Phượng Cửu cho rằng, đã là thần tiên, vô liêm sỉ một chút cũng không sao, nhưng sao có thể vô liêm sỉ như Đông Hoa? Nàng vò nát chiếc khăn tội lỗi, lòng bừng bừng nộ khí, tức thì chạy đến đầm Thủy Nguyệt tính sổ với Đông Hoa.
Vài bông tuyết rơi, Phượng Cửu cúi đầu, bước gấp, lại nhìn chiếc khăn trong tay.
Bởi vì gần đây nàng đã coi mình là một vị tiên độ lượng, một người có thể biết tiến biết lùi, vậy là cho rằng, thực ra dù Đông Hoa không đề nghị tự biến thành cái khăn để nàng xả giận, thì một vị tiên độ lượng như nàng, nhiều nhất cũng chỉ lặng lẽ ghi hận trong lòng, hận chàng chín, mười năm, vài năm sau, vẫn rất muốn tha thứ cho chàng.
Nhưng chàng lại lừa nàng, chuyện này quả thực muốn nhẫn nhịn cũng không thể. Đông Hoa khi làm trò lừa dối như vậy, lẽ nào không nghĩ, nếu bị nàng phát giác sẽ hận chàng suốt đời? Hay là chàng cho là, nàng hoàn toàn không có trí tuệ phát giác ra trò lừa đó? Theo hiểu biết của nàng về Đông Hoa, có lẽ khả năng thứ hai hợp lý hơn, cơn phẫn nộ bỗng chốc tăng gấp bội.
Thủy nguyệt bạch lộ mọc đầy trong đầm Thủy Nguyệt, là thánh địa của cốc Phạn Âm. Trong truyền thuyết, thủy nguyệt bạch lộ là một loại thần mộc sống ba ngàn năm, chết ba ngàn năm, vì vậy đầm mới có tên như vậy. Mặc dù gọi là đầm, thực ra nó giống hồ hơn, trong đầm rộng bát ngát có cả mười dặm rừng cây bạch lộ từ dưới nước mọc lên. Nghe đồn nữ vương Tỷ Dực Điểu đặc biệt thích cây bạch lộ vươn thẳng lên trời ở nơi này, thường đến nghỉ ngơi, tắm suối nước nóng, do vậy đầm Thủy Nguyệt cảnh sắc mặc dù đặc sắc nhưng ít người lai vãng, luôn rất yên tĩnh.
Giữa mây nước sương mù, Phượng Cửu quả nhiên nhìn thấy Đông Hoa ngồi dưới gốc một cây bạch lộ cực lớn đánh cờ với một người, bàn cờ bố trí trên mặt nước, xung quanh sương mù lảng vảng. Nhưng tu luyện của Phượng Cửu quả thật chưa cao, đại khái chỉ có thể nhìn thấy không gian lờ mờ bị Đông Hoa dùng điệp vũ thuật nén lại, Liên Tống mà Tiểu Yến nói, nàng chỉ có thể nhìn thấy cái bóng trăng trắng.
Nhưng cái bóng trăng trắng đó lại nhìn thấy nàng rất rõ, trong lòng Liên tam điện hạ bấy lâu nay, các tiên nữ đáng để chàng quan tâm ngoài Thành Ngọc chỉ có tiểu đế cơ này của Thanh Khâu. Kể từ khi giao du với Đông Hoa, chàng không thấy Đông Hoa có hứng thú đặc biệt với tiên nữ nào vây quanh. Con người Đông Hoa, cơ hồ sinh ra đã chay tịnh, không tơ vương phong nguyệt, ngay đến thượng thần Mặc Uyên được suy tôn là chay tịnh nhất bát hoang, nhưng chàng biết thượng thần từng có mối ân oán tình thù với nữ thần Dao Quang thủy tổ của Ma tộc. Nhưng Đông Hoa nhiều năm nay không để lộ dấu vết, khiến tam điện hạ cảm thấy rất thú vị cũng rất hiếu kỳ.
Nhưng, vị tiên siêu nhiên không vướng bụi trần khiến những bậc tiên tu chưa trọn như chàng kính ngưỡng như Phật, gần đây cơ hồ mắt xanh thế nào lại để vào tiểu nữ vương của Thanh Khâu mới chừng mấy vạn tuổi, còn chưa lớn. Phát hiện này có lúc khiến chàng bàng hoàng như sét đánh bên tai.
Thấy mỹ nhân hỏa khí bừng bừng có vẻ muốn tìm người tính sổ đã sải bước tiên đến cách trăm bước, Liên tam điện hạ hứng khởi như sắp được thưởng thức trò hay, vui vẻ gõ bàn cờ nhắc Đông Hoa lúc này vẫn đang trầm tư nhìn thế cờ: “Vừa mới đến cốc Phạn Âm đã đắc tội với nữ vương của Bạch gia rồi à? Xem bộ dạng này giống như muốn lấy dao băm hiền huynh thành trăm mảnh, đệ thấy hôm nay máu không đổ e là khó rút lui, hiền huynh trêu chọc gì nàng?”
Liên tam điện hạ nhất thời đắc ý sơ suất, quân cờ trắng trong tay đặt lệch vị trí, quân đen trong tay Đông Hoa nhất thời vây riết không nương tình, vậy là trong khi Liên Tống vỗ trán suy nghĩ, Đế Quân hơi ngẩng đầu nhìn Phượng Cửu sắp đến gần, khẽ trả lời câu hỏi của tam điện hạ: “Không có gì, chỉ đánh giá thấp trí tuệ nàng thôi.”
“…”
Nên đòi Đông Hoa món nợ này thế nào đây? Vừa vội vàng lao đi trong đầu Phượng Cửu đã có kế sách, mắng một trận rõ ràng chưa hả giận, rút binh khí băm chàng thành trăm mảnh nàng từng nghĩ, nhưng nàng không phải là không biết tự lượng sức, nếu quả thật là phải rút binh khí, ai băm ai làm trăm mảnh hiện còn khó nói.
Có điều, chiếc khăn mùi soa mà Đông Hoa biến thành quả thực thêu rất đẹp, khi dày vò nó nàng không ngắm kỹ, nhưng vừa rồi trên đường đi đã nhìn rất kỹ, phát hiện ở một góc khăn, dọc theo chân đường thêu, có thêu một chữ “Cơ” rất nhỏ, xem ra đây không phải là chiếc khăn tùy tiện biến ra, mà giống như vật Đông Hoa thường mang theo người, có lẽ là do ý trung nhân Cơ Hoành của chàng tặng.
Phượng Cửu sực nhớ mình đã trân trọng thế nào miếng bạch ngọc đeo cổ do Đông Hoa tặng, cho rằng Đông Hoa đã quan tâm Cơ Hoành như vậy, nếu giẫm đạp lên chiếc khăn này trước mặt chàng, nhất định chàng sẽ đau lòng hơn nhiều, so với chính chàng bị băm thành trăm mảnh.
Cảm thấy nghĩ ra trò đó thật độc ác, nhưng càng nhìn chiếc khăn càng chướng mắt, nàng băn khoăn nghĩ, trò độc ác đương nhiên vẫn phải làm, khi làm xong sẽ về đọc hai lần kinh phật, coi như chuộc tội với nó.
Nhưng Phượng Cửu trăm suy ngàn tính, lại không tính đến tu luyện có hạn của mình, vừa đặt chân vào đầm Thủy Nguyệt lại bị không gian trong điệp vũ thuật ép ra nguyên hình. Đương nhiên, cho dù biến thành hồ ly nàng cũng là con hồ ly xinh đẹp, sắc lông như huyết ngọc hồng rực, bốn móng lại trắng như tuyết, chiếc đuôi xù phía sau càng diễm lệ, lóng lánh như chùm nắng ban mai, tất cả mọi người ngay cả những ai không ưa súc vật đều không thể không mê tít nhan sắc mĩ miều của nàng. Nhưng, với hình hài đó mà đi tính sổ với Đông Hoa rõ ràng không mấy uy phong. Chưa biết chừng còn khiến chàng thấy rất mới mẻ đáng yêu. Nhưng, nếu quay về thì làm sao dẹp được hỏa khí trong lòng?
Nhìn thấy Đông Hoa cách đó không xa, hình như ván cờ với Liên Tống đã kết thúc, đang ngồi trên ghế đá đợi nàng đến tham vấn. Chàng lại có thể ung dung thư thái như vậy, khiến cảm giác áy náy của nàng lập tức bay đi Tây Thiên, quắp chiếc khăn mùi soa, Phượng Cửu sát khí đằng đằng đi thẳng đến trước mặt Đông Hoa.
Đông Hoa nhìn thấy hình hài mới mẻ của nàng, cơ hồ hơi sững ra.
Nàng bỗng giật mình, trong bao nhiêu sở thích của Đông Hoa có một sở thích là những con thú có lông mềm mượt, có phải vừa nhìn thấy nàng, chàng đã thích rồi? Nhan sắc của nàng xưa nay khó ai sánh được, lúc còn nhỏ, có lần nghịch ngợm nàng bỏ ba đậu[1] vào cơm của tiểu thúc, khiến tiểu thúc đi ngoài ba ngày, nhưng nàng chỉ cần lộ một chút nguyên hình, tiểu thúc đã vui vẻ tha thứ cho nàng, đó là ví dụ sống động ngay từ nhỏ Phượng Cửu đã là hồng nhan gây họa.
