Bomber'S Moon

Chương 6

Tháng ba tới hệt như tiếng chuông báo thức đúng giờ vang lên, Đại úy Milston thêm tên của Chuck vào lịch trực, nghĩa là giờ đây vị Trung sĩ Không quân này sẽ phải làm nhiệm vụ tuần tra, thức dậy lúc sáu giờ, cất cánh trước lúc bảy giờ và tuần tra bờ biển phía đông nam. Chuck không có máy bay cá nhân, mỗi lần làm nhiệm vụ đều mượn "đôi cánh" của Louis – máy bay tiêm kích Spitfire II mang số hiệu DWRX được bảo dưỡng vô cùng tốt. Có một mảnh kim loại nhỏ treo ở gương chiếu hậu, Chuck không biết nó là gì, càng không có ý định hỏi. Những cuộc trò chuyện giữa Louis và hắn giờ chỉ giới hạn ở "chào buổi sáng" và "tạm biệt". Không ai nhắc lại chuyện ở nghĩa trang đêm trăng tròn nữa. Kể từ hôm ấy, Thiếu úy đối xử với hắn vô cùng khách khí – có lẽ là hơi quá khách khí, dựng lên những phép tắc không cần thiết giữa hai người như một cái kìm sắt, khiến cho Chuck không có cơ hội tiến lại gần nửa bước.

Các nhiệm vụ tuần tra hầu như đều không có gì bất thường, có thể tổng kết qua loa trong nhật ký tuần tra là: "không có gì xảy ra". Nếu vô tình gặp phải máy bay trinh sát của Đức, nội dung trên bảng ghi chép sẽ đổi thành: "chạm trán với máy bay trinh sát của địch, không có gì xảy ra" hoặc "đuổi theo máy bay trinh sát, địch nhanh chóng rời đi", tùy vào tâm trạng hôm ấy và độ cao bay của máy bay trinh sát.

Vốn dĩ Không quân Hoàng gia còn chịu trách nhiệm hộ tống những đoàn tàu vận tải, thế nhưng người Đức đã từ bỏ không kích sau trận thua hè năm 1940¹, thay vào đó tấn công tàu của phe Đồng Minh bằng tàu ngầm U-boat, và nhiệm vụ hộ tống đương nhiên lại đặt lên đôi vai của Hải quân Hoàng gia. Thật tai hại cho đám "đầu cá"² khi chiếc tàu ngầm này không chỉ đánh chìm các tàu vận tải từ Mỹ và Canada, mà còn khiến cho một lượng lớn khu trục hạm quay về xưởng sửa chữa. Hải quân và Không quân liên tục yêu cầu "làm gì đó" với mục tiêu phá hủy các bến tàu của Đức Quốc xã đặt tại Normandy và Brittany. Một sáng thứ ba ảm đạm, Louis dẫn Chuck vào phòng họp chiến lược. Trước mắt hắn là một bức ảnh chụp từ trên không được phóng to, các bến cảng dọc bờ biển tây bắc nước Pháp được đánh dấu bằng các lá cờ màu xanh nho nhỏ. Đại uý Milston chống tay lên bàn, quan sát những điểm đánh dấu đầy tính toán, chỉ ngẩng đầu lên khi nghe thấy tiếng cửa mở và mỉm cười với Chuck như một con lửng đầy tình thương.

"Mọi chuyện đều ổn chứ, Trung sĩ Sinclair? Thấy hứng thú với chú chim sắt nhỏ của chúng ta không?"

"Rất ổn, thưa chỉ huy."

"Thế nhưng chỉ trong ngày hôm qua, sáu con tàu của chúng ta bị tàu ngầm của Đức tiễn xuống đáy biển, hai tàu chở than, bốn tàu vận tải, ba trong số đó của Hoa Kỳ, và chuyện này không thể tiếp tục diễn ra."

Chuck không biết tại sao Đại uý lại nói với hắn chuyện này, đành liếc qua Louis, Thiếu úy thì nhìn vào bức ảnh đầy chăm chú, như thể những người khác trong phòng tình báo đều không tồn tại. "Đương nhiên là không thể, thưa chỉ huy."

"Bộ chỉ huy liên hợp cảm thấy đã đến lúc đưa Flying Fortress vào hoạt động."

"Bay tới Normandy?"

"Không, bay về hướng nam tới Saint-Nazaire, nơi đó có một xưởng đóng tàu. Căn cứ chúng ta sẽ hành động cùng với căn cứ Hornchurch, có thêm tổng cộng ba mươi máy bay Blenheim hỗ trợ."

