Trở lại Đàn phủ, người hầu trong nhà đã sớm hay tin, kính cẩn đứng chờ ở cổng, trông thấy Đàn Đạo Nhất thì hớn hở ra mặt, thân thiết gọi “Lang quân”, tất cả xúm quanh chàng đi vào phủ. A Na Côi bị chen ra góc, đi loanh quanh như ruồi không đầu, thấy trong Đàn phủ tùng reo u u, trúc xanh um tùm, tường trắng ngói đen thấp thoáng sau núi đá, nào phải cảnh phú quý như trong tưởng tượng của nàng? A Na Côi thất vọng, nghĩ bụng: Muốn xem cỏ xem cây Nhu Nhiên còn nhiều hơn, việc gì ta phải lặn lội đường xa tới đây?
Bao giờ điện hạ mới đón ta đi đây?
Đàn Đạo Nhất đi một lúc mới nhớ ra A Na Côi, ngó trái ngó phải, thấy A Na Côi đang dẩu miệng bần thần cạnh đình trúc, vẻ mặt hết sức tiu nghỉu không vui. Chàng vòng về – cả đám nô bộc cũng ùa về theo, A Na Côi bị va một cái lảo đảo ra sau, Đàn Đạo Nhất trỏ tua roi về phía nàng, nói với quản gia: “Dẫn nó đến chỗ ta trước đi.”
Quản gia chỉ cho rằng A Na Côi là một đồng nô Đàn Đạo Nhất mua trên đường, vội nhận lời, hỏi A Na Côi, “Ngươi tên gì?”
Ngón tay A Na Côi vân vê môi, mắt đảo một vòng quanh đình viện, trong nháy mắt đã đặt cho mình một cái tên rất ư phong nhã: “Tôi tên A Tùng…”
“Nhu Nhu1.” Đàn Đạo Nhất nói, “Nó tên là Nhu Nhu.”
1 Chữ 蠕 Nhu này vừa có nghĩa là lúc nhúc, lổm ngổm (chỉ những loài sâu bọ giun sán thân mềm), vừa được dùng để chỉ nước rợ hung ở Ngoại Mông ngày xưa mà nay là Mông Cổ.
“Nhu… Nhu…” Hai cặp mắt của Quản gia và A Na Côi nghi hoặc nhìn Đàn Đạo Nhất.
Đàn Đạo Nhất nghiêng đầu, duỗi ngón tay búng một cái, con sâu trên vai tức thì bắn ra không còn bóng dáng. Chàng khẽ mỉm cười, ném roi ngựa cho quản gia rồi đi vào sảnh đường.
“Khụ khụ, Nhu Nhu.” Quản gia ngoắc tay với A Na Côi, “Đi thôi.” Dẫn A Na Côi băng qua đình viện, quản gia lẩm bẩm: “Tên ngươi kì quặc thật.”
A Na Côi không nhịn được nói: “Tôi tên A Tùng.”
“Nhu Nhu, ngươi chờ ở đây.” Quản gia dẫn A Na Côi tới ngoài phòng Đàn Đạo Nhất, chỉ vào dưới hiên.
A Na Côi ngoan ngoãn ứng tiếng, thong thả đi qua đi lại dưới hiên mấy vòng, trêu vẹt trong l*иg mây, hái hải đường trong vườn, cuối cùng không có việc gì làm, hai tay chống cằm ngồi trên lan can, nhìn nhóm vυ' già ra ra vào vào, thay nệm màn, quét phòng cho Đàn Đạo Nhất.
Quản gia đứng một bên chỉ huy, thỉnh thoảng hỏi A Na Côi một câu: “Lang quân mua ngươi ở đâu? Lạ thật, trước đây lang quân chưa bao giờ mua người bên ngoài, chẳng lẽ ưng ngươi trông có vẻ lanh lợi? Nom ngươi tuổi hãy còn nhỏ, không biết có hầu hạ được lang quân nhà bọn ta không? Nhu Nhu, cái tên này kì quặc quá.”
“Tôi tên A Tùng.” A Na Côi sửa lời ông ta.
Quản gia ậm ừ, dẫn nhóm vυ' già đi.
A Na Côi buồn chán, chắp tay kiễng chân, lo âu ngó ra ngoài cửa phòng.
Bóng trúc um tùm chiếu lên mành song, trên bàn đặt một bàn cờ gỗ phỉ, trên tường treo một cây cung ngắn bọc ngọc, trên giá đỡ ở bàn có hộp kiếm, cạnh gối có khúc phổ, tượng phật ngọc dưới song được nắng rọi vào tỏa sáng lung linh, thần thái thanh tú. A Na Côi vô thức bước lại gần, nín thở khẽ khàng vốc một nắm quân cờ lạnh như băng trong tráp đựng cờ gỗ lim lên, nhẹ buông tay, quân cờ đen trắng rơi lên mặt bàn như châu ngọc. Nàng không khỏi nhoẻn miệng, lặng lẽ bật cười.
Nàng bước từng bước lùi lại, ngồi xuống mép giường, sờ vết khắc hoa sen trên bình phong, lay lớp màn lụa mỏng tang như cánh ve, mùi đàn hương thanh ngọt trong màn vấn vít miên man. Nàng quấn mình trong màn lụa, chìm vào giấc ngủ.
Nàng quá buồn ngủ.
Đàn Đạo Nhất cũng buồn ngủ.
Cha chàng Đàn Tế sùng Phật, hai cha con đang nói chuyện thì gia nô nghênh đại hòa thượng Huyền Tố của chùa Hạc Lâm vào, Đàn Đạo Nhất chưa kịp chuồn đi đã bị Đàn Tế tay lanh mắt lẹ túm lấy cổ tay, hưng phấn nói: “Cha đặc biệt mời đại hòa thượng tới giảng kinh, cơ hội ngàn năm có một, con nghe cho cẩn thận.”