[1] Loài thân mộc, hạt có thể làm thuốc, có độc tính, gây tháo dạ mạnh.
Đông Hoa ngồi bên bàn cờ, nhìn vào mắt nàng, vừa chăm chú vừa mông lung, giống như thần sắc chàng khi đúc thanh kiếm, lau lư hương, hoặc quét men bóng cho món đồ gốm vừa mới nung.
Lúc này, đầu những cành bạch lộ màu trắng nhạt trong đầm Thủy Nguyệt tua tủa vươn lên trời, lá hình răng cưa ken dày sum suê xòe tán, nở ra những bông hoa trắng đυ.c như sương mù. Một cơn gió mang theo bụi tuyết thoáng qua, vầng hoa trĩu nặng chao mình, chưa kịp rơi xuống nước đã tan thành sương mù trắng xốp, từng đàn cò trắng bay quanh gốc cây, thỉnh thoảng cất cánh vυ't lên, trong bảng vảng sương mù, tiếng niệm Phật buồn tẻ âm thầm từ xa vọng đến, không biết ai đó đang ngân nga mấy câu Kinh Thi: “Tu đồ đề, phát a nặc đa la tam mạo tam bồ đề tâm giả, vu nhất thiết pháp, ứng như thị tri, như thị kiến, như thị tin giải, bất sinh pháp tướng…”.
Phượng Cửu cảm thấy cảnh tượng trước mắt như hư ảo, nhưng cơ hồ rất hợp với Đông Hoa, có điều lúc này chàng nhìn nàng chăm chú như vậy, trán nàng bỗng toát hai giọt mồ hôi lạnh.
Nàng sực nhớ, chàng từng là bá chủ thiên địa lẽ ra bất luận chàng làm chuyện gì không phải với nàng, là một tiểu bối, nàng vẫn nên cung kính, không thể thất lễ.
Vậy nên nàng do dự nghĩ, bây giờ, rốt cuộc mình có nên dẫm lên chiếc khăn tơ chàng yêu quý trước mặt chàng không?
Tiên quang tỏa sáng quanh Đông Hoa, chàng chống tay vào má nhìn con hồ ly diễm lệ hồi lâu, đột nhiên nói: “Có phải hồi nàng còn nhỏ ta từng cứu nàng?”
Phượng Cửu đang cầm chiếc khăn, ngẩng phắt đầu nhìn chàng, sững sờ một hồi, không gật cũng không lắc.
Đông Hoa lại vẫn còn nhớ đã từng cứu nàng, khiến nàng vừa sung sướиɠ vừa kinh ngạc. Hồ ly đỏ chín đuôi Thiên giới, Hạ giới chỉ có mình nàng, độc nhất vô nhị, bao nhiêu kẻ ngưỡng mộ có tình với nàng, cho nên xưa nay khi ra ngoài du chơi, nàng đều đem chín chiếc đuôi hợp lại thành một, bãn lĩnh này nàng luyện đã nhiều năm, cho dù tu luyện cao thâm như Đông Hoa, không nhìn kĩ cũng không nhìn ra nàng vốn có chín đuôi, cho nên lúc đầu chàng cũng không biết người mình cứu chính là tiểu nữ vương của Thanh Khâu.
Hồi đó ở núi Cầm Nghiêu, khi Đông Hoa cứu nàng thoát khỏi miệng hổ, chắc tưởng nàng là con dã hồ trong núi tu luyện còn sơ sài, nên trùm lên nàng một màng tiên khí bảo vệ, rồi bỏ đi. Thực ra cũng là chuyện hơn hai ngàn năm trước. Hai ngàn năm qua đi, hồ nhan của nàng cũng không thay đổi bao nhiêu.
Nhưng hai ngàn năm sau, trong tình cảnh này, Đông Hoa có thể nhận ra hai người từng có duyên như vậy, không biết nàng luôn đi nhanh một bước, hay là sự đời luôn đi chậm một bước.
Phượng cửu chống tay ngồi trên đất, nhìn đăm đăm chiếc khăn mùi soa quặp trong vuốt, cảm thấy hơi phân vân, quả nhiên tiểu thúc nói đúng, chuyện báo thù nếu không ra tay ngay, rất dễ tàn nguội, trên đường chạy đến đây, nàng đã định ném chiếc khăn vào mặt Đông Hoa. Lúc này lại say đắm cảnh sắc nơi đây, cảm thấy thế giới tinh thần đột nhiên rộng mở, thăng hoa, chiếc mùi soa trong tay cũng không ném ra được.
Thấy nàng mãi không nói gì, Đông Hoa lơ đãng nói: “Vậy là, ta cứu mạng nàng một lần, nàng còn chưa báo đáp, ta lừa nàng một lần, nàng không chấp, coi như báo đáp, khăn tay hãy trả lại ta, nàng giày vò nó phai hết màu ta cũng không chấp”.
Lời Đông Hoa, Phượng Cửu nghe thấy chói tai, cảm giác thế giới tinh thần lại thu hẹp. Nàng cúi đầu: “Thực ra tiểu bối đã trả ơn rồi”, giọng nhỏ như tiếng muỗi.
Đông Hoa ngạc nhiên: “Sao?”
Nàng đột nhiên ngẩng đầu, trợn mắt, giọng mang âm mũi đặc trưng sau khi biến thành hồ ly, giận dữ hỏi chàng: “Có phải tiền bối rất thích chiếc khăn này? Bởi vì là của Cơ Hoành tặng?” Lời vừa dứt liền giơ vuốt phải lắc cái khăn trước mặt chàng, sau đó lại bịt mũi khẽ xì, rồi vo tròn ném xuống chân, tiếp theo lườm chàng một cái, quay người bỏ chạy, được mấy bước còn quay đầu chun mũi làm mặt xấu với chàng.
Đông Hoa ngây người nhìn theo bóng hồng xinh đẹp, cảm thấy dạo này nàng sinh động hoạt bát hơn nhiều so với hồi còn ở Cửu Trùng Thiên.
Liên Tống điện hạ ẩn trong cung Nguyên Cực cách xa vạn dặm xem xong tấn trò đó, là vị thánh tình nổi tiếng Cửu Trùng Thiên, chàng có chút khúc mắc muốn thỉnh giáo Đông Hoa, hắng giọng rồi lên tiếng: “Có lẽ đệ đã nhận ra ẩn tình rồi, kì thực hiền huynh đã hiểu nàng bực mình vì bị huynh biến thành chiếc mùi soa, cũng nhận ra huynh cần biến thành chiếc mùi soa để nàng giày vò xả hận, tại sao còn làm cái khăn giả chọc tức nàng?”
Đông Hoa cúi nhìn chiếc khăn nhàu nát dưới chân, nếu đó là hình hài chàng biến ra, thì bộ dạng chàng bây giờ đã thảm hại như chiếc khăn kia, thong dong đáp: “Ta không ngốc.”
Liên Tống ngây ra hồi lâu, nói: “… Đương nhiên, hiền huynh không ngốc, có điều đã gây ra chuyện dở như thế, nếu huynh có thể thu xếp êm thấm, từ nay đệ sẽ gọi huynh là gia gia”.
Bàn tay Đông Hoa đang thu bàn cờ chợt dừng, thủng thẳng nói: “Nghe đâu Thái Thượng Lão Quân mới luyện được một loại tiên đan, uống vào có thể quên một số chuyện, không có thuốc giải, tuyệt đối không nhớ lại được, hôm nào đệ tìm ông ta xin cho ta một bình.”
Khóe miệng Liên Tống mấp máy: “… Huynh làm vậy với nàng có phải hơi bỉ ổi?”.
Bàn cờ Đông Hoa đã thu xong, suy nghĩ rất nghiêm túc rồi trả lời vắn tắt: “Không cảm thấy”. Lại nói thêm: “Lần sau gặp lại, nhớ gọi ta là gia gia.”
“…”.
Hôm trước, danh sách những người tham dự đua tài đã được công bố, trong đó quả nhiên không có tên Cửu Ca. Khi biết tin xấu đó Phượng Cửu quấn chặt người trong tấm chăn nhàu, ngồi bên cửa sổ suy nghĩ miên man, gió lạnh buốt không xua được nỗi buồn, nàng hít nước mũi băn khoăn nói với Tiểu Yến cũng ngồi trong phòng: “Phu tử đã biết muội là chỗ quen biết cũ của Đông Hoa, ông ta vốn là người biết điều, lẽ ra không cần Đông Hoa mở lời cũng nên biết điều cho muội vào danh sách đi đấu mới phải, tại sao vẫn không có tên muội? Hay là người viết sơ suất bỏ sót?”