Đại uý nói đến đây thì ngừng, chờ Chuck tự rút ra kết luận. Chuck quan sát bức ảnh, rồi lại nhìn tấm bản đồ được ghim trên tường, Saint-Nazaire cũng được đánh dấu bằng một lá cờ màu xanh nho nhỏ, ẩn mình bên dưới bán đảo Brittany, nằm sát bên cửa sông Loire. Chuck dần dần thấy được viễn cảnh đáng lo ngại kia: "Saint-Nazaire không nằm trong lộ trình của Spitfire."

"Đúng vậy, tôi sẽ không thể hộ tống anh." Louis xen vào, nhưng vẫn không nhìn Chuck, "Nên đội máy bay ném bom chỉ có thể hoạt động vào ban đêm để giảm bớt rủi ro-"

"Nhưng ném bom vào ban đêm hoàn toàn không thể đảm bảo độ chính xác. Khoan hẵng kể mục tiêu nhỏ như xưởng đóng tàu, ngay cả một xã như Saint-Nazaire cũng khó mà tìm ra được."

"Các cuộc xuất kích ban ngày không nằm trong phạm vi suy xét của chúng ta," Louis nhìn thẳng vào Chuck mà lặp lại, "Không có đội máy bay tiêm kích hộ tống, đội máy bay ném bom có

gần như không có cơ hội sống sót."

"Nếu như tôi tiến vào nhanh rồi lẻn ra nhanh-"

"Không thể nào, anh không trốn nổi radar. Người Đức có thể "thấy" anh ngay khi vừa đến eo biển."

"Nhất định phải có cách khác."

"Trung sĩ, hành động ban ngày có thể dẫn tới nhiều thương tổn, ném bom ban đêm là phương án tốt nhất mà nhóm các phi công có kinh nghiệm đề cử sau khi đã xem xét nhiều yếu tố."

"Vậy à? Vậy những "phi công có kinh nghiệm" kia đã ném bom bao nhiêu căn cứ tàu ngầm rồi?"

Louis mím môi, không trả lời. Chuck biết mình đã chọc trúng chỗ hiểm của họ, một năm qua, những cuộc không kích của Không quân Hoàng gia không có bao nhiêu tác động lên bờ biển ở tây bắc của Pháp, ngược lại thương vong thì vô cùng đáng kể. Đây cũng là lý do vì sao Đại đội Máy bay ném bom số VIII của Hoa Kỳ thấy e ngại khi phải đưa máy bay của mình vào các nhiệm vụ này khi mà tổn thất phải chịu và hiệu quả mang lại không tương xứng với nhau.

"Nghe này." Chuck cầm lấy cây gậy gỗ mảnh trên bàn, chỉ vào bờ biển nước Pháp, thứ giống như gậy bi-a này là thứ mà nhóm điều phối viên dùng điều chỉnh vị trí của đội hình máy bay trong những trận cận chiến, "Nếu đã chấp nhận rủi ro, tôi thà chọn phương pháp có tỷ lệ thành công cao nhất, tôi có thể thử bay thấp tránh radar trong suốt cuộc hành trình-"

"Khỏi nhắc tới xác suất thành công, anh sẽ bị bắn hạ bởi pháo cao xạ."

"Không, anh hoàn toàn có thể dùng máy bay tiêm kích đánh lạc hướng-"

"Trung sĩ Sinclair, Thiếu úy Linden, cảm ơn những lời góp ý

của hai anh." Đại úy Milston tham gia cuộc đối thoại một cách ôn hoà, bước đến giữa Louis và Chuck như thể đang lo ngại rằng hai phi công trẻ này sẽ đánh nhau ngay tại chỗ, "Bộ chỉ huy đưa ra yêu cầu rằng mỗi phi đoàn đều phải cố gắng tránh gây tổn thất các máy bay ném bom nhất có thể, vì vậy, để đảm bảo an toàn, chúng ta vẫn nên hành động vào ban đêm. Nếu thời tiết cho phép, chúng ta sẽ xuất phát vào chạng vạng ngày mốt, hãy đảm bảo phi hành đoàn của anh sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào."

"Vâng, thưa chỉ huy."

Tuy nhiên, thời tiết vẫn luôn không "cho phép". Mưa tới, những đám mây phủ kín eo biển như một tấm màn từ tơ nhện dính dớp đã chặn đứng Không quân của cả hai bên. Ngược lại, tần suất hoạt động của tàu ngầm U-boat không hề giảm xuống, hơn nữa còn tăng lên. Hai con tàu vận tải chở đạn dược của Mỹ bị đánh chìm làm hội đầu cá lại giục giã Không quân hành động. Mãi tới năm ngày sau, rạng sáng ngày 17 tháng 3, mây tan dần, lệnh xuất kích từ Bộ chỉ huy quyền lực cuối cùng cũng truyền thẳng xuống đây, nhanh như trượt trên dây leo. Chạng vạng, B-17 cất cánh cùng với mười sáu máy bay ném bom đêm Blenheim, bay về hướng đông bắc dưới sự chỉ huy của điều phối viên, hội hợp với mười bốn máy bay ném bom tới từ căn cứ Hornchurch ở phía trên eo biển, hướng đến nước Pháp trong màn đêm.

