Nhân Tướng Học

Phần 3: Lý Tướng Và Pháp Tướng - Chương 1: Nguyên Tắc Thanh Trọc

Phần 1 và 2 trình bày các nét tướng và loại tướng, phần lớn có tính cách phân tích và nặng về Khía cạnh tĩnh. Đó là phần tướng học biểu kiến, hình thức và tổng quát, mô tả từng bộ vị và phân loại hình hài của con người dựa trên các ngoại biểu vật thể phần lớn nhận thức được bằng vị giác. Vì thiên về phân tích, quyển thượng không phối trí các bộ vị, các loại tướng một qui tắc chi phối tương quan.

Phần 3 đề cập đến phần lý tướng và tương pháp, nêu những qui tắc tương quan giữa các bộ vị giữa các hình hài, giữa các hình hài và bộ vị với nhau ngõ hầu giúp được giả thấu hiểu ý nghĩa đa phương và biến đổi giữa các nét tướng. Quyển hạ khảo sát tướng học trên phương diện tổng hợp nhìn dưới khía cạnh động, nên những yếu tố phi vật thể, phần lớn được nhận thức bằng trực giác và tâm linh. Nói khác đi, về mặt biển khảo, quyển đầu chỉ mới giúp người học tìm khai đềvà phản đề trong khi quyển sau giúp ta đi vào phần hợp đề.

Thực vậy, muốn thấu đáo con người phức tạp và đa dạng, chúng ta không thể chú trọng đến cục bộ và chi tiết mà phải nhìn cho được đại thể của nó trong hệ thống tương quan chi phối toàn cục. Việc hiểu biết từng nét tướng chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ. Con người thực tế là 1 khối duy nhất do toàn thể những nét tướng chi tiết hợp thành. Sự tốt xấu của khối duy nhất đó không phải là tổng cộng máy móc có tính cách toán học cứng nhắc của các sự tốt xấu lẻ tẻ chắp nối lại, Hơn nữa, con người là một sinh vật có tri giác, vốn động cả hình, chất lẫn tâm hồn. Những nét tướng của con người tuy tĩnh bề ngoài nhưng kì thực lại động bên trong và động trong suốt tiến trình của cuộc đời.

Tướng học Á Đông đã lĩnh hội được nguyên lý căn bản đó. Tướng lý Á Đông nhấn ttương quan giữa các yếu tố, kết hợp hình thức và thực chất, gắn liền nét tĩnh với nét động, phối hình tướng với tâm tướng, liên kết ngoại diên với nội tâm.

Những thế kỉ thực nghiệm đã giúp nền tướng học Á Đông khám phá được các yếu tố tương quan đó trong nguyên tắc Thanh Trọc, trong thần, Sắc, Khí, trong Khí phách của con người, trong nguyên tắc Âm dương ngũ hành của vũ trụ. Từ đó nhiều thế kỷ thực nghiệm đã đào sâu thêm tướng lý và khai phá ra tướng pháp, nói khác đi là phương pháp xem tướng càng ngày càng hướng về thực tiễn và đặc biệt càng ngày càng xác định. Người ta dùng tướng để quyết định vận mạng đã đành, có người dụng tướng để chọn tướng hảo tôi trung. Chỗ dụng của tướng học được nới rộng rất nhiều từ chỗ kiến thức đến chỗ ứng dụng cho con người nói riêng và cho quốc gia xã hội nói chung. Một học thuật kì thú và bổ ích như thế không phải dễ hội nhập. Để giúp học giả nắm được tinh lý của tướng học, quyển hạ sẽ trình bày trong 6 chương :

- Nguyên tắc Thanh Trọc.

- Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành và ứng dụng của nó trong tướng học.

- Ý niệm Thần, Khí, Sắc và Khí phách.

- Phương pháp xem tướng.

- Những ứng dụng của tướng học.

- Tướng phụ nữ.

Để kết luận, soạn giả có phụ thêm vào phần cuối sách một vài nhận định về môn học thuật cổ điển này.

