Trương Nhu rú lên một tiếng thảm thiết. Lân, Hà biết rằng suy đoán của bọn họ đã đúng. Kinh ngạc thay, chân của Nhu vẫn còn nguyên vẹn dù cho Lân tưởng như cũ chém đã cắt được qua thịt. Quả nhiên, nội lực phi phàm khiến cho dù chỗ dễ tổn thương nhất của hắn cũng vẫn sắt đá. Đau đớn tột cùng, Nhu nghiến răng nghiến lợi lấy cán thương gạt kiếm của Lân ra. Lân nhanh chóng liên hoàn cước, cước nào cước đó đạp trúng vị trí cậu vừa tấn công, không sai một ly. Lân trước giờ không tập nhiều quyền cước; nếu kiếm pháp tập hàng vạn lần thì một quyền cước chỉ kinh qua vài trăm lần thôi, nên công lực không cao. Tuy vậy, Trương Nhu đã tổn thương sẵn, càng bị đánh vào thì càng đau, rống lên liên tục.
Tới giờ nơi nhát kiếm của Lân chém qua mới hình thành vết cắt, rỉ máu. Ô Di Hà nhân thế ập vào, nhưng do quá nôn nóng nên Trương Nhu nhìn thấu hướng tấn công. Hắn phóng một chưởng Thiên Công Dị Cấn, ma lực phóng thẳng vào ngực Hà, khiến y phải giơ đao vội đỡ, mà vẫn bật lại sau ba bước. Nhưng giờ hắn đang thương tích, yếu điểm chí tử đã lồ lộ, lại còn xung quanh ba mặt ba địch nhân, sao có thể không chịu chết?
Thừa Lân nhớ lại chiêu thức Phiêu Tuyết Xuyên Vân trong cuốn bí pháp Hạc kiếm, chỉ cần chính xác xuyên đúng luyện môn là đối thủ thịt nát xương tan. Nhưng khi cậu ngắm đúng điểm cần đâm kiếm tới, chuẩn bị ra đòn, tuyết bất chợt rơi lả tả, rồi mây mù kéo đến khiến trời tối sầm một sắc. Lân mất đi khả năng quan sát, kiếm đi chệch hướng.
Trương Nhu lập tức nắm cơ hội, lập tức nín đau vùng dậy, phi qua rừng cây mà lẩn khuất. Bọn Cổ Mạnh Ninh, Ô Di Hà vươn tay bừa mà bắt, một tay Cổ Mạnh Ninh sượt qua cầu vai thiết giáp của Nhu, nhưng tóm lại không kịp. Nhu cho dù đau đớn, nhưng thực tình chân vẫn chưa bị trọng thương, không tổn hại tới kinh mạch. Hắn tự nhủ cảm giác đau đớn là giả dối, khi cái chết hiển hiện trước mắt lại như được tiếp thêm luồng sinh khí vô hình, tốc độ tẩu tán chớp nhoáng.
Ô Di Hà hét lên một tiếng. Chưa bao giờ Thừa Lân thấy kẻ điềm đạm như y lại nổi xung tới vậy. Cũng là phải thôi. Đã bắt được địch nhân trong lòng bàn tay lại còn để xổng, chẳng lẽ là số trời đã định?
“Đại huynh,” Cổ Mạnh Ninh mới nói. “Hay cứ để hắn đi? Ta thiệt hại nhiều quá rồi, Kiều nhị ca và nhiều người nữa đều đang bị thương.”
Ô Di Đạo vùng dậy, quát, “Không thể để hắn chạy thoát! Hắn sẽ để lộ vị trí chúng ta.”
“Tứ đệ, đệ có sao không?” Mạnh Ninh và Ô Di Hà cùng hỏi Đạo.
“Đệ đang rất ổn!” Đạo bật dậy, nhưng lập tức ôm bụng, ho khù khụ. “Ổn lắm. Chỉ là bỗng dưng lên cơn đau họng. Chân đệ vẫn chạy tốt. Phải mau mau đuổi theo tên cẩu tặc đó.”
“Hãy biết liệu sức mình!” Hà nói, rồi sai Cổ Mạnh Ninh ở lại chăm sóc các thương binh, trước khi quay qua Thừa Lân. “Hoàn đệ, hãy cùng ta đuổi theo Trương Nhu.”
Thừa Lân gật đầu.
