Đông Kinh Cố Sự

Chương 3

Côn Sơn, là tiếng gọi đã khảm vào tâm thức Nguyễn Trãi ngay từ khi còn bé xíu.

Mới đầu, ngọn núi ấy chỉ hiện lên mờ mờ trong lời kể của cha và y biết rằng đó là quê hương, dù mình vốn sinh ra ở Nhị Khê, Thăng Long, đã quen với cảnh phố phường tấp nập.

Từ thuở êm đềm trướng rủ màn che, Nguyễn Trãi đã là cháu ngoại yêu của quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán, có vọng đức lớn lao trong triều, có mẹ là tông nữ nhà Trần, tức công nương Ngọc Điền.

Xuất thân hiển hách ấy ắt làm nhiều người phải ngưỡng mộ. Tiếc là một ngày nọ, tất cả điều đẹp đẽ đều tan biến, y lại không được nhờ gì từ đó.

Nguyễn Trãi sinh ra vào thời buổi nhà Trần suy tàn, giang sơn đổ nát trong tay vua tôi bạc nhược, quyền bính dần rơi vào tay Khu mật sứ Lê Quý Ly.

Gia cảnh không còn được như xưa, ông ngoại trong lòng còn trăm sự ngổn ngang, vậy mà khi đứa cháu nhỏ ra đời không lâu lại tươi cười rạng rỡ, tiếng cười khanh khách vang khắp gian nhà. Dường như có làn gió tươi mát nào đó thổi vào bầu không khí ảm đạm kia.

Tư dinh của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán nằm ở phía nam kinh thành, ven hồ Bích Câu, là một tòa phủ tráng lệ với vườn cây rộng um tùm, tiếng chim rả rích tối ngày.

Ngồi trên lầu cao vươn tầm mắt trông ra lớp lớp mái nhà cong vυ't, có thể ngắm nhìn sông Tô Lịch buổi chiều tà như dải lụa ngũ sắc uốn quanh, từ sông Tô Lịch đổ ra sông Cái với hai nhánh là sông Kim Ngưu và sông Thiên Phù, có thể thấy Quốc Tử Giám cách đó một chặng đường, có thể nghe tiếng lao xao khu Kẻ Chợ, tha thiết thanh bình trong tiếng gà gáy sớm hôm.

Quan Tư đồ dời về đây, gần gũi với muôn dân, tỏ tường những chuyện bó rau con cá, có lẽ vì vậy mà những âm thanh đời thường kia, với Nguyễn Trãi lại thân thuộc đến vậy.

Chớm đông năm ấy, có đứa trẻ sinh ra giữa lụa là gấm vóc, trong tiếng xôn xao mừng rỡ của anh em, họ hàng, giữa cơn giông mây đen vần vũ, sấm chớp xé trời.

Đứa trẻ ấy được yêu thương cưng chiều hết mực, nối dòng Nho gia. Khi còn bập bẹ chưa nên câu, với ánh mắt dịu dàng như sao sa ngắm nhìn những người xung quanh, cậu đã gánh lấy tất cả hy vọng của gia tộc trên vai.

Khi còn ấu thơ chưa hiểu chuyện, chỉ biết thích thú đón nhận những món đồ lạ mà người lớn đưa cho, cậu đã bẻ gãy cung tên ném đi, hờ hững thả rơi những quả án nhà quan rồi cầm lấy quản bút, nhẹ nhàng và thoải mái (1). Dường như đã có sợi dây vô hình nào cột chặt cuộc đời sau này của mình vào thứ gọi là số mệnh.

(1): Dựa trên phong tục Thí nhi của các gia đình quý tộc thời xưa.

Đứa trẻ ấy đã khiến mẹ mình, công nương Ngọc Điền trải qua một cuộc vượt cạn gần như rút hết sức sống của nàng.

Thời gian có mang, sức khỏe nàng đã sụt giảm trầm trọng, người cũng gầy sọp cả đi làm lòng Nguyễn Phi Khanh se sắt. Thầy thuốc khắp nơi được vời về phủ Tư đồ đều nói rằng lệnh bà thai chướng, khó sinh mà sợ rằng đứa con cũng khó sống.

Nguyễn Trãi mãi sau này có được nghe kể lại, giữa trời đông trở gió, mẹ nằm lò than ở cữ, mệt mỏi rũ rượi. Khi ấy Ngọc Điền đã yếu lắm rồi. Sau bảy ngày ở cữ, được chăm chút cẩn thận, sức khỏe nàng mới dần khá hơn. Trần Nguyên Đán muốn giữ con gái yêu ở lại tư phủ của mình vì điều kiện sinh hoạt thiếu thốn ở thôn Nhị Khê không lợi cho nàng dưỡng bệnh, Phi Khanh cũng đành thuận theo.

Cứ thế Nguyễn Trãi lớn lên, quen với tiếng phường làm giấy giã gió canh khuya, với cây hồng sai quả đỏ đậm, vỏ căng bóng ở vườn nhà, với tòa lầu ông ngoại thường ngồi ngoạn cảnh.