I. THỬ PHÁT HỌA HAI Ý NIỆM THANH VÀ TRỌC

Trong tướng học Á Đông, Thanh và Trọc là hai ý niệm vô cùng súc tích và là hai ý

niệm căn bản để giải đoán quí tiện cát hung, thành bại, thọ yểu của con người. Thanh Trọc chi phối hết các nét tướng của con người. Có thể nói mọi lãnh vực quan sát của tướng học Á Đông đều hướng về việc tìm tòi phân biệt những điểm Thanh, Trọc rồi dựa vào đó mà luận đoán. Nhưng trước hết Thanh, Trọc là gì ?

a) Thanh:

Từ ngữ Thanh chỉ tất cả các nét tướng tốt của con người, từ tướng cơ thể đến tướng tinh thần, từ nét tướng động tĩnh và cả những nét tướng phối hợp động, tĩnh bao gồm cái tốt về phẩm và về lượng dưới đủ mọi dạng thức.

Nếu nói về Sắc da, Thanh có nghĩa là hữu tình, ưa nhìn, không đậm, không nhạt.

Trong trường hợp này việc thẩm định tính chất Thanh nặng về chủ quan và trực giác hơn là khách quan và thị giác hiểu theo nghĩa thông thường.

Nói về giọng nói, Thanh có nghĩa là trong trẻo, Âm lượng vừa phải, không quá lớn đến đinh tai nhức óc, không chua như dấm, không xoáy vào tai người nghe như kim châm,… nhưng không quá nhỏ như tiếng dế, tiếng ong. Giọng nói thanh tao, hảo cảm, vui tai không phải vì lý luận hữu lý mà vì tính chất ấm áp hay trong trẻo, rõ ràng, không rè, không chát.

Nói về cử chỉ, Thanh có nghĩa là cử chỉ mực thước, quý phái không sỗ sàng, cương nhu thích nghi. Đó là cử chỉ của loại người gọi là hào hoa, phong nhã, theo đúng nghĩa trong sạch của nó.

Nói về bộ vị hay người bộ vị Thanh kết hợp lại tạo thành một cơ thể hay cơ cấu cân xứng, linh động, có sinh Khí về cả phẩm lẫn lượng một cách có thẩm mỹ. Cặp Lông Mày được gọi là Thanh khi sợi Lông Mày không lớn hơn sợi tóc, dài và mọc cách nhau thế nào để kẻ quan sát cách xa đó một hay hai thước nhìn thấy được phần da của chân Lông Mày, Sắc Lông Mày đen xanh và mượt. Mũi Thanh là Mũi ngay thẳng và cao, không lệch, Gián Đài và Đình Úy không quá lớn. Đầu Mũi không quá mập. Chẳng hạn Mũi tiêm đồng, Mũi thông thiên được coi là Thanh, Mũi sư tử, Mũi túi mật treo bị coi là Trọc.

Nói về thân hình, loại người hình mộc (loại Giáp Mộc) được coi là Thanh, người trọng Thổ bị xem là Trọc.

Nói về thần Khí, kẻ Mắt lồi, mục quang hung hãn, hoặc lòng đen, tròng trắng mờ đυ.c thì không Thanh. Trái lại, ánh Mắt sáng, êm dịu, tinh anh, đồng tử trong suốt như pha lê, tròng đen lòng trắng rõ ràng, thuần khiết không mờ đυ.c, không có tia máu xÂm phạm được coi là thần Thanh, Khí sảng. Nói về tổng quát, nếu có sự phối trí tương xứng theo một hòa điệu giữa các thành phần trong bộ vị cơ thể thì gọi là Thanh.

Thí dụ: phía sau đầu và trước mặt, phía phải và trái khuôn mặt cân xứng và thích nghi với thân mình được xem là Thanh, trong phép phối hợp ngũ hành của cơ thể, người thuần túy một hình hay bác tạp nhưng không xung khắc được xem là Thanh. Chẳng hạn thân hình nặng nề, chắc nịch, mặt Mũi thô kệch nhưng Mắt sáng, mày tươi, giọng trong trẻo thì phần sau đó gọi là Thanh trong cái Trọc của toàn thể thân hình.

Nói về động tĩnh, nếu có hòa hợp động và tĩnh tức là phần động trội hơn phần tĩnh nhưng không làm mất thế quân bình, phần phẩm hơn phần lượng, nhưng không vượt ra ngoài tiêu chuẩn đều được gọi là Thanh. Đó là trường hợp những kẻ gầy yếu, lùn, nhỏ nhưng thần thái tuấn tú, chân tay thô kệch nhưng bước đi nhẹ nhàng Thanh thoát. Nói về tâm tướng, những người cao thượng hoằng đại khiến người nhìn như quên đi sự thiếu sót của hình hài chỉ thấy sự cao khiết khoáng đạt của tâm tính thì đức tính đó được xem là Thanh

b, Trọc:

Ngược lại với Thanh là Trọc, chỉ tất cả những gì không hợp tiêu chuẩn mà đi quá đà, thông thường người ta cho những gì thái quá là Trọc nhưng trong tướng học muốn cho chính xác phải kể cả những gi bất cập đều là Trọc. Chẳng hạn như:

- Khuôn mặt trung bình mà Mũi thì quá lớn, Chuần Đầu quá mập, Gián Đài và Đình Úy quá nảy nở như các loại Mũi sư tử, Mũi túi mật treo là Trọc.