Tiểu Yến hắt hơi, xoa mũi than thở: “Không ngờ vị phu tử đó lại là người không sợ cường quyền, trung trinh oanh liệt, mỗ phải nhìn ông ta bằng con mắt khác.” Phượng Cửu rất muốn nhắc chàng ta, trung trinh oanh liệt dùng trong trường hợp này không chính xác, nhưng nghĩ lại, thấy Tiểu Yến gần đây khi nói năng rất thích sử dụng thành ngữ, càng thể hiện có văn hóa, không phải là chuyện không hay. Nàng nhìn ra lớp tuyết dày ngoài cửa sổ, cảm thấy bàn luận với Tiểu Yến vấn đề có tính logic cao như vậy là sai lầm, liền chuyển sang vấn đề đơn giản hơn: “Nói đến Đông Hoa, khi chúng ta rơi xuống cốc Phạn Âm, huynh và ông ta đã đấu một trận, muội tưởng thù nhân tái ngộ sẽ rất nóng mặt, mấy hôm nay hai người nhất định tìm cơ hội tỉ thí lần nữa…” Họ mãi chưa giao đấu, nàng đã chờ đến sốt ruột.
Mặt Tiểu Yến lại đỏ ửng, ngẩng đầu giọng đắn đo: “Muội… muội lo cho mỗ à?”
Mắt chàng ta sáng lên phấn khởi, đi đến vỗ vai nàng: “Tiểu muội ngoan! Mặc dù muội đã từng là người trong cung của Mặt lạnh, nhưng có lương tâm như vậy, không thẹn với tấm lòng tôn trọng mỗ dành cho muội!”
Phượng Cửu bị chàng vỗ mạnh, ngật trước ngưỡng sau, lòng hơi hổ thẹn, không đáp, nghe chàng trịnh trọng giải thích: “Thực ra, ngay hôm đầu tiên Mặt lạnh vào cốc Phạn Âm, khi mỗ và ông ta oan gia ngõ hẹp gặp nhau, hai bên đã có một thỏa thuận, ông ta không can thiệp vào quan hệ của mỗ với Cơ Hoành, mỗ cũng không tìm ông ta để rửa hận”
Phượng Cửu xoa vai, không hiểu, hỏi: “Chuyện này can hệ gì tới công chúa Cơ Hoành?”
Tiểu Yến ngạc nhiên: “Chẵng lẽ mỗ chưa nói với muội, Cơ Hoành năm xưa bỏ trốn với thị vệ Mân Tô, chính là chạy tới cốc Phạn Âm này?” Chàng ta gãi đầu, khuôn mặt như hoa mùa thu dưới trăng chợt ửng hồng: “Thực tình mỗ cũng chỉ mới biết nửa năm trước, tìm hiểu suốt nửa năm mới biết manh mối, thị vệ Mân Tô mà Cơ Hoành si mê thì ra lại là nữ cải nam trang, hơn nữa nàng ta lại thích ca ca của Cơ Hoành, sau khi biết chân tướng sự việc Cơ Hoành không chịu nổi, cãi nhau với Mân Tô một trận kịch liệt rồi chia tay, nhưng thấy không còn mặt mũi nào quay về Ma tộc, liền ở lại cốc Phạn Âm làm một chức mọn, nhạc sư cung đình”
Trong mắt Tiểu Yến là một ánh sáng khác hẳn, sôi nổi nói với Phượng Cửu: “Muội còn nhớ lúc chúng ta bị hỏi tội ở triều đường không? Mặc dù Cơ Hoành đã trùm khăn che mặt, nhưng vừa nhìn ta đã nhận ra ngay, nửa năm nay, chúng ta qua lại với nhau rất tốt, ta thấy rất thú vị!”
Phượng Cửu nghe những lời hoang đường từ miệng Tiểu Yến nói ra giống như tiếng tiên vẳng lại từ nơi nào, trong đầu chỉ đọng một điều, Tiểu Yến tráng sĩ cuối cùng đã biết sử dụng từ “ta” quả là một tiến bộ.
Còn Cơ Hoành, Phượng Cửu nhớ lại, vẫn cảm thấy dường như nàng ta đã trở thành một ký hiệu trong ký ức, mặc dù Yến Trì Ngộ nói, họ từng gặp nhau tại đại điện, nhưng nàng không thể nào gắn thiếu nữ áo trắng đứng trong đại điện với công chúa Cơ Hoành năm xưa.
Nhắc đến Cơ Hoành, tâm trạng Phượng Cửu hơi phức tạp, Cơ Hoành không giống Tri Hạc, nàng không thể nói rõ có ghét nàng ta hay không, cho dù vì Đông Hoa, Phượng Cửu rất thiên kiến với Cơ Hoành, nhưng không thể vì vậy mà phủ nhận lòng tốt của Cơ Hoành với mình. Phượng Cửu vẫn nhớ, trong Thập ác liên hoa cảnh, Cơ Hoành đã thật lòng bảo vệ nàng, đương nhiên, ở Cửu Trùng Thiên, nàng đã vô ý làm Cơ Hoành tổn thương, nhưng Cơ Hoành cũng làm nàng tổn thương, coi như hòa.
Trước nay nàng không cho rằng năm xưa mình từ bỏ Đông Hoa là tác thành cho họ, nhưng nàng không thể ngờ, Cơ Hoành có thể bỏ Đông Hoa vào đúng đêm đại hôn, nàng quả thực có phần khâm phục nàng công chúa Ma tộc đó. Có điều, loanh quanh thế nào, cuối cùng hai người đó lại tái ngộ ở cốc Phạn Âm này, chắc chắn đã làm cảm động thiên địa mới có được duyên phận đó. Khách quan mà nói, bất chấp những chuyện đã xảy ra, Đông Hoa vẫn còn thích Cơ Hoành, vậy họ được ở bên nhau âu cũng là lẽ đương nhiên.
Tóm lại, từ những tin bình thường, đến tin bí mật ở cốc Phạn Âm, Yến Tri Ngộ đều nói đến. Cơ Hoành là mối tình duy nhất của Đông Hoa bao nhiêu năm, nàng không thể vì mình và Đông Hoa vô duyên mà ích kỷ mong Đông Hoa suốt đời cô đơn. Sự hẹp hòi đó không phải là khí độ của nữ vương đệ nhất bát hoang, Thanh Khâu Phượng Cửu.
Trong lòng đã nghĩ thông như vậy, đột nhiên trong lòng cảm thấy thiên địa thật bao la, trời xanh mây trắng, trong lòng thật thanh thản, nàng muôn phần kính phục bản thân, đã một lòng hào hiệp tác thành cho họ.
Có điều, suy đi tính lại, Đông Hoa thân là bậc tiền bối, tùy tiện đem một tiểu bối là nàng vứt ở cốc Phạn Âm này để nàng rơi vào hiểm cảnh đúng là không thể tha thứ, nàng cho rằng mình vẫn nên khi hận trong lòng thì hơn.
Nhưng, những điều đó, thực ra đều không quan trọng, quan trọng hơn, khiến nàng thực sự phiền muộn là chuyện khác, nàng không được tham dự cuộc so tài năm nay của học phủ, làm sao lĩnh được quả bần bà chỉ dành cho người ưu tú nhất? Không được quả bần bà, làm sao cứu Diệp Thanh Đề? Lẽ nào chỉ còn cách lấy trộm? Lấy trộm, thực ra chưa hẳn không phải là cách hay, vậy có cần kéo Tiểu Yến vào việc nguy hiểm nhưng vô cùng ý nghĩa này? Phượng Cửu suy nghĩ một lát, cảm thấy để chắc chắn, chết cũng phải kéo Tiểu Yến vào cuộc.
Tuy nhiên lấy trộm quả bần bà không dễ, cây thần đó nhìn bên ngoài tưởng chừng như không ai trông nom, nhưng theo tin mật từ Tương Lý Manh, bốn góc quanh cây có bốn tấm bia đá cực lớn, trong mỗi tấm bia đá đều có một con mãng xà chuyên bảo vệ cây thần, nếu phát hiện có kẻ xâm phạm, kẻ đó còn chưa chạm tay vào quả, e là đã bị chúng lao ra cắn đứt cổ. Khi Tương Lý Manh kể cho Phượng Cửu nghe đến đây còn giơ tay làm động tác cắt cổ, đồng thời đôi mắt phượng dài lóe lên hàn quang sắc như gươm, khiến nàng rợn sống lưng, cảm nhận sâu sắc mức độ nguy hiểm nếu định lẻn vào lấy trộm quả thần.
Phượng Cửu nghĩ, mặc dù trong hai người có Tiểu Yến pháp thuật cao cường, nhưng chưa điều tra rõ tử huyệt của bốn con mãng xà kia, lỡ Tiểu Yến manh động không may bị mãng xà nuốt sống. Nghĩ tới đây, nàng nghiêm túc ngắm Tiểu Yến một hồi, nhìn chàng môi hồng da trắng mà ảo não, người đẹp như thế nếu bị mãng xà nuốt sống thì đáng tiếc biết mấy.
Phượng Cửu đã tìm ra một kế vẹn toàn.
Sau ba ngày vắt óc suy nghĩ.