Cabin im ắng lạ thường, im đến nỗi Jody cũng ngừng nói, chỉ có giọng của Leo thỉnh thoảng vang lên phá vỡ sự yên tĩnh, để nhắc Chuck điều chỉnh hướng bay. Đêm nay trăng cũng sáng, đôi lúc có tầng mây mỏng vắt ngang, tốc độ gió ở mức trung bình, miễn cưỡng có thể coi như thời tiết phù hợp để tấn công. Mượn ánh trăng sáng, họ có thể thấy được đội máy bay ném bom của Anh theo vị trí ở hai bên. Thiết bị truyền tin vô tuyến im lặng không một động tĩnh.

Về lý thuyết, đáng lẽ ra họ đã thu hút sự chú ý của các trạm radar Đức từ lâu, nhưng phải đến khi thấy cửa sông Loire trong tầm mắt, Không quân Đức Quốc xã cũng mới chậm rãi xuất hiện, hai máy bay tiêm kích ban đêm Me 110 nhắm bắn họ từ góc phải phía sau rồi nhanh chóng biến mất trong bóng tối. Ba mươi mốt máy bay ném bom của Anh lập tức thu gọn khoảng cách, tạo thành đội hình phòng thủ chặt chẽ, vừa để tập trung nã đạn đan xen, vừa để tháp pháo đằng đuôi che chắn cho nhau.

"Jody." Chuck gọi.

"Đã thấy." Tay xạ thủ đáp, "Cho ông đây hai phút, ông xử đẹp tất cả chúng nó."

Thế mà hai máy bay Me 110 này cứ như bốc hơi giữa trời đêm, hoa tiêu và xạ thủ ở mọi máy bay ném bom đều đang tìm kiếm nó. Thình lình, tiếng súng vang vọng thinh không, một máy bay Blenheim ở bên cánh phải trúng đạn, cháy bừng lên, rơi xuống đại dương đen như mực.

"Tiếp tục tiến lên phía trước, không được kéo giãn khoảng cách." Giọng của Đại úy Milston vang lên trong thiết bị truyền tin, máy bay ném bom của anh ta đang ở phía trước Chuck, bay ở vị trí trung tâm, "Các xạ thủ hãy để mắt tới máy bay địch. Chúng ta sắp đến rồi, sẵn sàng thả bom, hết."

Máy bay B-17 chợt rung lắc như vừa đυ.ng phải chướng ngại vật vô hình, do máy bay Me 110 nã vào đằng đuôi, Jody bắn trả, nhưng máy bay tiêm kích sơn đen của Đức Quốc xã bay lên vô cùng nhanh, rồi lại biến mất khỏi tầm mắt. Bọn họ thậm chí còn có thể nghe thấy tiếng nã đạn liên tục của các máy bay ném bom xung quanh – mà chẳng có phát nào trúng.

Đợt tấn công thứ hai tới trong vòng chưa đầy một phút, lần này nhắm vào mục tiêu là máy bay ở cánh trái, tiếng đạn va vào khung thép bảo vệ leng keng vang lên nghe kinh hãi, tuy nhiên lại không có thiệt hại thực tế nào. Chẳng nghi ngờ gì nữa, tay phi công Đức Quốc xã đã biến chiếc máy bay ném bom bắt mắt của Mỹ trở thành mục tiêu hàng đầu, Jody và đám xạ thủ từ Blenheim xung quanh vẫn tiếp tục nã đạn vào máy bay Me 110, thế nhưng hai máy bay tiêm kích này liên tục đổi vị trí, thay phiên nhau tấn công chiếc B-17. Hai bên cánh lỗ chỗ vết đạn lõm, khoang chính bị đạn lạc khoét ra một vết nứt nguy hiểm. Chuck thấp giọng chửi, nắm chặt cần điều khiển, hạ thấp độ cao chỉ một chút xíu để cùng các máy bay ném bom khác tập trung lại, khiến hoả lực từ máy bay tiêm kích của địch bị phân tán.

Trong khoảnh khắc đám mây lơ lửng che khuất ánh trăng, đội máy bay ném bom đã bay tới bầu trời Saint-Nazaire. Mặt đất tối đen như mực, chẳng thể nhìn ra thứ gì, họ chỉ có thể thả bom chung chung về hướng của bến cảng cùng với xưởng đóng tàu. Pháo cao xạ cũng tham gia cuộc dạo chơi đẫm máu này, bắn trúng chiếc Blenheim trong khi bộ đàm của họ còn đang bật, tiếng la hét và khóc lóc tràn ngập trên các tần số, rồi bình nhiên liệu của họ nổ tung. Ngọn lửa bùng lên trong đêm đen, lại nhanh chóng biến mất.