- Hình Thổ, quá nặng nề, chậm chạp là Thổ Trọc

- Giọng Mộc cao nhưng không trong trẻo là giọng Mộc Trọc

- Sắc da trắng nhưng khô, không tươi nhuận, như phấn mộc gọi là Sắc Trọc

- Tâm tính hẹp hòi không tương xứng với thân thể khôi ngôi hung vĩ là Tâm Trọc

- Âm Dương Ngũ hành bất điều hòa, chẳng hạn như Âm thác, Dương sai gọi là Âm Dương Trọc…

Dưới nhãn quan tướng học Thanh là quý, Trọc bị coi là hạ tiện. Thanh chỉ về quý, thọ, vinh hiển, thành đạt, còn Trọc thì ngược lại. Tuy nhiên đó chỉ là tổng quát, trong phép đoán tướng, người ta còn phải đi sâu vào từng chi tiết nhỏ và hết sức tinh tế để phân biệt đâu là Thanh hay Trọc căn bản, đâu là Thanh hay Trọc phụ thuộc chiết trung theo luật thừa trừ để tìm ra phần khả thủ.

II. TƯƠNG QUAN THANH TRỌC

Trong thực tế ít khi gặp một cá nhân thuần túy Thanh hay thuần túy Trọc mà thường lẫn lộn cả Thanh lẫn Trọc. Chỉ khác nhau về tỷ lệ: có kẻ Thanh ít Trọc nhiều, có kẻ Thanh nhiều Trọc ít mà thôi. Về điểm này ta phân biệt hai trường hợp chính:

1. Thanh trung hữu Trọc:

Thanh trung hữu Trọc là một trường hợp bộ vị, một số bộ vị tạo thành từng đại bộ phận hay toàn thể con người hay từng nét tướng tổng quát bao gồm cả tâm tính lẫn hình tướng trong thì có vẻ hoàn mỹ nhưng quan sát kỹ thì thấy trong số hiện ra nhiều khuyết điểm khiến cho cái đẹp, cái tốt của một cá nhân không được hoàn hảo.

Ví dụ:

- Tai có Luân Quách nhưng thiếu Sắc Khí

- Mặt mày sáng sủa, thân thể khôi vĩ, nhưng nhìn vào không oai vệ hay khiến người dễ chán.

- Đàn ông quyền thấp, tiếng nói có vẻ nữ nhi.

- Mặt đầy đặn, phối hợp tương xứng với Ngũ Quan nhưng đấu Mũi bị lệch.

- Răng tuy trắng, đều, Khít nhưng không bóng bẩy.

- Miệng tuy rộng nhưng không có lăng giác, Mũi không hồng, răng thưa.

- Lông Mày tuy đẹp nhưng sợi Lông Mày mọc thưa, ngang hoặc tráp với phương vị cố hữu.

- Mày tuy cao nhưng sợi thô hắc ám.

- Mặt tuy sáng nhưng lộ chân quang.

- Râu tuy đẹp nhưng không tương xứng với tóc và Lông Mày.

- Người tuy đúng cách cục nhưng Sắc hôn, Khí ám.

- Người tuy to lớn, mập mạp trông có vẻ phúc hậu nhưng thịt bệu, da khô, tóc cằn..

Người có đặc điểm kể trên thì thoáng qua thấy có vẻ Thanh nhã nhưng tương hợp coi đó là Thanh trung hữu Trọc vì trong cái đẹp có lẫn cái xấu.

2. Trọc trung hữu Thanh:

Những người có hình dạng cục mịch thô lỗ hay mặt mày méo lệch, Tam Đình, Ngũ Nhạc bất quân xứng nhưng nếu có:

- Mắt sáng mà mục quang ẩn tàng.

- Thiên Đình cao rộng, sáng sủa.