Mãi đến sáng sớm ngày thứ ba, khi những tia nắng đầu tiên rọi lêи đỉиɦ núi bạt ngàn tuyết phủ phía xa, Phượng Cửu vẫn chưa nghĩ ra được kế gì, thì đã nghe nói, sáng hôm nay có bài giảng của Đông Hoa về trà đạo, bài giảng sẽ tiến hành ở đầm Nguyệt. Ý nghĩ đầu tiên của nàng là phải bỏ học, dùng xong bữa sáng hơi bình tĩnh một chút, lại cảm thấy thực ra mình không nợ nần gì Đông Hoa, hà tất phải trốn tránh, suy nghĩ một lát, rút hai quyển sổ nhỏ trong đống sách cao như núi, nhìn ra ngoài trời, quen thuộc đường lối, đi thẳng đến đầm Nguyệt.
Bài hôm nay sẽ giảng về trà đạo. Trong ấn tượng của Phượng Cửu, tất cả mọi sự, chỉ cần dính tới chữ “đạo” là không tránh khỏi nói dai nói dài, nhưng có lần, nàng đã được Chiết Nhan giáo huấn, thực ra cái gọi là nói dai nói dài đó chính là sự công phu tinh tế, yêu cầu thập toàn thập mĩ đến từng chi tiết, là biểu hiện của tâm hồn thanh cao và thị hiếu thượng đẳng. Có điều, sự nói dai nói dài của Đông Hoa không phải do tâm hồn thanh cao, thị hiếu thượng đẳng, xưa nay nàng vẫn biết, quả thực chỉ vì chàng sống quá lâu, thời gian là thứ vô tận nhất trong cuộc đời dài dặc của chàng, cho nên phàm những việc càng phải bỏ nhiều thời gian, càng cần nhẫn nại chàng càng hứng thú. Ví dụ, để phù hợp chủ đề bài giảng, chàng đã kỳ công bố trí giảng bài bên đầm Nguyệt, hơn nữa còn biến cảnh đông hàn băng tuyết của đầm Nguyệt thành sắc xuân tràn trề sinh khí. Thực ra, đối với chàng những thứ lặt vặt đó chẳng mấy ý nghĩa, đa phần là chàng cho rằng coi như tìm được trò chơi để gϊếŧ thời gian. Về mặt này nàng rất hiểu Đông Hoa.
Nhưng hôm nay Phượng Cửu nhớ nhầm thời gian buổi học, phá lệ đến rất sớm.
Bên đầm Nguyệt chưa thấy bóng ai, chỉ có mấy con cá đuôi trắng thi thoảng từ mặt nước vọt lên, làm xao động khung cảnh tĩnh mịch. Phượng Cửu ngáp dài nhìn những lộc non mới nhú trên đầu cành bạch lộ, trong mười dặm vuông quanh đầm băng tuyết đã tan, sắc xuân mơn mởn hiện ra trước mắt. Không có việc gì làm, sau khi ngáp mấy cái, khí xuân ấm áp làm nàng buồn ngủ, nhìn trời hình như vẫn còn sớm, liền dạo quanh đầm một vòng, chọn một thảm hoa dại mềm mại dưới gốc cây cổ thụ, định ngủ thêm chút nữa giữa trời đất thênh thang, nhân tiện tiếp tục suy tính làm sao lấy được quả bần bà.
Nhưng vừa nằm chưa đủ một khắc, đã nghe thấy tiếng bước chân lại gần, khi gió đưa tiếng bước chân đến, Phượng Cửu còn tưởng vẫn đang trong mơ, bàng hoàng một hồi mới nghĩ ra mình vừa nằm xuống chưa lâu, chưa kịp ngủ, sao đã kịp mơ.
Chủ nhân của tiếng bước chân đó, khi nghĩ tới, trong ký ức chỉ cảm thấy nó đã trở thành một ký hiệu mờ nhạt, bây giờ mới hiểu, ký hiệu đó trong chớp mắt sẽ trở thành con người thật. Chủ nhân của tiếng bước chân chính là Cơ Hoành, giọng oanh vàng lánh lót không hề khác so với ba trăm năm trước. Phượng Cửu không hiểu tại sao diện mạo, bóng hình Cơ Hoành lại mờ nhạt trong ký ức của nàng, duy chỉ có giọng nói lại lưu dấu ấn sâu như vậy, sâu đến mức người đó vừa nói ra hai tiếng “sư phụ” nàng đã biết chính là Cơ Hoành.
Cơ Hoành đã gọi như vậy, người kia đương nhiên là Đông Hoa.
Phượng Cửu khẽ trở mình, sau khi nghe thấy tiếng bước chân đó, gọi xong hai tiếng, Cơ Hoành nói tiếp: “Lần này sư phụ muốn nước trà có màu xanh lục của mắt cua ư? Vậy nô tỳ đi chuẩn bị ấm chén men sứ màu bích phù dung, mặc dù xưa nay sư phụ thích dùng ấm chén men sứ đen huyền sẽ càng làm nổi bật màu xanh ngọc của trà, nhưng ấm chén màu bích sẽ làm nổi bật nước trà xanh lục màu mắt cua, nô tỳ cho rằng nên dùng ấm chén màu bích phù dung, sẽ càng tương hợp sắc xuân hôm nay”. Đông Hoa hình như “ừ” một tiếng, không thật nhiệt tình hưởng ứng, nhưng Phượng Cửu cảm giác khi chàng kiểm tra ấm chén, có thể phân tâm ừ một tiếng, ít nhất cũng chứng tỏ chàng không thấy bị quấy rầy. Không, người ta đồn chàng luôn có tình ý với Cơ Hoành, vậy ý nghĩa của tiếng “ừ” đó đương nhiên không phải chỉ có vậy, chưa biết chừng còn chứng tỏ chàng thích tri thức uyên thâm của Cơ Hoành cũng nên.
Phượng Cửu nghe lỏm được như vậy, cảm thấy đây đúng là cuộc đối thoại uyên thâm điển nhã, bản thân nàng chưa chắc cả đời đạt được trình độ đó, đồng thời bất giác lại thấy tiếc cho Tiểu Yến. Tiểu yến xưa nay uống trà bằng cốc vại, nhìn đã biết không hợp với Cơ Hoành, Cơ Hoành còn biết Đông Hoa thích dùng ấm chén men sứ đen huyền. Mặc dù chính Tiểu Yến nói, gần đây chàng qua lại với Cơ Hoành rất thú vị, nhưng Phượng Cửu lại thấy họ không ổn. Lúc đầu, khi chính miệng Tiểu Yến xác nhận Đông Hoa có tình cảm với Cơ Hoành, đương nhiên nàng rất bàng hoàng, nhưng hôm nay bất chợt gặp Cơ Hoành, nhìn hai người có thể trở về bên nhau, lòng nàng lại không mấy xao động. Thời gian quả nhiên là liều thuốc tốt, nhiều nhiều năm trôi qua, cuối cùng nàng đã có chút tiến bộ.
Qua đám mạn châu sa đỏ chói, phía này được Đông Hoa dùng phép thuật biến thành cảnh mùa xuân, khác hẳn cảnh băng tuyết vạn dặm mọi ngày. Phượng Cửu giơ tay che mắt, qua kẽ ngón tay nhìn thấy một bông hoa cực lớn lắc lư trên đầu, tựa như làn sóng biển màu đỏ, nàng bị chìm trong cơn sóng đó, đang nép mình ẩn náu.
Sau khi trao đổi một câu như vậy, hai người bắt tay chuẩn bị dụng cụ cho buổi trà đạo, mãi không thấy nói gì nữa. Phượng Cửu nhắm mắt, lại có nhiều tiếng bước chân ngắt quãng, rất nhẹ vẳng tới, có lẽ là các cô gái từng tốp vài người đến nhận chỗ ngồi, xem ra vẫn còn quá sớm. Đêm qua suy nghĩ hơi nhiều, lúc này nàng hơi mệt, đang định tranh thủ thời gian ngủ chút nữa, đột nhiên đằng trước mé bên phải có tiếng nói thầm thì. Lễ nghĩa của Bạch gia mặc dù xưa nay tản mạn, nhưng gia giáo cũng rất nghiêm, nghe lén chuyện người khác tuyệt nhiên không vẻ vang, Phượng Cửu giơ tay định lấy ống tay áo bịt tai, giọng oanh vàng lại véo von lọt vào tai.
Hai giọng đó, nàng chưa nghe bao giờ, một giọng trẻ trung thanh thanh nghe rất quý phái hỏi: “Người ngồi cạnh gốc cây bạch lộ tráng ấm chén kia chính là Đông Hoa Đế Quân mà Khiết Lục thích ư? Nghe nói, từ thưở hồng hoang chàng đã từ Bích Hải hóa sinh, đã sống không biết bao nhiêu vạn năm, nhưng tại sao trông lại trẻ như vậy?”
