Bùa Lỗ Ban... Thực Hư... Thiện Ác

Chương 1-3

Rồi chú nói thêm:

- Bài Tứ Bữu Liêu Thành đã có từ lâu, do cố nhạc sĩ Ba Chột ở Bạc Liêu sáng tác, bài Ngũ Châu Minh Phổ do cố GS Nguyễn Văn Thinh sáng tác khoảng 2,3 thập niên gần đây để đối lại bài trên, nhưng thời gian qua ít có người chơi vì khó quá... mãi đến sau nầy mới được phổ biến rộng rãi cùng với sự ra đời thêm những bài "Hận Nam Quan" của NS Năm Vinh, "Ngũ Khúc Long Phi" của NS Mười Phú...mà cách thức chơi cũng giống giống như vậy... Rồi chú kêu Tư Én:

- Con ca bài Tứ Bữu Liêu Thành đi...

Lần đầu tiên trong đời, tôi được nghe những dòng nhạc chuyển cung thật lạ qua tiếng đờn điêu luyện của các chú Ba Lành, Năm Ri, Sáu Mèn cùng giọng ca của Hấu, Tư Én vợ chồng anh Nam anh Sơn... mà càng về đêm càng thấm thía... để cuối cùng thì chú Ba Lành chép miệng:

- Tụi tao cũng có một cặp Lưu Thủy Bắc Oán Ai và Phú Lục Bắc Hạ Nam Oán... đờn mầy nghe thử nha Bình...

- Nhưng chưa có bài ca mà chú Ba... Tư Én xen vô.

Chú Ba Lành cười:

- Thì tao nói đờn mà, chứ có biểu mầy ca đâu. Nói xong chú đưa cây đờn Kìm và song loan cho chú Sáu Mèn và đón cây đờn cò từ tay chú Sáu:

- Anh Sáu cầm cốt đi, chứ chổ chuyển hơi Hạ tui còn lạng quạng lắm...

Tôi như bị thu hồn vào trong tiếng nhạc... từ cặp Lưu Thủy, Phú Lục hơi Bắc hùng hồn, dưới sự biến cãi của các chú, tôi nghe như tất cã hĩ nộ ái ố của con người đều được diển tả rành mạch... tiếng đàn dứt rồi mà người nghe vẫn còn lâng lâng...

- Hay quá... và trong một phản xạ tự nhiên tôi nói với chú Ba Lành:

- Chú Ba đưa cháu bài nhạc đi, để cháu viết lời ca...

- Ha ha, vậy thì còn gì bằng, phải không anh Năm, anh Sáu...? chú Ba Lành khoái chí khi có người thưởng thức công trình của các chú...

Chú Năm Ri quay sang hỏi Tư Én:

- Con có đem bài nhạc đó theo không vậy?

- Dạ không tía à... hay để con về lấy...

- Khuya rồi còn về lấy cái gì chứ, để bửa khác đi... tía con bây thiệt tình... Giờ tao thấy cũng nên tan hàng để thằng Lành còn lo kiếm cơm chứ... Chú Sáu Mèn cười nhìn Tư Én, sau khi bưng chun rượu uống một hớp...

Chú Năm Ri cũng cười theo:

- Ừ nhĩ, mình ham chơi quá quên mất giờ giấc... chú quay sang tôi:

- Hay hôm nào cậu ghé anh Ba đi, rồi tôi biểu con Tư đem ra đưa cho cậu.

Chú Ba Lành nói:

- Hôm nay là thứ sáu, mai thứ bảy tôi bận đi qua Dĩ An có chút chuyện, chiều chủ nhựt Bình mầy ghé tao đi... ủa mà thứ ba mầy dìa Mỹ rồi làm sao...

Tôi chưa kịp nói gì thì chú nói luôn:

- Ừ, mà có sao đâu, về bển viết xong gởi về cũng được mà... hà hà...như vậy đi nha...

Tôi chỉ biết "dạ" và khi chia tay cùng mọi người, tôi vui lắm khi cầm dùm Tư Én chiếc đờn tranh cho cô ngồi vững phía yên sau chiếc Honda của chú Năm Ri và nhận lại nơi cô nụ cười với lời hẹn tái ngộ chiều chủ nhựt.