- Phía trong vành Tai màu hồng tươi nhuận hay Tai mọc cao quá Lông Mày, Sắc bề ngoài trắng hơn da mặt, hay Luân Quách phân minh.

- Lông Mày tươi mịn. mọc cao và không gián đoạn.

- Hoặc người nhỏ yếu, thấp lùn nhưng tiếng nói sang sảng như tiếng chuông ngân hay Thanh tao như những hạt ngọc rơi rớt trên mâm bạc.

- Có tướng ngũ tiểu hoặc ngũ lộ nhưng phẩm chất các phần lộ đó đều tốt đẹp.

- Người khẳng khiu nhưng dáng dấp hiên ngang, đi như rồng bay cọp bước, Khí phách hoằng đại...

Suy rộng ra, khi nhìn một cá nhân qua nhiều bộ vị, ta thấy hình dáng màu Sắc của chúng thoáng qua thì thô bỉ, nhưng đi sâu vào chi tiết, ngắm lâu lại thấy hữu tình hoặc hảo cảm, quan sát một cá nhân ta thấy khuôn mặt, thân hình, tiếng nói…. không gây hảo cảm lúc ban đầu, nhưng tổng hợp tất cả lại hoặc là thấy có sự sinh động đặc thù hoặc cử chỉ động tác linh hoạt, phong nhã, tính tình quả cảm, trung hậu khiến ta sinh lông nể phục về sau đều được gọi là Trọc trung hữu Thanh.

III. THẨM ĐỊNH Ý NGHĨA CỦA TƯƠNG QUAN THANH TRỌC

Trong quan điểm của tướng học, Thanh trung hữu Trọc được xem là cái đẹp hời hợt, bất túc, trong cái hay đã tiềm ẩn cái dở, nên thường dùng để chỉ trường hợp tốt đẹp bề ngoài, hậu quả tốt chỉ thoáng qua, còn chung cuộc thì rất xấu. Ngược lại, Trọc trung hữu Thanh được xem là cái xấu biểu kiến phủ ra ngoài cái đẹp thực chất, nhưng vì vẫn là cái đẹp không được thập toàn hoàn mỹ, nên khi khởi đầu bị vùi dập, sóng gió. về sau mới có kết quả tốt lành.

Cũng bởi lẽ trên, trong thực tế có những kẻ mặt Mũi khôi ngô, hoặc dung mạo xinh đẹp mà công danh sự nghiệp hoặc bản thân bị khốn đốn bởi vì sinh ra có cách Thanh trung đới Trọc. Có những người thoáng qua thấy tướng mạo cực kì bần hàn, xấu xí mất cả thiện cảm mà rốt cuộc trở thành đại quý cực phú là vì hợp cách Trọc trung hữu Thanh. Dưới nhãn quan tướng học, Thanh được xem là tốt, là quý, vì thế Thanh đồng nghĩa với quý. Trọc bị xem là xấu nên đồng nghĩa với tiện. Ta phải hiểu là tiện và quý trong các sách tướng chỉ dùng để chỉ hậu quả của Thanh và Trọc mà thôi. Hiểu như vậy, những phá tướng về hình thể lẫn tâm hồn đều bị coi là Trọc, dù là ẩn tàng hay biểu lộ. Những nét tướng tốt dù trong hay ngoài, dễ nhận thấy hay là phải khổ công mất nhiều ngày giờ mới khám phá ra đều được gọi là Thanh. Thanh thì quý đã đành, nhưng như trên đã nói, con người thường Thanh Trọc lẫn lộn, nên vấn đề đặt ra ở đây là Thanh trung hữu Trọc tốt hay Trọc trung hữu Thanh tốt ?

Câu trả lời thông thường là Trọc trung hữu Thanh tốt hơn là Thanh trung hữu Trọc. Nhưng cái đó cũng chỉ có ý nghĩa và giá trị tương đối vì nó còn tùy thuộc vào nhiều dữ kiện :

1-Thanh trung hữu Trọc:

Thông thường thì tốt nhưng không được toàn mỹ. Do đó, Thanh trung hữu Trọc thường không tốt đẹp, hanh thông một cách đều đặn, tiền cát hậu hung.

Điều này không có nghĩa tuyệt đối vì :

- Có những trường hợp Thanh trung hữu Trọc không có tốt đẹp gì đáng kể, mà lại rất xấu nếu những điểm Thanh nhiếu, nhưng là những điểm phụ thuộc hoặc thuộc về lượng, còn Trọc tuy ít nhưng là điểm căn bản, cốt yếu hoặc thuộc về phẩm.