Một giọng già trầm tĩnh hơn trả lời: “Bởi vì những vị thần từ thời Thượng cổ như Đế Quân đương nhiên khác với Hồ tộc chúng ta, Hồ tộc một khi thọ quá ngàn tuổi là nhan sắc phai tàn, nhưng Đế Quân tuổi thọ ngang trời, là do…”
Cô nương thuộc bộ tộc Linh Hồ cười “khạch” một tiếng, giọng vẫn thanh lảnh: “Nghe đồn, Đông Hoa Đế Quân ngồi ở ngôi cao, uy nghi tối thượng, lại đoan chính không gần nữ sắc. Nhị ca ca, cũng không gần nữ sắc, cho nên bên cạnh toàn các tiểu đồng hầu hạ, nhưng muội thấy lúc này, người chuẩn bị nước, ấm chén cho Đế Quân rõ ràng là một cô nương mĩ miều.” Người đó dừng lại, tinh nghịch nói: “Như vậy là lời đồn không đúng, ca ca nói xem, nếu muội…”
Giọng trầm tĩnh kia đột nhiên căng thẳng, vội ngắt lời nàng ta: “Công chúa, muội định làm gì?”
Không nghe thấy lời đáp, giọng nói kia càng cuống: “Theo thuộc hạ thăm dò, cô nương áo trắng kia có thể hầu hạ bên cạnh Đế Quân chứng tỏ không phải tầm thường, đó chính là người hai trăm năm trước đã rơi xuống cốc Phạn Âm, làm nhạc sư trong cung, hai năm sau Đế Quân đến cốc Phạn Âm giảng bài. Nhiều năm như vậy Đế Quân chỉ để mình nàng ta theo hầu. Công chúa vốn thông minh, tất đã đoán ra điều này nghĩa là gì, nếu thất lễ với cô nương kia, hậu quả Hồ tộc chúng ta tuyệt nhiên không thể gánh vác, công chúa hành sự nên cân nhắc kỹ…”
Một cơn gió thổi qua, đám hoa đó dập dờn tựa như tấm thảm chao nghiêng, công chúa Hồ tộc lặng lẽ hồi lâu sau những lời điềm tĩnh, hợp tình kia. Phượng Cửu vô tình nghe được cũng yên lặng theo. Nàng hiểu ra ba điều. Thứ nhất, giọng nói thanh lảnh không quen kia thì ra là vị công chúa thứ bảy của bộ tộc Linh Hồ, nghe nói cơ duyên ngẫu hợp tối qua đến chơi được nữ vương Tỷ Dực Điểu cho phép đến học phủ nghe giảng bài và tùy tùng của nàng ta. Thứ hai, Đông Hoa lần này đến cốc Phạn Âm thì ra không phải là để cứu nàng, mà là mượn cớ hẹn hò với Cơ Hoành. Thứ ba, tùy tùng của công chúa là người có tài, trong lúc khẩn cấp vẫn nói năng khúc triết có tình có lý như vậy, có thể đưa về Thanh Khâu làm văn thư ở đại điện.
Phượng Cửu nghĩ một hồi, lại bàng hoàng một hồi, nghe thấy tiếng chân vội vàng dường như là hai người đã bỏ đi, giơ tay vuốt món tóc xõa trước trán. Đông Hoa lần này đến cốc Phạn Âm là vì lý do đó. Thực ra, đây mới phù hợp với phong cách hành xử vốn có của chàng, chàng quả đúng không mấy bận tâm đến sự sống chết của nàng. Nhưng khi tái ngộ, nàng lại nhầm tưởng chàng đến cứu mình. Bỗng thấy hơi xấu hổ, nhất định chàng sẽ cảm thấy bộ dáng đùng đùng nổi giận của nàng lúc đó rất nực cười. Một người có tư cách giận dỗi người khác, ít nhất cũng phải có vị trí nào đó trong lòng người kia, chí ít cũng phải ở cách lòng người ta một thước. Nhưng Đông Hoa đến đây, chỉ cốt để gặp Cơ Hoành xa cách mười năm mới gặp một lần, chẳng liên quan gì đến Phượng Cửu này. Thực ra chuyện rất bình thường, chàng vốn không thể coi nàng là gì. Phượng Cửu trở mình điều chỉnh tư thế, lại bàng hoàng, đầu bỗng trống rỗng không biết đang nghĩ gì, sau khi định thần trở lại, ngao ngán ngáp dài, bắt đầu học theo cách Chiết Nhan đã dạy, nhẩm đếm hạt đào là sẽ ngủ được.
Phượng Cửu cảm thấy dường như mình ngủ rất sâu, nhưng mấy khắc lại tỉnh, bài giảng về trà đạo đã lặng lẽ diễn ra trong lúc nàng ngủ, lúc mơ màng sắp tỉnh, loáng thoáng nghe tiếng các đệ tử ngồi gần nhất bàn luận sôi nổi vấn đề tư tưởng triết học duy tâm và trà đạo cao thâm, khiến nàng nửa tỉnh nửa mơ lại rơi vào giấc mộng. Không biết nàng ngủ bao lâu, trong mơ có tiếng bước chân xa dần, cùng với tiếng bước chân là giọng nói khe khẽ của một đệ tử nào đó, phàn nàn: “Đang giữa đông hàn, hiếm hoi mới được ngắm tiết xuân ấm áp trong mười dặm rừng bạch lộ, Đế Quân lại không thể nương tay kéo dài thêm chút thời gian nữa!”
Phượng Cửu thầm thở than, đệ tử nào đó quá ấu trĩ, không hiểu Đế Quân, xưa nay không có hứng nương tay với bất kỳ ai.
Lát sau, có vật gì mềm mượt tựa lông ngỗng, lạnh như băng lướt trên mặt, nhưng đó mới là khúc dạo đầu, hơi ấm trên thảm hoa dưới lưng đột nhiên biến mất, gió tuyết bỗng ù ù lùa vào ống tay áo, tuyết còn luồn qua vạt áo chui vào người lạnh buốt, Phượng Cửu kinh ngạc vùng dậy, hắt hơi liền mấy cái, cố mở mắt, hơi lạnh theo sống lưng từng tấc bò lên, lạnh đến mức nàng nằm co như còn tằm trong kén, đầu choáng váng u u, như hiện ra hàng chữ: “Bạch Phượng Cửu, sao mi ngốc thế, chọn hoài chọn mãi, cuối cùng chọn đúng nơi quỷ quái này mà ngủ, không biết mạn châu sa một khi gặp tuyết sẽ đưa người nằm trên nó rơi vào mộng mị triền miên?” Sau đó trong đầu lại âm thầm tự trả lời: “Phải, mình ngốc, đích thị quá ngốc.” Nàng run lẩy bẩy tự trách mình ngu xuẩn, nửa canh giờ sau rét cóng ngất xỉu.
Nghe đồn Phượng Cửu có tật, hễ ốm là thích làm nũng, hơn nữa lại làm nũng một cách vô cùng thú vị. Theo chứng thực bảy mươi năm trước, thượng thần Thương Di ở núi Chúc Việt say mê Phượng Cửu không cách nào cứu vãn, chính là do chỉ một lần chứng kiến nàng bị ốm. Có thể thấy đó không phải là lời đồn thất thiệt.
Phượng Cửu lần này bị rét cóng hơn nửa canh giờ giữa trời băng tuyết, mặc dù được người nào đó tốt bụng cứu, đưa về ủ trong chăn ấm nửa ngày, nhưng rốt cuộc bị nhiễm thương hàn rất nặng, hơn nữa dư độc của hoa mạn châu sa vẫn còn. Trong giấc mơ, đầu óc nàng một mớ hỗn độn, cảm giác mình lúc này là một con tiểu hồ ly bé tí, nằm thoi thóp bên giường là do thi bắt cá với con sói xám bên kia núi, không may bị sặc nước chìm nghỉm.
Có bàn tay ai đặt lên trán, lúc nàng còn chút tri giác, thấy hơi lạnh, nên lùi về sau, thụt hẳn trong chăn. Bàn tay đó hơi ngừng, rồi dùng chăn quấn chặt người nàng, chỉ để hở miệng và mũi, lại kéo chăn chèn dưới cái cằm thon nhỏ của nàng, cảm thấy dễ chịu hơn một chút, nàng nịnh bợ cọ má vào tay ai đó. Lúc nhỏ nàng rất biết cách tỏ ra ngoan ngoãn để nịnh bợ ai đó, cho nên cái chiêu đó lúc này khi còn đang nửa tỉnh nửa mơ đã bộc lộ một cách bản năng. Nhưng trong mơ nàng vẫn nhận ra, dù được nịnh bợ bàn tay ai đó lại không âu yếm xoa đầu nàng đáp trả. Điều này rất không bình thường. Phượng Cửu lập tức tự phản tỉnh, cho rằng, bên kia chê mình nịnh chưa đủ, nghĩ vậy thò tay ra khỏi chăn sau khi nắm được bàn tay kia, rất thành tâm thành ý nhiệt tình cọ má vào đó.