Riêng việc muốn hỏi chú Ba Lành về bùa Lỗ Ban, hôm nay tôi không có cơ hội... nhưng tôi nghĩ, tôi còn gặp chú ngày chủ nhựt nữa kia mà...

Chiến và tôi trở lại nhà chú Ba Lành xế chiều ngày chủ nhựt như đã hẹn. Tôi định đi một mình thôi, nhưng Chiến đòi đi theo vì hắn cũng như tôi thật muốn được nghe chú Ba Lành nói do đâu mà chú chửa cái chân trặc của thằng Nhân (đến hôm nay thì nó đã bình phục hoàn toàn)mà không hề đυ.ng chạm gì đến thằng nhóc cả. Hơn nữa hình như hắn ta cũng thích cái phong cách chơi đờn ca tài tữ điệu nghệ, bình dân của chú Ba và các bạn của chú. Còn tôi, ngoài những chuyện đó, dòng nhạc bài Lưu Thủy Bắc Oán Ai cùng người con gái đờn tranh thật tự tin, thoải mái khi kéo mấy con nhạn để chỉnh dây lúc đang hoà tấu (người nhạc sĩ đờn tranh chứng tỏ tài nghệ của mình cao thấp là những lúc như vậy) khi bài nhạc qua khúc chuyển đã để lại trong tôi một ấn tượng khó quên, và tôi rất muốn gặp lại. Có lẽ vì nôn nóng chúng tôi đến hơi sớm, nhà vắng hoe, con ngựa cũng không có trong chuồng. Chiến dựng xe nhìn vào trong nhà nói với tôi:

- Chắc chú Ba đánh xe chưa về.

- Tao cũng nghĩ vậy, nhưng hôm đưa thằng Nhân lên sớm hơn giờ nầy mà chú đã về rồi mà, hay là hôm qua chú đi Dĩ An, gặp độ trên đó rồi. Tôi cười trả lời Chiến.

- Mầy thiệt tình, chú ở trên đó, mối chở hàng cho người ta chú bỏ cho ai chứ, hơn nữa chú đã hẹn với mình mà, thôi, tao với mầy ngồi đây chờ chú Ba đi.

Không lẽ cả hai đều ngồi lên 1 chiếc Honda, vì nhà chú Ba không có cửa, nên tôi thấy ngay chiếc võng trong nhà chú:

- Tao thấy vô nhà chú đưa võng đợi chú có lý hơn đó Chiến, nhà chú không làm cửa thì chú đâu ngại người ta vô lúc chú vắng nhà chứ.

Chiến cũng thấy bộ ván ngựa, vào ngã lưng 1 cái chắc là đã lắm,hơn nữa Chiến cũng muốn mang túi đồ nhậu Chiến đem theo vô nhà, nên chống xe lên, nhưng còn ráng nói:

- Đời bây giờ, đây là lần đầu tiên, tao thấy một căn nhà không có cửa thiệt là lạ quá. Một cái bịch nylon, 1 cái lon... người ta còn lượm, huống chi nhà chú...

Tôi cắt ngang lời Chiến:

- Ừ, tao cũng đang thắc mắc như mầy vậy, hay là chú quen biết hết với các tay giang hồ nên họ hỗng dám vào.

Chiến cười trừ:

- Tao làm sao mà biết chứ.

Hai đứa chúng tôi từ từ đi vào nhà chú Ba. Từ chổ đậu chiếc Honda đến trước nhà chú Ba khoảng hơn 5 thước, nhưng quái lạ, tôi và Chiến bước hoài mà không tới được, cứ chúng tôi bước 1 bước thì cảm giác như căn nhà lui ra 1 chút và khoảng cách 5 thước đó cứ giữ nguyên không ngắn lại chút nào. Buổi xế trưa tuy có gió nhè nhẹ, nhưng hai đứa chúng tôi tháo mồ hôi... Chiến buông túi đồ xuống đất, quay sang tôi run giọng:

- Bình, sao kỳ vậy, nãy giờ hình như tao với mầy chỉ dậm chân tại chổ thui hà...

Tôi cũng đang hoang mang chưa kịp trả lời Chiến thì nghe tiếng vó ngựa trên đường. Chú Ba Lành đang đánh xe về nên tôi nói lãng:

- Chú Ba về kìa...

