hạ cũng chỉ được cái mã ngoài.”
Thái tử phá ra cười, cảm thấy Đàn Đạo Nhất nói chuyện rất thú vị, “Ý ngươi là thừa nhận mình tuấn tú độc nhất vô nhị trong thiên hạ sao?”
“Tại hạ nào sánh bằng thái tử oai phong hùng tráng?”
Thái tử cười không dứt, dẫn đầu rời đi, đám người nói chuyện phiếm bên kia bờ hồ nghe thấy tiếng y, nhao nhao đứng dậy nhìn quanh, thi lễ với Nguyên Dực và Đàn Đạo Nhất.
Nguyên Dực tụt hậu hai bước, sầm mặt nhìn mấy lần bờ bên kia, thấy lục thượng thư sự Tạ Tiện đã có mặt, vội chọc chọc cánh tay Đàn Đạo Nhất. Đàn Đạo Nhất ừ một tiếng, mặt không tỏ vẻ gì.
Chào hỏi khách khứa xong xuôi, Nguyên Dực và Đàn Đạo Nhất ngồi trên mặt đất, ủ dột uống vài chén rượu.
Mọi người ngâm thơ đối chữ, nịnh nọt ton hót, khoác lác trắng trợn về hôn sự của thái tử và công chúa Nhu Nhiên. Nguyên Dực nghe mà liên tiếp nhíu mày, lấy tay áo che mặt, kề tai nói nhỏ với Đàn Đạo Nhất, “Ta buồn nôn.”
Đàn Đạo Nhất cảnh giác ngồi dịch ra.
Thái tử uống một ngụm rượu, cười cười quét khóe mắt qua Nguyên Dực và Đàn Đạo Nhất, song lại nâng chén lên với sứ giả Nhu Nhiên, “Làm phiền tôn giá trở về Nhu Nhiên một chuyến, bàn bạc hôn kì với khả hãn, ta ở Kiến Khang đợi tin tốt.”
Sứ giả Nhu Nhiên vội nói không dám, đáp tạ với thái tử rồi thì khó xử nói: “Ngài mai phải về Nhu Nhiên rồi mà thần còn một việc chưa làm xong, trong lòng hơi thấp thỏm.”
“Nói nghe xem nào.”
“Kể cũng trùng hợp, sau khi nhị hoàng tử rời Nhu Nhiên, nghĩa tử của khả hãn cũng mất tích khó hiểu, tìm khắp nơi không thấy đâu.” Sứ giả Nhu Nhiên liếc nhìn Nguyên Dực, “Vị nghĩa tử này sống ở Nhu Nhiên, chưa từng rời Bắc Mạc, khả hãn sợ cậu ấy bị người lòng dạ bất chính bắt cóc mất, rất sốt ruột, thế nên muốn hỏi điện hạ, trên đường từ Nhu Nhiên về kinh thành có gặp cậu ấy không?”
Sắc mặt Nguyên Dực không mảy may để lộ đầu mối, “Chưa từng gặp.”
Sứ giả Nhu Nhiên mày chau mặt ủ, ồ một tiếng.
Thái tử giả bộ an ủi gã vài câu, sau đó cười nói: “Người Nhu Nhiên cường tráng, đến dã thú cũng chẳng sợ, nghĩa tử của khả hãn các ông là một bé trai, ai dám bắt cóc cậu ta? Chắc là nhất thời ham chơi đi xa thôi.”
“Điện hạ không biết đấy thôi, vị nghĩa tử này rất xinh đẹp,” Sứ giả Nhu Nhiên chỉ vào Đàn Đạo Nhất, “Y như vị lang quân này vậy, thế nên khó tránh bị người ta ngấp nghé.”
Mọi người cười ầm lên, Tạ Tiện vô cùng khó chịu, mặt mo đỏ bừng, trách móc sứ giả Nhu Nhiên: “Đàn lang quân đây là cháu trai Đàn tướng công, con trai Đàn thị lang, phẩm hạnh cao khiết, ngươi không biết nói tiếng Tề thì đừng có nói lung tung.”