Trời nổi sấm chớp đùng đùng, chuyện tuyết vừa rơi sấm sét vừa nổi lên không phải chuyện thường nhật. Tuyết rơi xuống khiến dấu chân của Trương Nhu ghi lại trên mặt đất rõ ràng. Cứ chục giây chớp lại lóe lên, vừa đủ để bọn Hà, Lân hai người định vị trong rừng thẳm.
Về phần Trương Nhu, đôi chân hắn đau đớn lại còn bị thúc ép phải hoạt động, trong khi đó trời nổi bạo phong, tuyết rơi càng lúc càng dày, khiến hắn không còn chạy được nữa. Hắn rủa trời rủa đất vì sự xúi quẩy này. Hắn hàng Mông Cổ là để tìm đường sống, nay chết nhục giữa khu rừng hoang vu này thì mạng vừa mất danh tiếng cũng chẳng còn.
Trương Nhu ngồi tựa lưng vào một gốc cây, lục lọi trong thiết giáp của mình, tìm viên Thặng Công Đan. Thặng Công Đan vốn dùng để khuếch đại lượng nội công vốn có trong cơ thể kẻ sử dụng, giã nhuyễn ra thành Thặng Công Tán có thể sử dụng liều lượng nhỏ có thể dần dần cải thiện tiềm lực nội công tối đa, còn trong lúc cấp bách có thể nuốt trọn một viên đan để ổn định lại kinh mạch bị đối phương phá hoại. Thặng Công Đan được bào chế ra từ dương nhung chỉ thảo cực kì hiếm có, nên số lượng đan luyện được không nhiều, người sử dụng cần thực sự tiết chế. Nhưng tình cảnh ngàn cân trao sợi tóc thế này, không sử dụng thì dễ thương họ Trương mang luôn viên đan dược quý về cùng xuống âm ti.
Thế nhưng, Nhu lùng sục khắp nơi trong người, nhưng không thấy Thặng Công Đan đâu hết. Hắn hoảng hốt lầm bầm, “Viên linh đan đó đâu? Đâu rồi?”
Một tia chớp nữa lóe lên. Một bóng người khinh công tới trước mặt Trương Nhu, xòe tay ra trước mặt hắn. “Ngươi tìm cái này chăng?” Đó là Hoàn Thừa Lân, với viên Thặng Công Đan trên tay. Chẳng là khi Trương Nhu bỏ chạy, viên đan dược rơi ra vừa lúc một tia chớp lóe lên, Thừa Lân đã nhanh mắt nhìn thấy, nhanh tay nhặt được.
Đi ngay sau chàng là Ô Di Hà, tay lăm lăm cây đại đao.
“Ngươi! Ngươi làm thế nào có thể?” Trương Nhu chỉ mặt Ô Di Hà. Chìm trong lôi quang, khuôn mặt của Hà hiện lên, lãnh đạm mà đầy sát khí, đó chính là thần thái của tử thần. Nhu cầm thương lên cự chiến, nhưng hắn đang ở thế tọa hạ, Thừa Lân và Ô Di Hà đánh thêm chục hiệp, đã giải giới thành công.
Ô Di Hà giọng băng lạnh nói với Trương Nhu, “Ngươi nói chí phải. Họa này là ngươi tự rước lấy.”
Trương Nhu giọng run rẩy, hai tay giơ trước mặt. “Từ từ, từ từ đã! Ta có thể thương lượng! Ta có nhiều điều về giặc Mông ngươi có thể muốn biết! Hãy tha ta một cái mạng này, ta sẽ nói ngươi biết!”
“Nói cho ta nghe ngươi giờ dưới trướng ai?”
“Bạt Tác. Hắn là cháu của Thành Cát Tư Hãn, một trong Lục Khuyển của nguyên soái Húc Đồ Cung.”
“Bạc Tác mang theo bao nhiêu quân?”
“Tổng cộng bảy trăm lính kỵ, ba trăm thương binh, hai trăm hậu cần.”
“Lính kỵ phân bổ thế nào?”
“Chỉ một phần thiết kỵ, còn lại đều là kỵ binh cung thủ.”
“Giờ đạo quân chính của Bạt Tác đang ở đâu?”
“Bên kia Thái Tử giang, cách đây hai mươi dặm.”
“Tốt lắm. Giờ ta đã biết đủ, ngươi chết được rồi.” Ô Di Hà giơ cao cây đại đao.
“Ngươi… ngươi đã hứa!”
“Ta chưa hứa với ngươi lời nào.”
“Đợi đã! Ta vẫn còn—” Trương Nhu thét lên, nhưng đại đao của Ô Di Hà đã vung đến.
Một tiếng sầm gầm vang. Đầu Nhu rơi xuống đất.