Tôi quay nhìn ra con đường đất đỏ, nuốt nước miếng để cố dằn những nhịp tim đang rối loạn của mình. Nếu tôi không phải là người trong cuộc thì làm sao tôi có thể tin được một chuyện hoang đường như thế lại xãy ra ban ngày ban mặt. 5 thước đi hoài không tới, mà khi bước thì có cãm giác như mình đang mộng du. Chú Ba Lành ghìm cương cho con ngựa bước chầm chậm vào sân nhà. Chú nhảy xuống dừng nó lại và nói lớn với chúng tôi:

- Tao bận chở thêm một chuyến cho người quen nên về trể chút, tụi bây tới lâu chưa vậy? Sao không vô nhà ngồi cho mát... rồi chú như sực nhớ ra:

- À, mà... Tôi và Chiến đang chờ chú nói tiếp, nhưng chú đã nói tránh đi:

-... chờ tao chút nhen. Ê, Bình, đem những đồ nầy vô bếp đi, hôm nay gặp mấy thứ rau tươi, tao làm món nầy đải mầy và thằng Chiến, mầy ăn xong bảo đảm về bên đó còn thèm hì hì...

Chú cười hà hà khi tôi bước đến đón lấy một cái rổ lớn đựng bên trong toàn rau mà tôi biết tên một số như bông súng, càng cua, đọt xoài, lá hẹ... vài bắp chuối hột và hai con cá bông lau thiệt bự đã làm sạch...

- Món gì vậy chú Ba? Tôi hỏi chú, bưng rổ rau và nhìn vào trong nhà.... hồi nãy tụi cháu...

- Hà hà... bi giờ thì tụi bây vào được rồi, không có gì đâu...

Chú cười lớn và tiếp:

- Mắm kho và rau, mầy và thằng Chiến ăn được không?

Nghe mắm kho tôi đã ứa nước miếng, chưa kịp trả lời chú thì nghe tiếng Chiến:

- Cháu ăn mắm không được, nhưng nuốt được hà chú Ba ơi... ây da, chú Ba biết nấu mắm hả? Hắn mạnh miệng, nên tôi nghĩ hắn cũng đã hoàn hồn như tôi.

- Biết cái mốc xì họ, nào phải tao nấu đâu, nó kìa...

Theo ngón tay chỉ của chú, tôi và Chiến nhìn ra đường thấy cô Tư Én lái chiếc Honda chạy chậm chậm chờ Hấu đạp xe đạp phía sau...

Chú Ba tháo hàm thiếc cho con ngựa, dắt nó vô chuồng... Tôi và Chiến dè dặt bước vào nhà chú Ba... bình thường mà, căn nhà đâu có thụt lùi như lúc nãy, tôi vừa đặt rổ rau xuống chiếc bàn nhỏ sau bếp thì cô Tư Én và Hấu cũng vừa vào đến trước sân.

Vừa tháo cây đờn tranh của Tư Én đang đeo trên lưng xuống (*) Hấu gọi tôi, khi thấy tôi và Chiến đang nhìn ra:

- Anh Bình, đem dùm em cây đờn của chị Tư vào nhà đi, để em phụ chị ấy chút.

Tôi đi ra nhận cây đờn tranh từ tay Hấu, trong lúc Hấu xách chiếc giỏ của Tư Én để trước xe Honda, cho Tư Én chống chiếc xe lên.

- Cũng may khi nãy về ngang chợ, gặp chị Tư, nên mang dùm chỉ cây đờn, chớ để chỉ vừa mang đờn vừa đi chợ chừng nào cho xong... Hấu cười lớn khi dứt câu nói. Cô Tư Én cũng cười khi thấy tôi nhìn cô:

- Thì cũng phải xong thôi, chỉ mua ít đồ gia vị, Hấu làm như đi chợ cho tiệc tùng gì lớn lắm vậy... và cô nhìn sang tôi:

- Hai anh tới lâu chưa vậy?

- Cũng vừa mới tới...

Vừa lúc đó thì có tiếng chú Ba Lành:

- Tụi bây coi con Tư cần gì thì phụ nó nha, tao xách nước cho, sẳn xối mấy gàu cho mát cái đã...