Nắm bàn tay đó, cảm giác thấy các đốt vừa dài vừa mảnh, lúc trước còn lạnh nắm một lát đã trở nên nóng ấm. Có vẻ rất giống bàn tay mẫu thân nàng, Phượng Cửu dùng cái đầu u u mê mê của mình để suy xét và cảm thấy, có thể dịu dàng âu yếm như vậy đối với nàng chỉ có mẫu thân nàng. Mặc dù bàn tay đó, không mềm cũng không ấm như bàn tay mẫu thân, có lẽ do trời quá lạnh nên bàn tay bà cũng tê cóng. Lòng bỗng xót thương, dẩu môi lẩm bẩm mấy câu, kéo ngón tay lên miệng thận trọng hà mấy hơi, rồi nắm lấy định ép vào ngực mình, định sưởi ấm cho nó. Nhưng bàn tay kia không biết bằng cách nào đã kịp thời né tránh trước khi được nàng ép vào ngực, đồng thời có tiếng nói sát bên tai giống như người đó đang cúi sát nàng.
Phượng Cửu cảm thấy cử chỉ này của mẫu thân rõ ràng vẫn không chấp nhận tình cảm của nàng. Chứng tỏ, mặc dù bây giờ bà đang dịu dàng, nhưng khi nàng khỏi ốm chưa biết chừng vẫn không thể thoát khỏi mấy cái roi.
Nghĩ đến đây nàng rùng mình, thì nghe thấy tiếng hỏi: “Còn lạnh không?” Giọng nói nhẹ thoáng qua, cơ hồ từ rất xa vọng lại, không phân biệt được âm sắc, xem ra mình ốm không nhẹ. Đang lo lắng lại thở phào, mẫu thân đã chịu hỏi nàng như vậy, chứng tỏ chuyện này vẫn còn cơ vãn hồi, nếu cứ tỏ vẻ đáng thương, rất có thể tránh được trận đòn.
Nàng gật đầu thật mạnh mấy cái, cố hắt hơi hai cái, hắt hơi xong lại tủi thân cắn môi: “Không phải Phượng nhi cố ý ngã xuống biển, ngủ một mình lạnh lắm, lạnh lắm, mẫu thân hãy ngủ cùng Phượng nhi…” Giọng mũi nũng nịu như những móc câu mềm mại móc vào lòng từ mẫu. Phượng Cửu thầm gật đầu khâm phục tài làm nũng của mình.
Nhưng từ mẫu nàng hôm nay lại tỏ ra kiên định khác thường, một chuỗi tiếng động nhẹ vang lên, hình như là cầm cái chậu chuẩn bị đi ra, vừa bước vừa lẩm bẩm: “Bắt đầu mê sảng, xem ra bệnh không nhẹ.” Tiếng nói nghe xa vời, Phượng Cửu không thấy nó tràn đầy xót thương như nàng tưởng tượng, chút xót thương đó liệu có giúp nàng thoát được thoát được trận đòn sau khi khỏi ốm không. Nàng không biết, lòng băn khoăn, lại hoảng hốt nhớ đến những cái roi quất vào người, trong tuyệt vọng, nhân lúc chưa nghe tiếng mở cửa, nàng quyết định dùng độc chiêu cuối cùng, chúi mặt vào chăn, hư hư giả khóc.
Tiếng chân quả nhiên dừng lại, Phượng Cửu đắc ý, lại khóc to hơn, tiếng nói kia lại chậm rãi vang lên: “Khóc cũng không ích gì.” Nàng vừa khóc, vừa thầm nghĩ, nửa khắc nữa nếu từ mẫu còn có thể tỉnh táo lạnh lùng nói ra câu đó, Bạch Phượng Cửu này nhất định tôn từ mẫu là nữ hiệp anh hùng, độc chiêu sở dĩ được gọi là độc chiêu không phải để gọi cho hay.
Vừa rồi còn hư hư khóc nhỏ, bây giờ phấn chấn tinh thần lập tức lấy đủ giọng khóc thật to, lại có ngừng nghỉ, có tiết tấu hẳn hoi, người kia thở dài: “Gào mấy cũng vô ích, ta không phải là…” Nàng lập tức gào to, khiến bản thân cũng váng đầu, cho nên từ cuối cùng kia đương nhiên không nghe được.
Phượng Cửu nghiêm túc khóc hai đợt, phát hiện người kia vẫn chưa bỏ đi, cũng không lên tiếng. Nàng thấy rõ ràng từ mẫu hôm nay đúng là quá tốt, lại nghĩ, nếu khóc thêm trận nữa, từ mẫu vẫn không lên tiếng dỗ dành thì sao, hay là tạm thời thu lại binh khí, khóc nữa sẽ khan cổ, nhức đầu!
Nàng khóc lần cuối, xem ra từ mẫu vẫn không nhượng bộ, da đầu đã phát tê, thầm nghĩ, dạo này mẫu thân đến là khó hiểu, đang phân tâm nhất thời không để ý, bị sặc khí, ho dữ dội, nhưng cuối cùng coi như đã dụ dỗ được mẫu thân đang đứng xa, đi đến gần, nhẹ nhàng vỗ lưng cho nàng.
Nức nở như vậy, nước mắt hòa nước mũi vô cùng khó chịu, nắm lấy vật gì tựa như ống tay đưa lên định lau. Trong mơ màng, thấy bàn tay ai nâng mặt mình lên lau giúp nước mắt nước mũi, cảm thấy bàn tay đó rất lạnh, liền vô ý thức né tránh, lại ấm ức nức nở nói: “Mặc kệ Phượng nhi, cứ để Phượng nhi khóc đến chết cho xong…” Nhưng người đó lúc này có vẻ vô cùng nhẫn nại, nắm tay nàng, an ủi: “Ngoan nào!” Nàng cảm thấy hai tiếng đó hơi quen, cũng khá dịu dàng, nên cũng không làm căng nữa, vùng vằng chút đỉnh rồi chìa cái má và hai mắt khóc đỏ ửng để người đó lau nước mắt cho.
Làm ồn như vậy, nàng cảm thấy mặc dù thái độ của từ mẫu hơi khác mọi lần, nhưng có lẽ vẫn đạt được hiệu quả, có lẽ mẫu thân sẽ bỏ qua cho nàng chuyện mải chơi ngã xuống biển, bất giác thở phào một hơi rõ dài, đúng lúc đó lại nghe giọng nói vừa rồi còn dịu dàng bỗng trở nên bình thường: “Ta đang hơi hiếu kỳ, nàng có thể khóc to nhất đến mức nào, hay là lúc ốm, không thể gào to hết cỡ?”
Nàng không những không cảm thấy phấn khởi trái lại tức trào nước mắt, cảm thấy vừa rồi ra sức khóc như vậy thật uổng công. Nàng giãy giụa vừa lau những hạt nước mắt đáng ghét vừa lùi vào góc giường: “Mẫu thân không thương Phượng nhi, Phượng nhi chết cóng cũng đáng, khóc chết cũng đáng, khỏi ốm, bị mẫu thân đánh đòn cũng đáng!”
Có bàn tay kéo nàng vào trong chăn, quấn chặt như cái kén, nàng cảm nhận rõ ràng ánh mắt người đó dừng trên người mình một lát, giọng nói kia lại vang lên lần nữa: “Ta cho rằng ta không hứng thú trói đánh nàng.” Phượng Cửu nức nở nghĩ, điều đó cũng chưa hẳn, mắt khó chịu nhưng không mở ra được, vừa thầm nghĩ sao mẫu thân dạo này trở nên lạnh lùng như vậy, trận đòn này, dù gì cũng không tránh được, khỏi ốm rồi mình đến rừng đào của Chiết Nhan trốn là thượng sách. Vậy thì phải quan hệ tốt với Tất Phượng Điểu của tiểu thúc để hắn đưa đi mới được.
Đang thầm tính như vậy, lại thấy mình bị quấn chặt hơn, tiếng bước chân đi xa, lát sau lại quay về, chăn lại mở ra, một túi chườm nóng hổi đặt vào lòng nàng, Phượng Cửu ôm túi chườm, còn sụt sịt hai tiếng nữa, mới chìm vào giấc ngủ.
Khi đã ngủ đủ, mở mắt ra, thấy trán toát đầy mồ hôi lạnh, trong lúc ốm, có lúc thần trí không tỉnh táo, bộ dáng mình thế nào nàng rất biết, nhưng cảnh tượng đập vào mắt vẫn vượt quá sự tưởng tượng của nàng. Lúc này Phượng Cửu xiêm y xộc xệch gục trên đùi một người, tay ôm chặt eo người đó, hai người đang ở trên chiếc giường cực kỳ lộng lẫy, với mấy lớp rèm sa trắng vây quanh, phía trước lại có hai bức bình phong cao, trên tấm thảm lụa dưới chân bình phong là lư hương hình kỳ lân đúc nổi, hương an thần trợ ngủ trong lư hương tỏa ra thơm ngát. Tẩm phòng cũng trải thảm lộng lẫy như vậy, nàng chỉ biết hai người, một người là thượng thần Chiết Nhan ở rừng đào mười dặm, một người là Đông Hoa Đế Quân của cung Thái Thần.