Thí dụ: Mũi có Chuần Đầu đình uy và Gián Đài nảy nở đặc biệt (tức là loại Mũi sư tử hay huyền đởm tỵ) chủ về giàu có, nhưng nếu bị lệch không tương xứng với khuôn mặt hoặc đi đôi với Lưỡng Quyền nhỏ hẹp và nhọn thì bao nhiêu cái quý của Mũi sư tử hướng huyền đởm tỵ bị tiêu giảm gần hết.

Người Mộc tuy Thanh nhã, nhưng đấy chỉ là những nét khái quát, nếu đi sâu vào bộ vị ta thấy Miệng rộng, Mũi hếch Tai thuộc loại tiễn vũ nhĩ, Sắc da trắng xanh thì đó là tướng phá cách hay nói cách khác đi, Thanh trung đới Trọc, kết quả sẽ không ra gì. Kẻ như thế, khó sống được quá 40 tuổi, còn nói gì đến công danh sự nghiệp.

Ngũ Quan tuy toàn hảo nhưng thần Mắt suy nhược, bước chân ẻo lả như sẽ nhảy hoặc xiêu vẹo như rắn bò ngồi gục đầu xuống như cổ chỉ có sụn không có xương thì đấy là tướng yểu chiết chứ không phải là tướng thông tuệ hiển đạt.

Những trường hợp Thanh trung đới Trọc như trên có thể liệt kê hầu như vô tận và đều là loại Thanh Trọc đới Trọc, có hậu quả chung cuộc không ra gì.

Ngược lại, có những trường hợp Thanh trung hữu Trọc không có ảnh hưởng xấu tới cá nhân, nếu điểm Trọc chỉ là các khuyết điểm phụ tuy hoặc thuộc về lượng.

Ví dụ như:

- Người Giáp Mộc pha Kim, thân hình dỏng cao, Ngũ Quan toàn hảo nhưng Cằm vuông, Miệng vuông, Sắc da hơi hồng thì chỉ gặp Tai ương hay vận hạn không tốt một thời, cuối cùng vẫn quý hiển

- Mũi tốt nhưng Sắc da Mũi không dược tươi nhuận thì đến vận hạn về Mũi không thể phát huy tất cả hảo vận chứ không đến nỗi tốt biến thành xấu.

- Nốt ruồi tuy mọc trên các bộ vị tĩnh hoặc hơi lộ liễu trên gương mặt tuy thông thường là xấu nhưng nếu nó là nốt ruồi son hay đen huyền thì vô hại, . .

2- Trọc trung hữu Thanh:

Tương tự như lý luận trên, tuy thông thường là có ý nghĩa tốt về sau nhưng cũng không phải là có ý nghĩa tuyệt đối. Sách tướng tuy có câu "Nhất quý đề cửu tiện, nhất tiện phá cửu quý" thật đấy, nhưng đấy không phải là chân lý tuyệt đối.

Quý ở đây có nghĩa là Thanh là tốt, chứ không có nghĩa là quý hiển. Nói khác đi, Trọc trung hữu Thanh chỉ có hậu quả tốt khi các điểm Trọc đó chỉ phụ thuộc, còn điểm Thanh trung hữu Trọc phải liên quan đến Thần Khí, Khí phách hay phẩm chất nội tạng của các bộ vị mà về mặt biểu kiến bị coi là Trọc của con người.

Chẳng hạn:

Tướng ngũ lộ bị coi là Trọc, nhưng Mắt lộ mà ánh Mắt có thần và hòa ái, Mũi lộ khổng mà Chuần Đầu mập mạp, Môi vẩu mà răng tươi Khít và đều, Tai bị đảo ngược Luân Quách nhưng Sắc tươi nhuận và trắng hơn mặt: lộ hầu mà Âm Thanh trong trẻo, có Âm lượng thực ra là tướng Trọc trung hữu Thanh về phẩm chất. Hơn nữa, dựa vào hai điểm Mắt có thần và hòa ái, giọng nói trong trẻo có Âm lượng ta suy ra kẻ đó Thần thanh Khí túc. Nói khác đi, có quý tướng ngầm, ngày sau sẽ thành người hiển đạt và trường thọ. Trái lại, nếu tướng ngũ Trọc, nhưng ánh Mắt hôn quyện, giọng trong trẻo nhưng thiếu Âm lượng thì dẫu các phẩm chất của Tai, Mũi, Miệng có tốt đến đâu cũng chỉ may mắn phát đạt nhất thời, chung cuộc khốn nạn thê thảm.