Nguyễn Trãi đẹp, đẹp một vẻ thanh tú giống mẹ, cùng ánh nhìn diệu vợi phía xa mà đượm buồn, lạc lõng so với đám con nít cùng trang lứa. Một đứa trẻ kì lạ, quan Tư đồ tự nhủ thế.

Là một nhà nho uyên thâm, tinh thông Kinh Dịch, ông đã dựa trên những tính toán về các tương ứng giữa “thân”, “mệnh” dựa trên ngày giờ sinh của Nguyễn Trãi, căn cứ trên những nguyên lý âm dương, thiên căn và địa căn mà đoán mệnh cho cháu mình.

Thoạt nghe vậy, Nguyễn Phi Khanh nghĩ ngợi rất lung, lòng cũng như ngồi trên đống lửa, chẳng biết nên vui hay buồn, thỏ thẻ:

"Dạ thưa cha, nếu thế thì biết làm thế nào ạ?"

Ông ngoại chỉ vuốt râu thở dài, lẳng lặng:

"Mọi việc trên đời này đều có số trời cả, thế nhưng số mệnh cũng bắt nguồn từ đạo làm người"

Một số mệnh long đong chìm nổi, thành danh mà đa truân, có lòng yêu thích hòa bình, an lạc song cũng rất nhiều xương rơi máu đổ. Chẳng biết những lời ấy linh ứng được bao nhiêu, chỉ đành thắp hương xin được tổ tiên phù hộ, phó mặc cho cao xanh mà thôi.

Sau khi mẹ qua đời khi Nguyễn Trãi mới lên năm, ông ngoại cũng từ quan. Trước những việc tiếm phạm của họ Hồ, âm mưu cướp ngôi đã rõ rành rành kia mà vua tôi nhà Trần vẫn tin cậy mù quáng, Trần Nguyên Đán không làm sao được, mới chán nản rút khỏi chốn quan trường.

Nguyễn Trãi theo ông ngoại về sống ở Côn Sơn dưỡng nhàn, cùng với người em họ Trần Nguyên Hãn, sửa sang và lập nên Thanh Hư Động, nguyên là am Bạch Vân, nơi trú ẩn của sư Pháp Loan thưở xưa.

Côn Sơn rất khác Thăng Long, rất khác tư dinh nằm phía Nam thành của quan Tư đồ.

Trời đông lộng gió, cành đào trơ trụi, kí ức về mẹ cũng chẳng còn giữ được nhiều, Nguyễn Trãi chỉ còn thấy mang máng khi nhận mũ mấn, bộ quần áo trắng từ tay người ta, y đã giật mình rụt tay lại. Cho tới khi nhìn thấy ánh mắt diệu vợi của cha khi níu lấy vai mình, Nguyễn Trãi mới ngừng tay.

Trên trời ảm đạm chỉ có chút tia sáng hiếm hoi vén mây rủ xuống, y chỉ biết nhìn họ bưng trầu nước lại chỗ giường mẹ nằm, rước hồn bạch ra chỗ linh tọa bày trước ban thờ, một đứa trẻ năm tuổi còn quá nhỏ để biết được chia ly.

Cứ thế từng bước đi qua những cánh cổng năm xưa mẹ đã âu yếm dắt tay y đi khắp, bỏ lại những năm tháng ấu thơ, khép lại tất cả những kí ức về một thời vàng son quá vãng.

Những kẻ năm xưa vốn xưng là thần tử Trần triều, luôn quà cáp qua lại phủ quan Tư Đồ, nay đều đang lo vây quanh Hồ Quý Ly, xun xoe bợ đỡ.

Người cậu thứ ba của Nguyễn Trãi, Trần Mộng Dữ cũng đã lấy công chúa Huy Trung, con gái của Hồ Quý Ly, trở thành hoàng tộc nhà Hồ.

Côn Sơn ở xa kinh thành, không còn nghe tiếng lao xao, chẳng còn lầu son gác tía, không còn cảnh cơm bưng nước rót, người người chạy theo bước chân Nguyễn Trãi khi xưa nữa.

Chỉ có như vậy, cả gia đình y mới được toàn mạng.

Côn Sơn, trong cái nhìn khắc khoải của ông ngoại, là niềm xót xa trước thời cuộc nhiễu nhương, hết thảy đổ nát.

Cứ thế, ngày ngày quanh quẩn bên luống rau khóm trúc, cuộc sống vất vả giản dị nơi núi rừng cứ chầm chậm trôi qua như thế, nhưng y chưa một lần mở miệng dò hỏi.

Trãi lớn lên giữa rừng thông suối nhạc nơi quê nhà, thỏa thích chạy hết mấy dãy rừng tre trải dài hút mắt, đâu đâu cũng thân thuộc. Từ chiếc phản gỗ trải chiếu cạp điều mà ông vẫn thường ngồi giảng bài, gian phòng nhỏ đầy sách mà y luôn thích thú ngồi suốt cả ngày không chán, tảng đá khắc bàn cờ đặt ở sân hòe phía sau mà cha hay ngồi kể lại những điển tích xưa.

