Ai Tông Mạt Quốc

Chương 32: Trận Cư Dung Quan

Triết Biệt tên có nghĩa là thần tiễn, đã cầm cây cung trên tay thì thiên hạ không ai bằng. Khai sinh tên hắn thực ra là tên Khoát A Ngoại, nhưng giờ ai cũng gọi hắn là Triết Biệt, tới hắn cũng chẳng còn dùng đến tên mẹ đẻ của mình nữa. Hắn cao bảy thước, khuôn mặt chữ điền vuông vắn như tạc, đôi mắt như ưng điểu, nhìn xa mười dặm. Hắn ra trận luôn độc một bộ hắc y từ trên xuống dưới, đoàn kỵ binh của hắn cũng mặc trang phục đen, đi tới đâu tàn sát tới đó, người đời khϊếp sợ đặt cho quân đội của hắn cái tên Hắc Tử Binh.

Ngay chỉ khi mới đặt chân lên Cư Dung quan, Triết Biệt quan sát địa thế xung quanh, vẫn thúc ngựa tối đa tốc lực mà nói với phó tướng đi sau là Bạt Kha Đán, “Lũ mọi Kim có thể tận dụng rừng núi thì ta cũng có thể. Cách Cư Dung quan năm chục dặm có một sơn tích mang tên Kim Ngạn, hai bờ núi vừa ngắn vừa dốc. Ta hãy dàn trận ở dưới sườn núi.”

Bạt Kha Đán hồ nghi hỏi, “Ta đóng quân ở đó, chẳng phải trọng kỵ của địch được đà phi nước đại từ đỉnh núi đánh xuống sẽ rất nguy hiểm sao?”

Triết Biệt chỉ cười nhẹ. “Đó là ngươi nghĩ vậy. Lý Khắc Phương là kẻ ham công trạng, ắt hắn cũng sẽ nghĩ chúng ta sai lầm. Rồi ngươi sẽ thấy.”

Lý Khắc Phương vốn dòng dõi Lý gia, từ nhỏ được ở trong cấm cung học binh pháp, hai mươi tuổi đã ra tiền trận làm quân sư, kinh nghiệm trên trận mạc đã hai chục năm tích lũy, đích thị là tinh túy Kim triều. Y sai Hoa Sung, Hỗ Quan Lặc dẫn bảy nghìn quân ra nghênh chiến, còn bản thân cầm năm nghìn quân trong thành, nếu thấy có bất thường là lập tức ứng cứu. Kể cả Triết Biệt có cao tay thế nào, y đã cẩn thận như vậy thì với chỉ năm nghìn quân, hắn cũng không thể làm nên chuyện.

Hoa Sung kéo quân lên Kim Ngạn sơn, thấy Triết Biệt kéo phòng tuyến của mình thành hàng dài, có hàng còn dài tới lọt sâu vào trong hai khu rừng hai bên, không thể nào ứng trợ được với quân ở trung lộ. Sung cười với Hỗ Quan Lặc mà nói, “Trước quân Kim ta thua cũng vì dàn mỏng quân số. Giờ Triết Biệt quân đã ít hơn, lại còn mắc sai lầm tương tự. Thì ra cái danh Bắc Phương Bất Bại của hắn ta cũng chỉ là hão danh.” Rồi lập tức lệnh cho quân kỵ, đang nhân sĩ khí lớn, tối đa tốc độ đánh xuống.

Hóa ra, quân Triết Biệt trải dài ra hai mép rừng đều có ẩn ý. Trong rừng khuất bóng, khó quan sát, nhân lúc quân Kim hăng hái tràn xuống, lực lượng của Triết Biệt ở hai bên mép phòng tuyến đã bí mật vòng qua hai bên quả núi. Lý Khắc Phương đứng trên tường thành nhìn ra, thấy quân Mông Cổ đã lỉnh ra sau lưng, toan đánh tập hậu, mới than lớn, “Hoa tướng quân mắc bẫy rồi!” Liền lập tức tự mặc thiết giáp, cưỡi ngựa xua năm ngàn quân từ Cư Dung quan ra yểm trợ, vạn nhất phải tới được Kim Ngạn Sơn giải nguy trước khi Hoa Sung sập bẫy.