Tóm lại, trong tướng học Á Đông nguyên tắc Thanh Trọc chi phối tất cả mọi lĩnh vực quan sát, từ bộ vị đến toàn thân, từ hình tướng đến tâm tướng. Để kết thúc tiểu đoạn này, xin đơn cử một đoạn trích văn của Phạm Văn Viên tác giả cuốn tướng pháp nổi danh Thủy kính tập như sau: "Tướng học bàn về Thanh, Trọc tuy nói đến việc quan sát học đường *, nhưng kẻ

tướng pháp thượng thặng thực ra phải đặt nặng việc quan sát Thanh Trọc vào việc thẩm định mục thần và Khí phách xem nó có phối hợp với bộ vị hay không.

Kẻ sáng Mắt, thần Khí ẩn tàng, nhìn người thì nhìn chính diện và như xạ vào mặt người đối diện, dám nói dám làm, dũng cảm trước việc khó khăn, hay dung người, không câu chấp những sai lầm nhỏ nhặt là kẻ có thần và Khí Thanh. Dẫu bộ vị có khuyết hãm. Khí Sắc hôn ám, thân hình không toàn mỹ thì vẫn là tướng quý vì đó là tướng Trọc trung hữu Thanh. "

* Học đường là lối mệnh danh một số bộ phận của khuôn mặt như Mắt, trán, Tai, Miệng, Lông Mày, Ấn Đường. Lối mệnh danh này chỉ thấy trong các sách viết về tướng trước tác từ các đời Minh, Thanh trở về trước. Ngày nay, lối mệnh danh này không còn thông dụng vì quá rườm rà.

IV. SỰ ỨNG DỤNG CỦA NGUYÊN TẮC THANH TRỌC TRONG TƯỚNG HỌC

Dưới đây là một vài ứng dụng điển hình của nguyên tắc Thanh Trọc:

a) Phân biệt 4 loại quý tướng (Thanh, Kỳ, Quái, Cổ) với 4 loại tiện tướng (Hàn, Trọc, Tục, Lậu)

Về hình thức, bốn loại quý tướng kể trên rất giống với bốn loại tiện tướng. Muốn phân biệt quý tướng ta chỉ còn có cách dựa vào nguyên tắc Thanh trung hữu Trọc, Trọc trung hữu danh. Đời Hán, nhà tướng học danh tiếng Hứa Phu đã luận về bốn loại tướng quý : Thanh, Kỳ, Quái, Cổ như sau:

"Kẻ xem tướng thường quan sát thân hình khôi vĩ, mặt mày sáng sủa toàn vẹn rồi coi đó là tướng quý, ngược lại đoán là tiện tướng, nhưng không biết rằng 4 loại Thanh, Kỳ, Cổ, Quái rất gần với 4 loại tướng Hàn, Trọc, Tục, Lậu. Tướng pháp thường nói: "Bàn về Thanh trung hữu Trọc, Trọc trung hữu Thanh là căn cứ vào thần, Khí và các học đường nhưng thực ra là chỉ căn cứ vào mục thần cũng tạm đủ để quán thông mọi sự. "

1-Thanh tướng rất gần Hàn tướng:

Thân hình tao nhã, mặt mày thanh khiết, cử chỉ linh hoạt, dáng dấp dịu dàng, mảnh dẻ trông giống như các dấu hiệu non yểu nhưng thịt tuy trắng mà nhuận, ánh Mắt không dao động mà tự có thần Khí đó là Thanh tướng chứ không phải là Hàn tướng (tướng lạnh lẽo chết non).

Hàn tướng cũng giống như Thanh tướng về cách cục bộ vị nhưng ánh Mắt quá lạnh, không linh hoạt hoặc Thanh tướng về hình hài mà mục quang bất động và trì trệ, hoặc Tai trắng như sương hay hồng như lửa mà khô xạm.

Thanh tướng chủ quý và thọ vì tinh thần sáng suốt, thọ căn ổn cố, Hàn tướng thì thần thiêu phách tán, thọ mạng ngắn ngủi.