- Nước trong lu còn đầy chú Ba ơi, không cần xách thêm đâu. Hấu vừa cùng chúng tôi vào nhà vừa trả lời chú Ba Lành, khi thoáng thấy chú cầm chiếc gàu đi ra cái giếng sau nhà.

- Vậy khoẻ... chú Ba Lành cười lớn.

Tự nhiên, tôi thấy nơi chú Ba Lành cái cá tánh bộc trực chất phát của người nông dân đồng bằng Nam Bộ quê tôi, thường được thể hiện thật rỏ nét trong tác phẫm của các nhà văn trước 1975 như Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên... và không biết có phải cùng chung cám nghĩ với tôi không, mà tôi thấy cô Tư Én mĩm cười.

- Chú Ba vui tánh quá phải không cô Tư? Tôi gợi chuyện.

- Chú ấy là sư phụ của em mà, còn anh thì sao? vui tánh hay khó tánh đây?

Tôi ngẩn người, chưa kịp trả lời sao với sự dạn dĩ của cô gái, thì cô đã cùng Hấu đi vào nhà bếp, mà trước khi bước Hấu còn nhìn tôi nhe răng cười:

- Hì hì, nhưng khó tánh cở nào gặp chị Tư thì cũng... hì hì hì....

Tôi cầm cây đờn tranh của Tư Én đem vô nhà trên mà lòng bỗng nao nao, câu hỏi của cô tuy tôi chưa trả lời, nhưng tôi biết chắc một điều, dù người nào có khó tánh cách mấy đi nữa, mà nhìn vào đôi mắt đó, đôi mắt tự tin pha một chút gì kiêu hảnh, thì cũng không còn gì để khó.

Đặt cây đờn tranh lên bộ ván ngựa tôi đi ngay xuống nhà bếp. Thằng Chiến coi vậy mà cũng nhanh nhẹn, hắn hầu như đã lặt xong rổ rau. Vừa thấy tôi hắn cười lớn:

- Mầy sướиɠ thiệt nha Bình, cô Tư nói hôm nay mầy đặc biệt không phải làm gì cả, a lê, đi lên nhà trên, không được xuống đây.

- Vậy khoẻ... tôi chợt buột miệng nói lại lời của chú Ba lúc nãy, nhưng:

- Em nghĩ anh không khoẻ chút nào đâu... cô Tư bưng trên tay một thau nước nhỏ bước vào, và cô tiếp:

- Bài nhạc Lưu Thủy Bắc Oán Ai khó lắm đó, em hy vọng anh viết kịp bài ca để hát vào ngày giổ Tổ, chú Ba sẽ vui lắm...

Cô đặt thau nước xuống chiếc bàn nhỏ, cắt chanh nặn vào quậy đều, lấy bắp chuối hột lột bỏ mấy lớp lá già bên ngoài và thoăn thoắt bào vào thau...

- Giổ Tỗ ngày nào hở cô Tư? Tôi hỏi.

- Em không nhớ chính xác ngày nào, nhưng...

- Khoảng đầu tháng 9 dương lịch đó anh... Hấu bưng chiếc rổ nhỏ đựng hai con cá bông lau đã khứa sạch sẽ bước vào tiếp lời Tư Én.

- Được rồi đó Hấu, em nhúm lửa lên cho chị đi.

- Xong ngay.

Trong lúc Hấu loay quay chổ hai cái cà ràng để nhúm lửa thì tôi nhẫm tính:

- Còn hơn hai tháng mà...

- Coi vậy chứ nhanh lắm đó anh. Hấu vừa thổi lửa vừa trả lời tôi.

Vừa lúc đó, nhà trên có tiếng chú Ba Lành gọi tôi:

- Bình ơi, để trong đó cho tụi nó đi, mầy ra đây.

- Dạ, cháu ra ngay, chú Ba... Tôi vừa xoay lưng thì nghe tiếng Tư Én:

- Chú Ba, cuốn tập nhạc con để trong cây đờn của con đó.

- Tao biết rồi.

- Ê, Bình, bưng dĩa mồi nầy lên để chú Ba lai rai trước đi... Chiến gọi tôi.

- Ừ... Đón dĩa thịt quay từ tay Chiến, tôi đi lên nhà trên khi tiếng đờn Kìm của chú Ba Lành như thúc giục.