Chuck đã thả tất cả những quả bom HE và bom cháy, giảm trọng lượng kha khá cho máy bay, chiếc B-17 khổng lồ này cuối cùng cũng có thể né tránh nhanh nhẹn hơn dù chẳng giúp được gì mấy. Hai chiếc Me 110 màu đen vẫn ở phía sau, tấm bảo vệ bên trái máy bay ném bom đã bị bắn thành tổ ong, kèm theo đó là một vết nứt đáng sợ ở sườn máy bay cùng bên.

"Jody!" Chuck hét át cả tiếng động cơ, "Hai phút hết lâu rồi đấy!"

"Im đê!" Tay xạ thủ gào lên đáp lời, "Sang phải!"

Chuck không nghĩ ngợi mà làm theo, máy bay ném bom nghiêng sang phải, làm cho tầm ngắm của tháp pháo quay sang trái, súng máy tiếp tục xả đạn. Một chiếc Me110 mang theo làn khói rực lửa mà rơi xuống, cú nổ mãnh liệt mà ngắn ngủi ấy soi sáng đại dương đen ngòm. Máy bay còn lại của địch lập tức quay đầu bỏ chạy, chẳng biết do đồng bọn ngã xuống hay là do nhiên liệu không đủ. Đại uý Milston lệnh cho tất cả trở về điểm xuất phát, thế là những máy bay ném bom bị máy bay tiêm kích và pháo cao xạ bắn đến tan tác này lại một lần nữa tập hợp vào vị trí, bay về hướng đông bắc³ dưới ánh trăng ảm đạm.

Sáng sớm hôm sau, đài BBC⁴ đưa tin về cuộc không kích đêm qua, miêu tả nó như một cuộc phiêu lưu vĩ đại của các anh hùng, đảm bảo với người nghe rằng ấy là một "thành công vĩ đại". Mãi đến buổi trưa Chuck mới biết thương vong thực tế của đêm qua nghiêm trọng cỡ nào, tổng cộng năm máy bay Blenheim bị bắn rơi và hai vụ hạ cánh ngoài khơi, bảy người thiệt mạng và ba người bị thương. Chính chiếc B-17 của hắn cũng buộc phải đưa đến xưởng sửa chữa, đồng nghĩa với việc hắn không thể thực hiện nhiệm vụ trong ít nhất hai ngày tới. Tệ hơn tất cả là những bức ảnh được máy bay trinh sát chụp và gửi về hôm ấy cho thấy xưởng đóng tàu chỉ bị ảnh hưởng một phần, trong khi căn cứ tàu ngầm gần như không bị tổn hại.

Chuck đến quán bar từ sớm, gọi một cốc bia nhưng ngồi bực bội ở đó một hồi rồi bỏ đi khi còn chưa uống hết. Hắn đến Bộ chỉ huy nhưng Louis không có đó, cũng không có ở nhà chứa máy bay hay phòng chờ. Chuck đứng ở trước cửa phòng chờ, do dự một lúc, sau đó mới đi thẳng đến khu ký túc xá của sĩ quan, tìm phòng của Louis, gõ cửa thật mạnh.

"Tôi muốn bay đến Saint-Nazaire một lần nữa." Ngay khi Louis vừa mở cửa ra, Chuck đã kịp giành phần nói với anh. "Tôi có một kế hoạch."



Chú thích của người dịch (Translator's Note):

1. Gốc: 在1940年夏天落败, dịch nghĩa: Thất bại mùa hè năm 1940. Tác giả đang nhắc tới Trận chiến nước Anh: Sau khi chuỗi thắng rực rỡ kết thúc bằng sự kiện nước Pháp thất thủ, Đức Quốc xã lên kế hoạch chiếm Vương Quốc Anh, nhưng cuối cùng thì Anh đã giành chiến thắng.

2. Chú thích của tác giả: "Đầu cá là cách không quân Anh ngầm dùng để ám chỉ thuỷ quân."

3. Gốc: 飞向西南方, dịch nghĩa: Bay về hướng tây nam. Căn cứ Đồi Biggin và căn cứ Hornchurch nằm ở hướng đông bắc của Saint-Nazaire chứ không phải tây nam như tác giả viết, nên người dịch đã sửa lại.

4. Gốc: 英国广播电台, dịch nghĩa: Đài radio Anh Quốc. Tác giả đang nhắc tới đài BBC, bởi BBC gần như độc quyền thị trường phát sóng radio tại Anh từ lúc thành lập cho tới giữa Chiến tranh lạnh.