2-Kỳ tướng giống như Trọc tướng :

Mắt lộ mày đậm, khuôn mặt to lớn khác thường, hình dáng thô kệch xấu xí, nhưng Mắt tuy lộ mà có thần Khí ẩn tàn, mày tuy đậm mà sợi Lông Mày tươi mịn, phủ kín mi cốt nên mày có tú Khí (tức là Trọc trung hữu Thanh). Kẻ như vậy là ký tướng (tướng lạ) chứ không phải là Trọc tướng (tướng lỗ mãn, trông mất tình cảm) Ngược lại, Trọc tướng cũng giống như Kỳ tướng về hình hài, nhưng Mắt lộ mà vô thần hoặc có thần quang mà mục quang hung bạo: mày tuy đậm mà sợi thô xoắn tít, không phải bao phủ hết mạng vận. Kì tướng là tướng phát đạt, nổi tiếng hơn người còn Trọc tướng là hạ tiện, phi bần tắc yểu

3-Cổ tướng giống như Tục tướng :

Các bộ phận chính của khuôn mặt đều lộ, nhưng lộ mà khuôn mặt đầy đặn, da thịt tươi nhuận có sinh Khí, răng tuy thưa vàng nhưng vững chắc và bóng, một màu tin khiết, thần Khí an tĩnh thì đó là Cổ tướng(tướng người cục mịch quê mùa) chứ không phải là Tục tướng (tướng kẻ tầm thường không bao giờ khá được)

4-Quái tướng giống như Lậu tướng :

Hình hài, mặt Mũi quái gở, không giống thế nhân, tỷ như mặt đen như lọ chảo, thân hình kệch cỡm, nặng nề, nhưng nếu trong các xấu xí đó mà ánh Mắt như Mắt lân, Mắt phượng, khoan hòa mà có uy răng trắng và đều, Chuần Đầu tròn trịa, nở nang, Khí phách quảng đại thì đó là Quái tướng (tướng xấu lạ lùng, ít ai có) chứ không phải là Lậu tướng (tướng dị hợm khiến người nhìn phải ớn lạnh)

Các lọai tướng Kỳ, Qúai, Cổ tuy là kỳ dị, dị dạng bề ngoài, nhưng bề trong thật là quí nhân, dễ dàng trở thành đại dụng. Họ khác với bọn tiện nhân(Trọc, Tục hoặc Lậu tướng) ở chỗ một đàng thần Khí thanh sảng, một đàng thần Khí ngưng trệ, thoáng nhìn thì có vẻ thô tục mà thẩm sát kỹ càng thì lại thấy tú Khí hiện ra

Một lần nữa ta thấy thần Khí và Khí phách vẫn là tiêu chuẩn phân biệt nét quí trong nét tiện, nét Thanh trong nét Trọc

b) Phân biệt phần tiện trong tướng quý:

Phần quý trong tướng tiện của đàn bà: Tướng pháp cổ Trung Hoa thường phân tích tướng đàn bà thành thiện và ác tướng, dựa trên thân hình diện mạo. Thiện tướng được coi là quí, ác tướng bị xem là tiện. Nhưng đó chỉ là cách nói tổng quát, chưa đầy đủ và không đi sát thực tế. Muốn dược chuẩn xác phải phối hợp cả Thanh lẫn Trọc phương trộn lẫn nhau trong một con người. Nói khác đi phải áp dụng nguyên tắc Thanh trung hữu Trọc, Trọc trung hữu Thanh khi đánh giá phẩm tính phụ nữ qua việc quan sát diện mạo (thiện tướng hay ác tướng)

1) Quý trung hữu tiện

Tướng mạo phụ nữ coi Thanh nhã, cao quí mà tính tình đê tiện là bởi vì trong cái Thanh có lẫn cái Trọc, tuy nhỏ nhưng chủ yếu cho nên thoáng qua thì xếp vào quí cách nhưng nhìn kỹ thì phải xếp vào loại tiện. Sau đây là các đặc thái quí trung hữu tiện:

- Ngũ Quan đoan chính mà da dẻ thô xạm Ngũ Quan đoan chính là Mắt sáng và lớn, Lông Mày mịn và đẹp, Môi đều đặn, răng tươi Khít, Tai có Luân phách phân minh, Mũi thẳng

- Bình thường thì đó là quí cách nhưng Ngũ Quan đoan chính mà da dẻ thô xạm, nóng khô thì đó là Thanh trung hữu Trọc, hình hài tốt mà thực chất không ra gì

- Trán đầy đặn mà khi đi hay ngoái cổ nhìn lại phía sau Trán đầy đặn biễu hiện cho sự đắc cách về trí tuệ nhưng kẻ hay đi ngoái cổ nhìn về phía sau là kẻ đê tiện,

dâʍ đãиɠ ngầm.