Nào ngờ phía trước Cư Dung là một cánh rừng rậm rạp, hai bên trong đêm quân Mông Cổ đã len lỏi vào trong rừng, sắp xếp ba nghìn kích binh, chỉ đợi quân của Khắc Phương đi qua là giương kích xông ra, từ hai bên kìm kẹp như hai hòn chông. Chủ tướng của quân phục kích là một nữ tướng, đôi mắt đen láy như Thạch Anh, trên trán đội lang bì mão khảm ngọc bích đính trước trán. Đó chính là Hoa Tranh!

Khắc Phương kinh hãi. Quân Mông Cổ vốn toàn là kỵ binh trên lưng ngựa, cả đời băng qua bình nguyên, sa mạc, chưa bao giờ biết nấp trong rừng phục kích! Hóa ra vài ngày trước Hoa Tranh tấn công, cố tình thất bại chỉ cho bọn Phương chủ quan, không những thế còn dò la được địa thế khu vực xung quanh tường thành.

Quả thực lũ kích binh này là từ kỵ binh xoay sở mà ra, chúng không quen đánh trận trên mặt đất. Nhưng quân Kim đang quay cuồng hoảng loạn, đâu có biết được điều đó, chưa đánh mà quá nửa đã chạy ngược trở lại thành. Khắc Phương cố sống chết chém được vài quân Mông, thấy quân của mình đã tự tan rã, buộc phải lui trở lại thành, vừa lui binh vừa than lớn, “Thành bại đã định!”

Quân Mông Cổ dù lấy ít địch nhiều, nhưng vô cùng dũng mãnh, hăng hái, lại được chính Triết Biệt phía sau đốc thúc, quân Kim phá mãi không nổi. Hoa Sung tự nhận thấy dù giao tranh rất quyết liệt, nhưng số lượng áp đảo giúp quân Kim chiếm thế thượng phong. Dù vậy, điều rất kì quái là phòng tuyến Mông Cổ cố gắng hết sức bình sinh để không lùi lại một bước, dù đang chịu tổn thất lớn dần. Hơn nữa, mọi khi quân Mông Cổ phần lớn là khinh kỵ binh cung thủ, nhưng trận này số lượng kỵ binh cung thủ rất hạn chế, có nhiều điểm thật đáng ngờ.

“Bọn Mông Cổ này thật dũng mãnh quá,” Hoa Sung nghĩ trong lòng. “Quân số bọn ta hơn chúng phải gấp đôi, lại còn hai hàng tiếp ứng nhau, vậy mà đánh với chúng cứ như một chọi hai.”

Hỗ Quan Lặc nhìn thấy phía sau hàng đầu binh sĩ của Mông Cổ lấp ló một chỏm mũ đỏ thường được đội bởi chủ tướng. “Hoa Sung, hắn kia kìa! Tóm sống lấy hắn!” Rồi mới múa thương tả xung hữu đột, kình lực hoàng sắc chói lòa, một phát chém chết chục quân Mông Cổ, đâm thương một phát xuyên đầu kẻ đội mũ đỏ. Nhưng nhìn ra lại không phải Triết Biệt!

Hóa ra Triết Biệt vô cùng ranh mãnh, cho tận năm kẻ khác nhau cùng đội chỏm mũ đỏ như hắn. Hỗ Quan Lặc, Hoa Sung cứ xua quân đánh chối chết vào những nơi có chỏm mũ đỏ, nhưng rốt cuộc chẳng ai là tướng địch, mà khi cố sức đánh vào còn bị hao hụt lực lượng không nhỏ.

Tới lúc đó, hai cánh quân Mông Cổ bí mật tách rời đầu trận đã lên tới đỉnh núi Kim Ngạn, tối đa tốc độ phi xuống hệt như quân của Hoa Sung ban nãy, tên bắn xuống rào rào như mưa. Quân Mông Cổ ở phía dưới cũng vô cùng ăn khớp, giương thương kích phi lên. Hai cánh quân như một cánh cổng sắt hai bên đóng sầm lại, khiến kẻ ở giữa nát bấy như miếng thịt bầy nhầy.