Cứ mỗi độ chiều tà thế này, ông ngoại lại từ tốn ngồi xuống bên bậc thềm ven khóm trúc, dáng vẻ hiền hậu, dạy Nguyễn Trãi và Nguyên Hãn đọc sách, thỉnh thoảng lại vời vợi trông ra phía trời xa dường như ẩn chứa nhiều tâm sự khôn nguôi.

Mấy bức thư Nguyễn Phi Khanh gửi về từ Nhị Khê gần đây, lời lẽ sầu muộn, hình như đường làm quan của cha không được suôn sẻ. Mấy bận cha mệt mỏi quá ngỏ ý muốn về Côn Sơn, ông ngoại đều phải lựa lời khuyên.

Khi ấy, Nguyễn Trãi còn chưa biết rằng mình vốn được sinh ra trong thời nước ngả non nghiêng, chưa hiểu được hết thảy những kì vọng mà ông gửi gắm vào mình. Khi ấy, Đại Việt vẫn còn. Nhà Hồ, còn chưa dám dùng một đứa trẻ để đổi lấy giang san.

Ông ngoại từng nói Nguyễn Trãi khó lòng sống như một đứa trẻ bình thường, những khi chúng bạn hãy còn tuổi mải miết rong chơi, y đã sớm đọc sách viết chữ dưới sự chỉ dạy nghiêm khắc của ông ngoại.

Cũng may rằng Nguyễn Trãi vốn thông minh sáng dạ, luôn nằm lòng kinh thư, làm ông ngoại hài lòng, duy chỉ người em họ Nguyên Hãn của y thì tính tình trái ngược, suốt ngày múa gươm vật võ ngoài đường, chẳng thiết gì chuyện bút nghiên lều chõng. Chỉ biết rằng cha mẹ sinh con trời sinh tính, cũng chẳng biết làm thế nào.

Động Thanh Hư nơi quan Tư Đồ dưỡng nhàn, gọi là động mà kì thực là một căn nhà ba gian trải gạch đỏ nằm ở lưng núi Ngũ Nhạc. Nguyễn Trãi ngơi tay bút nhìn lên những tầng lá thông vi vu reo trong gió, xen tơ nắng râm ran như đơm hoa trên trang giấy trắng.

Trong số những người cháu của mình, quan Tư Đồ yêu quý Nguyễn Trãi nhất, luôn dốc lòng dạy dỗ. Ông ngoại tuy ở nơi núi rừng mà chí thì ở nơi tông xã, biết được cuộc binh biến còn dài mà sức người chẳng địch lại với cao xanh, nôn nóng chẳng được nên trong những năm cuối đời, ông mới nhồi nhét bắt Nguyễn Trãi đọc sách, cố truyền lại những điều tâm đắc cho một đứa trẻ chỉ mới hơn mười tuổi. Nguyễn Trãi thể tạng vốn yếu, Phi Khanh nhiều khi xót mà lại không nỡ nói ra.

"Anh Trãi!" Tiếng gọi cất lên làm Nguyễn Trãi hơi giật mình, ngó xuống dưới lầu thì thấy Nguyên Hãn mặt mày hớn hở, trán lấm tấm mồ hôi đang ra sức vẫy tay thu hút chú ý "Mình ra đền Kiếp Bạc chơi đi!"

" Nhưng mà...."

Nguyên Hãn nói đoạn chạy vèo ngay lên cầu thang. " Nhưng nhị gì nữa, mau lên kẻo ông nội về thì chết dở!"

Còn chưa dứt câu bỗng thấy có quả táo to chìa ra trước mặt, Nguyễn Trãi cũng chẳng ngại châm chước một bận, cùng hắn chạy ra rừng thông chơi.

Nguyên Hãn giống Nguyễn Trãi, mà cũng không giống.

Cùng là tôn thất, cùng lớn lên trong buổi tao đoạn và sau này là cùng theo phù trợ một vị chân chủ, cùng làm quan dưới một triều, song số mệnh lại khác nhau quá đỗi.

Hãn dường như thuộc về khoảng núi non khoáng đạt ngoài kia với những ước vọng riêng của kẻ mang nợ tang bồng, với bản lĩnh bước ra ngoài vòng cương tỏa mà Nguyễn Trãi không dám phá bỏ.

Đó là những gánh nặng vô hình đặt trên vai người tự xưng là con cháu họ Trần, là hậu duệ của một vị vương tử xuất chúng văn võ song toàn, là hy vọng của một dòng máu kiêu hùng đang có nguy cơ dần tàn lụi.

Thế rồi có đi mãi cũng chẳng tránh khỏi mối họa thảm khốc.

Quốc nặng hay tình sâu, trước giây phút cuối cùng, hai người lại chọn hai ngả đường riêng biệt.