- Mày dài đẹp, uốn cong, Mắt sáng sủa nhưng mép có ria khá rõ, Cằm có long mày khá đậm giống như râu

- Mày thanh, Mắt đẹp là tướng mỹ nhân nhưng phía dưới Cằm và Môi trên có lông mănh nổi rõ Sắc đen lai nam tính biểu trưng cho sự cứng rắng, thô lộ, kém nhu thuận

- Ngũ Nhạc đôn hậu mà Sắc mặt kinh hoàng Ngũ Nhạc (Cằm, trán, Mũi, Lưỡng Quyền) đều ngay thẳng, cao và rỏ, có thế nhưng ánh Mắt kinh nghi là hình hữu như mà thần bất túc, tựơng trưng cho sự non yếu, không tự chủ

- Đứng ngồi ngay ngắn tề chỉnh mà lại cắn ngón tay. Đứng ngồi ngay ngắn tề chỉnh là kẻ khiến người khác phải nể vì không diện kiến nhưng hay cắn ngón tay (hoặc móng tay) lại là biểu tượng nội tâm dâʍ đãиɠ, chỉ trọng điều Sắc dục hơn là đạo lý. Nói khác đi, đó là tướng da^ʍ ngầm mà bề ngoài lại có vẻ đạo đức, uy nghi

- Thanh Âm rõ ràng, trong trẻo, mà thần thái đờ đẫn, hay cười với kẻ đối thoại thanh Âm rõ ràngvà trong trẻo là biểu hiện Khí chất đầy đủ, cơ thể khỏe mạnh, nhưng thần say, cười mỉm lại là kẻ dể bị quyến rũ vào con đường trụy lạc vì không đủ óc tự chủ và tính trinh tháo

- Mặt Mũi Thanh tú mà da dẻ quá lạnh, thần thái quá Thanh khiết da dẻ quá lạnh thần thái quá Thanh thì sự thái quá đó biến thành hàn tướng chứ không phải quí tướng. Do đó, kẻ hàn tướng là kẻ thọ căn mong manh, không trường thọ

2) Tiện trung hữu quý

Đàn bà mà có bộ vị trên mặt như sơn lâm (hai bên mép tóc ở trán) bị sẹo hoặc rụng tóc, tóc quá đậm mà thô, Mắt thô Trọc và giọng nói rõ, Mũi quá xẹp và nhỏ, người Mộc pha Kim (cao ốm mà da trắng bệch) mày quá mày nhạt, Tai nhỏ, trán thấp… bị xếp vào loại tướng không tốt, lấy làm vợ tất đưa đến Tai hại, nhưng nếu:

- Sơn lâm bị phá khuyết hoặc có sẹo mà Mũi và các bộ vị liên hệ đày đặn, hợp cách và liên hoàn.

- Tóc đậm, thô mà Lông Mày dài đẹp. Mi cốt nổi nhưng không thô

- Mũi nhỏ, bằng, không có Chuần Đầu đẹp, nhưng ánh Mắt ngay thẳng, thần thái an hòa

- Môi vẩu, răng lộ nhưng tóc mịn, Sắc tươi

- Mắt thô Trọc, tiếng rè mà Cằm vuông vắn, đầy đặn, triều củng về Mũi một cách tương xứng

- Nguời Mộc Pha Kim mà ít nói, điềm đạm, tính tình lãnh đãm vừa phải.

- Hơi ngắn, mày nhạt và thưa mà thần Sắc an nhiên, không kinh hoàng, không biến Sắc khi gặp việc rắc rối

- Tai nhỏ, trán thấp nhưng mày đẹp, Mắt trong sáng ẩn tàng và Chuần Đầu nhỏ, nở thì đó lại là tiện trung hữu quí, phải phân định là hậu vận sẽ tốt đẹp chứ không thể coi là tiện tướng để quyết đoán là vận mạng sẽ không ra gì

Theo nhà tướng học hiện đại rất nổi tiếng là Ngã Thị Sơn Nhân thì nhận định trên là rất đúng. Do đó, trong cuốn tướng mạng giảng tọa ông đã đặc biệt chú trọng tướng mạo phụ nữ và viết thành một thiên khảo cứu đặc biệt.