Hoa Sung giật mình nhìn ra sau, thấy kẻ địch phi xuống như vũ bão, nhận ra mình trúng kế thì đã quá muộn.

Bấy giờ mới đích thân Triết Biệt cưỡi ngựa phóng thẳng ra từ trong quân, tay cầm Thiên Sát Cung ngắm bắn chỉ một tích tắc, từ khoảng cách xa vài trăm mét một tiễn trúng mắt trái Hoa Sung.

Hoa Sung gào lên thảm thiết, rút tên ra khỏi đầu thì con ngươi cũng đứt ra theo. Triết Biệt cưỡi một con hồng mã mang tên Thiên Kỵ, trông vừa nhỏ vừa lùn, vậy mà bay trong đám đông không đυ.ng phải một người nào. Nó nhảy qua người này, phi qua kẻ kia, mỗi vó ngựa cất lên như lướt trên không khí, chướng ngại vật trước mặt mà như ở giữa đồng không mông quạnh. Hoa Sung dù chỉ còn một mắt, trước mặt còn có quân Mông Cổ đứng chắn, nhưng vẫn kịp nhìn Triết Biệt đánh đến. Sung cầm đôi liêm đao, một chiêu Xoa Đao Sát, hai lưỡi đao chém theo đường chéo thành nhìn chữ nhân, xả tên lính đứng trước mặt thành bốn khúc.

Triết Biệt phi đến, rút từ sau lưng ra một thanh kiếm khảm ngọc bích, bắt mắt vô cùng. Thanh kiếm này mang tên Du Long Hí Thủy, thân kiếm dẻo dai, kẻ biết sử dụng có thể điều chuyển khí tức của mình qua đó, sao chép nguyên bản nội công của kẻ cầm kiếm. Nội công kẻ ra chiêu có thuộc tính gì, thanh kiếm cũng có thuộc tính như vậy.

Triết Biệt chém một chiêu, những tia hắc sắc bắn tóe ra từ thanh kiếm, đường nét như tia chớp. Kiểu ngoại kình như thế này, Hoa Sung mới nhìn thấy lần đầu. Sung dù hốc mắt còn chảy máu vẫn đỡ kịp, nhưng cảm thấy hai tay tê rần, vô cùng khó chịu. Biệt chém thêm vài chiêu nữa, Sung dù sức địch muôn kẻ cũng chưa thấy kẻ nào ra chiêu dũng mãnh như vậy, liệu thế không chống nổi mới quay ngựa chạy. Nhưng ngựa của Triết Biệt nhanh hơn, chưa đầy chục bước đã bắt kịp, chém Hoa Sung làm đôi.

Hỗ Quan Lặc ngay gần đó nổi cơn xung thiên, định một thương chọc thủng ngực Triết Biệt. Ai dè hắn ta nhìn thấu, thân thể dù cường kiện nhưng không hề ì ạch, tránh né dễ dàng. Triết Biệt vung một kiếm phản kích, Hỗ Quan Lặc đỡ không kịp, bị lòi cả ruột gan, ngã khỏi lưng ngựa chết tươi.

Quân Kim hai tướng đã chết, lại còn bị đánh vỗ hai mặt, nhanh chóng rơi vào hoảng loạn, dù quân số gấp đôi cũng bị giày xéo, tám nghìn quân chết gần như bằng sạch.

Thừa thắng xông lên, đại binh của Triết Biệt sát nhập với quân của Hoa tranh, đánh thẳng vào Cư Dung quan. Quân Kim còn lại trên ải thấy đại quân bị đánh bại hoàn toàn, sợ hãi bỏ cả ải mà chạy tán loạn. Triết Biệt xua quân xô đổ cổng thành, xông vào Vạn Lý Trường Thành, uy khí ngút ngàn trời đất, Lý Khắc Phương cởi thiết giáp, quỳ rạp dưới ngựa xin hàng. Đây chính là trận Cư Dung quan lưu danh thiên cổ, một trong nhiều chiến tích quân sự lỗi lạc của thiên tài Triết Biệt. Nhưng nó chưa là gì so với thảm cảnh Dã Hồ Lĩnh diễn ra chỉ hai tuần sau đó.