(* ngày nay, VN có bán bao đờn tranh bằng da, có dây đeo, như đeo ba lô, nên người xữ dụng đờn tranh khi di chuyển bằng xe Honda chỉ cần bỏ cây đờn vào bao đeo lên lưng rất tiện, tuy có hơi nặng chút. )

Nắng đã nhàn nhạt trên sân, cơn gió nhẹ chớm Thu đã xua đi cái oi nồng làm không gian như dịu lại... tiếng đàn Kìm của chú Ba như thêm vào dòng nước mát và trong phút chốc trước mắt tôi hiện lên bức tranh nơi chôn nhau cắt rốn với con kinh Thầy Tùng dừa nước rợp lá xanh, lã mình theo cơn gió cùng cánh đồng lúa vừa trổ đồng đồng... Chú Ba Lành tươm tất hơn trong bộ bà ba trắng, củ tỏi vấn chặt sát vào ót, bộ râu chắc vừa được chải nên mướt rượt, đang lim dim thả hồn theo dòng nhạc hơi Bắc hùng hồn.

Đặt dĩa thịt quay xuống ván, tôi vừa kéo ghế ngồi, thì chú Ba nhịp song loan đôi chấm dứt bài nhạc. Tôi vừa định lấy chai rượu đế hôm rồi còn để sát trong vách rót ra chun cho chú, thì chú ngăn lại:

- Thôi, hôm nay tao không uống đâu, uống một hồi quên hết ráo sao chỉ cho mầy được... nè, cuốn tập nhạc của con Tư đó, mầy coi sơ đi chổ nào không hiểu thì tao đờn cho mầy nghe...

Tôi cầm lấy cuốn tập 100 trang, bìa được bao bằng giấy dầu cẩn thận, mở ra, nhìn dòng chữ ghi đậm thật lớn "Nhạc tài tữ Nam Bộ" và bên dưới là tên của chủ nhân "Võ Hồng Yến". Những trang kế, được ghi chép thật đầy đủ những bản nhạc chuyển cung mà thật tình trước giờ tôi chưa từng được thấy. Chú Ba Lành đã đờn từng bản cho tôi nghe, giảng giải cho tôi những nét đặc biệt của mỗi bản, phân tích chổ hay dỡ... để cuối cùng chú nói nhờ đờn những bản nhạc nầy chú cải biên cặp Lưu Thủy, Phú Lục thành Lưu Thủy Bắc Oán Ai và Phú Lục Bắc Hạ Nam Oán và chú hy vọng nhóm nhạc của chú sẽ thuyết phục được các nhạc sĩ khác chấp nhận chơi hai bài nầy nhân dịp giổ Tổ sắp đến, nếu có bài ca minh hoạ. Mãi mê với dòng nhạc, chú Ba Lành cũng như tôi đã không thấy nắng đã tắt và mùi mắm kho thoang thoảng, nếu cô Tư Én không đi lên:

- Chú Ba ơi, mắm kho nguội hết rồi, mình ăn cơm đi nha.

Ngữi được mùi thơm của mắm kho tôi đã thấy cồn cào trong bụng, chú Ba Lành chắc cũng vậy nên chú cười ha hả:

- Cha, mắm thơm dữ bây, được, được, dọn lên đi, ăn no rồi, mình đờn ca chứ

... ủa mà tía bây đâu, sao tới giờ chưa thấy mặt ổng vậy?

- Hồi sáng con có nghe ổng nói, ổng đi thăm ai bên cầu chữ Y chắc về không kịp đó chú Ba.

- Anh Sáu Mèn cũng vậy, hôm đó tao có mời, nhưng ảnh nói cũng bận không xuống được... thôi hôm nay, mình có bao nhiêu chơi bấy nhiêu, dọn lên đi...

- Có ngay, có ngay... tiếng của Chiến và Hấu thật vui vẻ...