Tiếng giở sách sột soạt vang trên đầu, Phượng Cửu lặng lẽ ngước mắt, nhìn thấy kim ấn của kinh Phật trên lớp bìa bọc da, mấy sợi tóc trắng xõa xuống trước mặt nàng. Mồ hôi trên trán nàng toát ra càng dày, trước khi tụ thành giọt rơi xuống, thì tiếng nói từ sau trang sách đã vọng ra: “Đừng sợ, ta không làm gì cô nương, chẳng qua trong lúc ngủ cô nương thấy nóng nên đã tự cởi cúc cổ áo.” Cuốn kinh phật dịch sang bên, quả nhiên là Đông Hoa Đế Quân, người mà nàng không muốn trêu chọc, đang ở sát bên nàng.
Phượng Cửu gục trên người chàng kêu “ôi” một tiếng, kêu xong chân tay cứng đờ dich khỏi người chàng. Lúc này, giả vờ chết là hạ sách, sự nhẫn nại của Đông Hoa, nàng từng có dịp trải nghiệm. Một sự bẽ bàng như vậy, đàng hoàng nhận có lẽ còn cứu vãn vài phần thể diện. Mặc dù nếu nàng tỉnh táo tuyệt đối không mong người cứu mình là Đông Hoa, giờ lại nợ chàng một đại ân, nhưng người ta khi hôn mê, cũng không thể lựa chọn ân nhân cứu mạng, nghĩ một lát, nói: “Lần này Đế Quân lại cứu, tiểu…tiểu…tiểu bối cảm kích tự đáy lòng, nếu không, số phận tiểu bối thế nào cũng khó nói, coi như Đế Quân lại cứu mạng tiểu bối lần nữa, đương nhiên nếu nửa năm trước Đế Quân không đưa tiểu bối đến núi Phù Vũ, tiểu bối cũng không đến nỗi rơi vào cảnh ngộ hôm nay, nhưng chung quy… chung quy lần này vẫn là Đế Quân cứu mạng, đại ân khôn tạ, hai chuyện này chúng ta coi như hòa, Đế Quân chàng thấy thế nào?”
Đầu óc Đế Quân rõ ràng rất tỉnh táo, co chân, duỗi cánh tay nhìn nàng: “Vậy cô nương vẫn còn để bụng chuyện nửa năm trước ta không đến cứu cô nương và chuyện biến thành chiếc khăn?”
Phượng Cửu thầm nghĩ, chàng còn dám nhắc tới hai chuyện đó thật quá to gan, ho khan một tiếng lại tiếp: “Hai chuyện đó…” Hai cái nhọt đó trong lòng nàng đương nhiên không thể một sớm một chiều tiêu tan.
Phượng Cửu chỉnh sửa lại xiêm áo, mấy hôm trước, khi mới gặp lại Đông Hoa, quả thật nàng rất xúc động, còn dễ nổi đóa khi bị chàng trêu, có điều tính nàng xưa nay xả được giận là dễ chịu hơn nhiều. Lại thêm mấy ngày này được biết rất nhiều tin chưa từng biết, khả năng nhìn nhận sự đời của nàng hình như khá hơn, có thể trả lời câu hỏi của Đông Hoa từ một góc độ khác: “Vạn sự có nhân có quả, Đế Quân Phật pháp cao thâm, đương nhiên hiểu đạo lý hơn Phượng Cửu, hai chuyện này, tiểu bối nhìn nhận thế nào chẳng qua chỉ là một cách nhìn nhận mà thôi.”
Nói đến đó, thần sắc hơi phức tạp, tiếp tục: “Thực ra tiểu bối có vấn đề muốn hỏi Đế Quân hơn hai chuyện đó. Tiểu bối cũng biết khi ốm đau tiểu bối có phần thất thường, nhưng nếu như…” Nàng dừng lại, nghiến răng, tiếp tục: “Có lẽ khi ốm tiểu bối yếu người, sợ lạnh, coi Đế Quân là cái lò sưởi để áp vào, nhưng nếu Đế Quân đẩy ra, tiểu bối nhất định không áp vào nữa, khi ốm đau đầu óc không tỉnh táo, tiểu bối áp lại gần, tại sao Đế Quân không đẩy ra, nhất định để tiểu bối rơi vào cảnh khó coi?”
Đông Hoa vẫn thản nhiên, dường như còn hơi nghi ngờ câu chất vấn của nàng: “Cô nương chủ động lao vào lòng ta, ta thấy đó là cơ hội hiếm hoi, về lý mà nói tại sao phải đẩy ra?”
Phượng Cửu nhìn ngón tay chàng hờ hững đặt trên cuốn kinh Phật, không hiểu cái lý mà chàng vừa nói rốt cuộc là cái lý méo mó gì, ngừng hồi lâu mới nghĩ ra câu tiếp: “Tiểu bối còn nhớ trước đây Đế Quân không phải là người trọng lý lẽ…”
Khói thơm từ lư hương tỏa ra nhạt dần, Đông Hoa đứng lên mở nắp lư, cho thêm miếng xạ hương vào, ung dung nói: “Khi ta không muốn nói lý thì không nói, khi muốn thỉnh thoảng cũng coi trọng.”
Phượng Cửu cúi đầu nhìn chàng, chưa nghĩ ra nên nói tiếp thế nào, bất luận là hồ ly hay người, khi nàng và Đông Hoa bên nhau cơ hồ rất khó nói chuyện. Nàng đoán, chắc lần này mới tỉnh dậy sau cơn bạo bệnh, tinh thần sa sút, muốn giành phần thắng trong đấu lý với chàng, cuối cùng mình cũng thiệt thòi, đành miễn cưỡng ngậm miệng, tay xoa mũi, trong lúc đó lại đưa mắt nhìn quanh, thấy phía trước bình phong còn để một bình mai khẳng khiu. Đơn độc và thư thái quả nhiên là phong cách của Đông Hoa.
Giấc ngủ này không biết kéo dài mấy canh giờ, chắc là không ít, nàng thấy hơi lo, sợ Tiểu Yến đi tìm, nhân lúc Đông Hoa đang đổ tro hương, liền xuống giường tìm đôi giày xỏ vào, định cáo từ. Nhưng, vén màn bỏ đi như vậy rõ ràng không phải đạo, thầm lẩm bẩm, vẫn nên cám ơn một câu, đằng hắng một tiếng, khách khí nói: “Bất luận thế nào chiếu cố lần này của Đế Quân Phượng Cửu đều ghi nhớ trong lòng, bây giờ cũng muộn rồi, làm phiền Đế Quân quá nhiều, xin cáo từ.” Đông Hoa thủng thẳng đáp: “Ờ” rồi vừa đậy nắp lư hương vừa tiếp: “Nghe nói hồi nhỏ có lần cô nương đi đêm bị rơi vào ổ rắn, từ đó không bao giờ dám đi đêm nữa, không biết lúc này cô nương có nhìn trời bên ngoài không, đã tối rồi…”
Rèm cửa sổ vừa hé ra, lập tức khép lại, trong chớp mắt, Đông Hoa vừa cho thêm xạ hương vào lư đã bị Phượng Cửu đè ngã xuống giường, chàng ngớ người: “Có phải cô nương quá mẫn cảm?” Từ cuối cùng vừa nói ra, miệng đã bị nàng bịt chặt. Phượng Cửu đè chàng ngã xuống giường vẻ mặt vừa nghiêm trọng vừa đầy toan tính, lại hơi căng thẳng có thể chính nàng cũng không nhận ra, miệng mình đang dán vào miệng chàng, như muốn đo môi: “Đè Đế Quân thế này không phải là chủ ý của Phượng Cửu, Đế Quân nhẫn nhịn một chút đừng gây ra tiếng động nào, vừa rồi tiểu bối nhìn thấy có bóng người lướt qua, hình như là công chúa Cơ Hoành, không biết có phải công chúa định vào đây?”
Đè ngã Đông Hoa quả thật không phải là chủ ý của Phượng Cửu, vừa rồi khi nàng hé rèm cửa, bất ngờ nhìn thấy bên ngoài bức rèm châu có một bóng người áo trắng, không biết có phải đã nép ở đó bao lâu, thoạt nhìn rất giống Cơ Hoành. Cũng may tẩm phòng của Đông Hoa đủ rộng, bên trong còn cách một hồ nước nóng bốc hơi nghi ngút, những câu trao đổi vừa rồi của họ có lẽ Cơ Hoành đã nghe thấy, đang định đi vào, cái bóng trắng lướt qua làm Phượng Cửu giật mình, một cách bản năng muốn quay lại bịt miệng Đông Hoa lúc chàng đang nói để khỏi bị Cơ Hoành phát hiện, nhưng quay người quá gấp, vướng vào tấm thảm dưới chân, chồm đến như hổ đói vồ mồi, hất Đông Hoa ngã ra giường, cả người đè lên chàng.
Đông Hoa nhướn mày, nhấc tay nàng ra, nhưng vẫn nghe lời nàng, hỏi nhỏ: “Vì sao công chúa đi vào, chúng ta không thể gây tiếng động?”