Quả thật từ trước giờ tôi chưa từng được ăn bửa mắm và rau nào ngon miệng hơn hôm nay. Bên Mỹ lâu lâu mẹ tôi cũng có kho mắm, vì tại nơi tôi ở hầu hết thực phẫm của VN đều có bán, nhưng thường cái ngon của mắm bên đó không được trọn vẹn vì sau bữa mắm ngon miệng cả tháng sau nhà vẫn còn mùi... Chú Ba Lành nói với tôi, hôm nay chú không uống rượu, nhưng với Chiến và Hấu thì không nghe chú nói, nên khi bửa cơm vừa xong thì ba người đã ngà ngà, nhưng có lẽ nhờ vậy mà buổi đờn ca hôm nay trong nhà chú cũng sôi nổi không kém gì hôm trước. Chúng tôi đã không nhịn được cười khi Hấu nhại giọng Bắc để hát bài "Hận Nam Quan" của nhạc sĩ Năm Vinh theo lối hát chầu văn, mà khi buông đờn xuống chú Ba Lành đã nói:

- Anh Năm mà nghe mầy hát bài của ảnh như vậy, ảnh không gỏ cán đờn vô óc o mầy mới là chuyện lạ nha Hấu.

Hấu cười hề hề, gải tai:

- Hi hi có mặt ổng, con đâu dám hát chú Ba... và hắn nhìn Tư Én nói ngay:

- Chị Tư nè, chị hát lại bài "Dạ Cổ Hoài Lang" đi...

Tư Én buông đờn tranh nhìn lên, thì tiếng guitar của Hấu đã réo rắt mời mọc, chú Ba cũng vừa nâng cây đờn Kìm lên, thì Chiến xen vào:

- Hay Bình mầy với cô Tư hát cái bài gì hôm rồi đó...

- Thì sau bài Dạ Cổ đi mà... anh Chiến nghe chị Tư ca bài nầy bá chấy bù chét luôn...

Không biết phải như lời Hấu nói không, có điều tiếng ngân í i của Tư Én đã chấm dứt bài Dạ Cổ mà hình như có ai đó cứ ước mình là người mang "Báu kiếm sắc phong lên đường" nếu chú Ba Lành không kêu hắn về thực tại khi chú để cây đờn Kìm xuống, bưng chun rượu lên, khà một tiếng:

- Mầy, quê ở đâu vậy Bình?

- Dạ, cháu ở Mỷ Tho, chú Ba...

- Mỷ Tho?... chú Ba Lành hỏi lại... mà chổ nào?

- Dạ, làng Long Hưng đó...

Chú Ba Lành đột nhiên thấp giọng:

- Mầy có biết chợ Xoài Hột không?

- Dạ biết chứ...

Chú Ba Lành chậm rải móc gói thuốc rê, trong chiếc hộp thiếc nhỏ đã không còn điếu nào, nên chú xé cuồn giấy quyến từ từ vấn điếu khác:

- Không ngờ tao với mầy là người đồng hương...

- Chú Ba là người Mỷ Tho à? Chiến xen vô...

- Ừ. Chú bật hộp quẹt châm điếu thuốc rít một hơi, tôi cho đây là một cơ hội hiếm có:

- Chú Ba à, cháu nghe người ta nói chú Ba biết bùa Lỗ Ban phải không?

Chú Ba Lành quay nhìn tôi, cười mĩm:

- Ai nói với mầy vậy?... vừa hỏi chú vừa đưa mắt nhìn Hấu và cô Tư Én làm cả hai đồng thanh:

- Tụi con không có nói nha...

Chú Ba Lành cười dễ dãi:

- Hà hà, tụi bây nói cũng có sao đâu chứ, vì ai tin bây... nhưng mà, trên đời nầy chuyện gì cũng đều có đầu của nó. Tao biết, thằng Bình mầy đã sống ở nước ngoài, những gì mầy thấy, mầy không tin thì mầy cho là mê tín. Nhưng quả thực, ông bà ta ngày xưa đã có thể làm những chuyện mà người tây phương với máy móc hiện đại cũng không thể làm được... tao nói cho tụi bây biết, đúng, những gì tụi bây thấy hổm nay là tác dụng của bùa Lỗ Ban đó.

Chú Ba rít một hơi thuốc rê, nói tiếp mà không hề để ý đến những đôi mắt đang trợn tròn xoe của chúng tôi:

- Nhưng tao học bùa Lỗ Ban là chuyện vạn bất đắc dĩ và chỉ để hộ thân, đây là lần đầu tiên tao trị cho thằng Hấu cũng như con của mầy... (chú nhìn sang Chiến), vì giữa thời đại nầy mà nói chuyện bùa ngãi thì chỉ có chuốc lấy phiền toái vào mình.

Tôi buộc miệng:

- Sao lại phiền hở chú Ba?

Chú Ba Lành thở dài, cúi mình dán cái mẫu thuốc rê vào phía dưới bộ ván ngựa:

- Dân mình còn nghèo khổ, bệnh tật, thường rất tin tưởng vào thần quyền, nếu họ biết tao, họ không kéo đến đây mới là chuyện lạ, rồi chánh quyền chịu để yên cho tao à... Chú bổng nhiên bật cười:

- Hà, hà, như vậy rồi thì giờ đâu mà đờn ca chứ, tụi bây nghĩ phải không?

Cô Tư Én rụt rè xen vô:

- Nhưng nếu chú Ba trị được bệnh cho người ta, thì cháu nghĩ chú Ba cũng nên làm lắm chứ, chú đã nói dân mình còn nghèo khổ, giúp cho họ không tốt sao?

- Tao đã nói, tao học bùa chỉ là bất đắc dĩ thì làm sao có đủ khả năng để trị bệnh chứ, hơn nữa muốn điều khiển được họ ở bậc cao phải tu luyện chuyên cần, đó là chưa nói có lúc phải làm những việc trái lương tâm, nếu không thì mạng mình giữ còn không xong lấy đâu lo cho người khác chứ.

Nghe chú Ba Lành nói, càng lúc tôi càng mù tịt, nhưng tôi linh cảm được rằng biết bùa Lỗ Ban, nhưng xữ dụng được nó không phải là chuyện đơn giản.

Tôi chưa kịp hỏi chú Ba linh cảm của mình có đúng không, thì Chiến đã hỏi:

- Chú Ba học bùa ở đâu mà chú lại nói là bất đắc dĩ? Và nếu xữ dụng bùa mà nguy hiểm như vậy thì chú có sao không khi chửa cho Hấu và thằng con của cháu?

- Chuyện tao học bùa thì dài dòng lắm, còn chửa cho thằng Hấu và con của mầy, cũng như chuyện hai đứa bây đã thấy lúc ban chiều là chuyện nhỏ vì tao có đủ khả năng, và tao cũng biết có bao nhiêu đó mà thôi.

Rồi không để chúng tôi hỏi gì thêm, chú Ba bưng chun rượu Hấu vừa rót đầy uống một ngụm:

- Bùa Lỗ Ban là con dao hai lưởi... người biết nó nếu đã lục căn thanh tịnh, đạo cao đức dầy, tâm linh trấn áp được quỉ thần, hành xữ nó để cứu nhân độ thế thì đúng là tạo phúc cho người, còn nếu không thì nó sẽ có tác dụng ngược và nạn nhân của nó sẽ vô cùng thê thãm.

- Tại sao lại như vậy, chú Ba có thể nói cho tụi cháu biết được không? Tôi hỏi chú Ba Lành.

- Người luyện bùa Lỗ Ban, sẽ tùy theo thời gian tu luyện, tâm tánh bản thân mà mỗi chữ bùa vẽ ra, sẽ sai khiến được quỉ, thần hoặc tiên làm công việc mình muốn... nhưng phần lớn chỉ sai khiến được quỉ mà thôi vì ai cũng muốn thành đạt nhanh và khó thoát ra khỏi hai chữ danh và lợi...

- Quỉ...! Cả mấy đứa chúng tôi đều kêu lên.

- Phải, vì là quỉ nên khi chúng làm việc, chúng luôn luôn yêu sách và yêu sách nầy phải được thoả mãn.

Tôi và Chiến cùng nhớ lại lời ba vợ nó nói:

- Ếm người ta?

- Đúng vậy. Chú Ba Lành gật đầu.

Tôi ngập ngừng:

- Chú Ba thì sao?

- Tao không học bùa Lỗ Ban để hành xữ nó vì danh vì lợi, mà là để giải căn cho ân nhân của mình nên từ đầu Tổ sư gia Hiệp Ẫn chỉ truyền cho tao những chữ bùa tiếp cận với thần mà thôi.

Thấy bốn chúng tôi há hốc mồm im lặng, chú Ba Lành mĩm cười:

- Tụi bây muốn nghe lắm phải không? hà, hà, ừ, đây cũng là một câu chuyện quê hương mình để thằng Bình mầy, khi về bên đó... biết đâu... gặp họ....