Phượng Cửu thầm nghĩ, nửa đêm canh ba, Cơ Hoành có thể vào tẩm phòng của chàng chứng tỏ hai người có quan hệ không bình thường, nếu phát hiện mình vừa ra khỏi giường của chàng, không biết sẽ xảy ra trận mưa máu gió tanh thế nào. Mấy ngày trước Manh thiếu gia xem sách bói, bảo mình đang có ngôi sao hạn trên đầu cần lưu ý một chút, tình huống này không lưu ý thì lúc nào lưu ý? Mặc dù lòng nghĩ vậy, thốt ra miệng lại là một câu chẳng liên quan, giọng vẫn rất nhỏ, trang trọng nói ra những lời không phù hợp lắm với tuổi của mình: “Đã có duyên phận thì nên trân trọng, hiểu lầm nếu có thể tránh, nên cố tránh, trước đây khi tiểu bối thích một người, muốn xin ông trời một chút duyên phận cũng không được, tiền bối chắc không biết, duyên phận là chuyện muôn phần khó khăn.”
Bây giờ có thể bình tĩnh nói ra những lời đó trước mặt Đông Hoa, khiến bản thân nàng cũng thấy ngạc nhiên, cúi đầu nhìn Đông Hoa đang bị đè bên dưới, trước những lời thống thiết, dài như vậy của mình, chàng vẫn giữ phong độ hoàn mỹ, quả thật không dễ, hơi xấu hổ dịch người ra phía đầu giường khiến chàng đỡ bị đè nặng, đồng thời dỏng tai nghe tiếng động bên ngoài.
Đông Hoa lặng lẽ nhìn nàng một hồi, đột nhiên nói: “Ta cảm thấy cô nương hình như có gì hiểu lầm ta?” Chữ cuối cùng vừa dứt, miệng chàng một lần nữa bị Phượng Cửu mau lẹ bịt chặt.
Khi nàng dỏng tai nghe, tiếng bước chân mỗi lúc một gần, Phượng Cửu vừa bịt miệng Đông Hoa, vừa khâm phục mắt mình tinh tường, quả nhiên Cơ Hoành đang ở bên ngoài, nhưng không ngờ nàng ta lại đi vào thật, khiến nàng vẫn không khỏi kinh ngạc. Trong rèm, ánh nến sáng choang, cảnh tượng này chỉ cần người không mù đều nhìn thấy Đông Hoa chưa ngủ, cũng không biết Cơ Hoành định làm gì, quan hệ giữa hai người lẽ nào đã đến…mức đó? Lẽ nào Cơ Hoành muốn biểu diễn một màn độc đáo nửa đêm canh ba đến kéo rèm giường ngủ của chàng? Phượng Cửu đang kinh ngạc, do vậy tay cũng run run, nhưng dù kinh ngạc vẫn còn đủ tỉnh táo đưa mắt ra hiệu cho Đông Hoa tạm thời giữ Cơ Hoành ở bên ngoài. Trong chớp mắt, cảm thấy thiên địa điên đảo, lúc định thần trở lại, không hiểu thế nào, lại là cảnh tượng, nàng ở dưới, Đông Hoa ở trên.
Tiếng động phát ra không nhỏ, tiếng chân bên ngoài ngập ngừng ít nhiều, Phượng Cửu cố trừng mắt với Đông Hoa, mấy lọn tóc trắng rủ trước trán chàng, hình như chàng không thấy ngại vì cảnh tượng bẽ bàng sắp bị phát hiện, một tay giữ Phượng Cửu, tay kia sờ trán nàng, động tác hơi mạnh, giọng lại dịu dàng: “Gây sự đủ rồi chứ? Đủ rồi thì nằm yên, ta đi lấy thuốc cho.” Nhưng cái xấu là ở chỗ giọng nói vẫn không hạ thấp, người bên ngoài, cách hồ nước nóng có thể vẫn nghe thấy. Phượng Cửu tuyệt vọng rêи ɾỉ, vậy là hết, nếu Cơ Hoành khóc lóc làm ầm ĩ hai ba ngày, muốn treo cổ nàng thì làm thế nào, thôi, mau chóng chuồn là thượng sách. Nhưng Đông Hoa trước khi xuống giường còn kém đạo đức kéo chăn quấn chặt nàng, lại còn dùng phép cấm chế, dù nàng thả sức vùng vẫy cũng không thể thoát ra.
Khoảnh khắc Đông Hoa vén rèm đi ra, Phượng Cửu thầm đếm: một, hai, ba, Cơ Hoành sắp khóc, sắp khóc, sắp khóc, rèm vừa vén, lại khép ngay, một chùm nắng từ ngoài chiếu vào đến nửa bức bình phong, nhưng không thấy tiếng khóc của Cơ Hoành, chỉ có tiếng của Đông Hoa bên ngoài: “Công chúa đến thực đúng lúc, giúp ta trông nom cô nương ấy.” Câu trả lời vẫn là: “Xin vâng!” Rõ ràng chính là Cơ Hoành, nhưng sao không thấy khóc lóc, cũng không làm ầm ĩ, một câu nói nặng cũng không, càng khiến nàng muôn phần bối rối, Cơ Hoành có thể kiên cường đến thế sao? Đông Hoa cư xử như vậy trước mặt người của lòng chàng, rốt cuộc có ý đồ gì? Phượng Cửu nằm co trong chăn, đầu óc điên đảo.
Về sau nàng đem sự việc không thể lý giải đó chia sẽ với Yến Trì Ngộ nhờ chàng phân tích. Yến Trì Ngộ liền đánh thức người đang nằm mơ: “Ôi dào, mỗ hiểu, Mặt lạnh thực ra không rộng lượng như vậy, ông ta đồng ý cho Cơ Hoành qua lại với mỗ nhưng trong lòng vẫn hận, cho nên trút mối hận đó lên Cơ Hoành.”
Phượng Cửu tỏ ý không hiểu, Tiểu Yến nhẫn nại giải thích: “Muội xem, Mặt lạnh làm vậy là muốn cho Cơ Hoành hiểu, trên giường ông ta vẫn có một nữ nhân bội phần kiều diễm. Mỹ nhân này vừa rồi còn phong tình vạn độ làm nũng với ông ta. À, mỹ nhân bội phần kiều diễm đó chính là muội. Thực ra, Mặt lạnh chỉ muốn làm tổn thương Cơ Hoành, bởi Cơ Hoành đang qua lại với mỗ, cũng làm tổn thương ông ta. Có thể thấy tình của Mặt lạnh với Cơ Hoành vẫn rất sâu nặng, nhất định phải làm tổn thương nàng mới có thể xoa dịu hoài niệm của ông ta. À, cái từ ‘hoài niệm’ này nên dùng thế nào, đợi mỗ tra thư tịch đã. Này này, đừng nhìn mỗ như thế, trong truyện người ta viết vậy mà!”
Tiểu Yến nói đến đây mỉm cười ranh mãnh: “Mặt lạnh ngày càng thú vị.” Phải thừa nhận vẻ ngoài của Tiểu Yến đúng là bi kịch, ngay khi cười ranh mãnh vẫn đẹp như hoa như ngọc. Phượng Cửu buột miệng khuyên chàng: “Huynh đừng như thế, đức Phật nói, thà dỡ một ngôi chùa, cũng không phá một mối lương duyên.” Tiểu Yến hơi xúc động, thốt lên: “Ờ, muội nói phải, nếu phá thì hậu quả thế nào?” Phượng Cửu ngẫm nghĩ: “Hình như cũng không có hiệu quả gì. Thôi mặc, huynh muốn phá thì phá.” Đoạn đối thoại trí tuệ này đến đây coi như kết thúc.
Phượng Cửu cảm thấy, giải thích của Tiểu Yến về logic thật ra không ổn, nhưng về tình lý lại rất xuôi, tuy vậy chuyện tình cảm, xưa nay không hề có logic, phân tích của Tiểu Yến cũng coi như tạm thời đáng tin. Có điều, về sau kết cục của ngày hôm đó là, nhân lúc Đông Hoa chưa quay lại, Phượng Cửu nhanh trí biến thành tiểu hồ ly chui ra khỏi chiếc chăn giam giữ nàng, luồn qua những tấm rèm chuồn trước một bước. Ra đến suối nóng liền bị Cơ Hoành ngăn lại, nhìn thấy nàng, cặp môi tái nhợt trên khuôn mặt vốn tái nhợt của công chúa lập tức trở lại bình thường, dường như sau phút thất thần công chúa tự nhủ: “Thì ra chỉ là một con hồ ly, mình cả nghĩ rồi.” Lúc đó nàng không hiểu hàm ý câu nói đó của Cơ Hoành, chỉ tranh thủ chạy thật nhanh ra ngoài, phóng thẳng một mạch. Gần đây qua phân tích của Tiểu Yến, nghĩ lại câu nói đó của Cơ Hoành, nàng vẫn mơ hồ chưa hiểu ra. Xem chừng, nàng đã phá hỏng kế hoạch của Đông Hoa, khiến chàng cuối cùng không thực hiện được ý đồ làm tổn thương Cơ Hoành. Trong tình yêu, lại có những vòng vo vi diệu như vậy, sự ngoắt ngoéo đó, năm xưa nàng chưa mảy may nắm được đã muốn đến cung Thái Thần chinh phục Đông Hoa, chỉ dựa vào lòng can đảm, cuối cùng quả nhiên thất bại, hôm nay mới biết, có thể còn có những đạo lý sâu xa như vậy.