Qua rất nhiều rất nhiều năm, bàn tay tôi đã bị những nếp nhăn xô bồ đến xác xơ, nhưng nó vẫn có thể viết trọn vẹn cái tên ấm mùi hoa và thoảng lẫn hương thuốc đó, sâu sâu nặng nặng, tỉ mẩn đè nén trong linh hồn. Đúng thế, một cái tên của Trung Hoa xưa cũ, —— Hiển —— Di ——, từng đường từng đường, hai mươi hai nét, như thanh dao găm bén ngọt, xé tan sinh mệnh của tôi vào năm hai mươi hai tuổi ấy. Nửa đời trước an lành, nửa đời sau gian truân, cho đến tận khi bàn tay Thượng đế nhân từ khép lại con mắt tôi, cũng vĩnh viễn chẳng thể quên được.
—— Hiển Di.
Ái Tân Giác La Hiển Di, người đầu tiên và cũng là người cuối cùng tôi đã yêu.
Năm 1894, tôi sinh ra trong một biệt thư bên bờ sông Seine.
Đó là một sớm xanh trong, màn hoa màu hồng diêm dúa được gió nhẹ khẽ khàng cuốn lên, để lộ từng bức điêu khắc thiên sứ với những lọn tóc quăn quăn. Trên vách tường trắng thuần, tường vi hồng leo chật kín, cánh hoa vươn nở, thẹn thùng e ấp, mà đêm hôm qua, từng cánh từng cánh đã rơi, như sao sáng đầy trời.
Tôi nhớ, bàn tay đầu tiên đã ôm tôi vào lòng, vừa thuôn trắng lại mềm mại, trên da thịt vương đâu đó hương thơm của hoa sơn chi, ăn sâu bén rễ, bàn tay chỉ thuộc về người phụ nữ phương Đông.
Sau đó, tôi biết, bà là bà nội tôi.
Thời thơ dại, tôi thích cùng chơi với các bạn trong vườn tường vi hồng. Ánh dương không ấm không lạnh vắt ngang qua đầu con sóc nhỏ miệng nhậm búng trái cây, luôn luôn có mùi thơm của hoa cỏ. Chơi mệt rồi, sẽ lấy ra chiếc làn dã ngoại bà đã chuẩn bị sẵn cho. Giữa những sợi nan được bện thắt dẻo dai, bánh gato bông bông như tà váy nàng tiên trong chuyện cổ tích, tầng tầng lớp lớp, rồi cô yêu tinh tí hon với đôi cánh bay bay, vung vẩy cây gậy pháp thuật khiến đám oắt con bướng bỉnh cũng phải ngoan ngoãn lại.
Raleighan, Raleighan, các bạn đều gọi tôi như thế. Đúng vậy, Raleighan Gautier, tôi kế thừa tên của ông nội quá cố, cha mẹ nói, tôi là người giống ông nhất trong cả gia tộc, nhất là đôi mắt, xanh như bầu trời sau mưa, có đường cầu vồng đổ dài, trong veo mà thanh khiết.
Bà nội tôi là một phụ nữ Trung Hoa rất già rồi, tháng năm đã tàn phá gương mặt bà nhưng phong thái cổ kính cả đời thấm sâu thì lại chẳng thể nào xóa đi. Bà có đôi bàn chân thon nhỏ như đóa sen trắng, sinh trưởng giữa làn khói nước mê mang. Đa số thời gian, bà thích một mình nằm trên ghế mây, nhìn đồng hồ trong phòng khách. Tích tắc tích tắc tích tắc tích tắc, như thần chú của một quốc gia bí hiểm từ trăm năm trước, bị lớp tro mỏng che phủ, nghe mà không thật.
Thơ ấu tôi đắm chìm trong những câu chuyện bà kể, Trung Hoa xưa to lớn nhường ấy, có hương trà bần hàn, giữa làn sương mù bay, rành rọt hiện lên một đôi mắt, một làn tóc đen sẫm, gương mặt thuôn nhỏ trắng màu ngà voi, rồi sau đó, đắm mình vào những giấc mơ về phương Đông.
Như triêu cận giả lang thang, rồi cuối cùng cũng phải trở lại chốn về của mình. Từ khi ra đời, lòng ngoan đạo nhỏ bé của tôi chưa từng một lần dừng lại. Có lẽ, có lẽ kiếp trước tôi đã sống ở nơi ấy, để lại yêu thương và cả những tiếc nuối nên kiếp này trở về đáp đền.
Cái năm tôi tròn hai mươi hai tuổi đó, tôi bỏ mặc sự phản đối của gia đình, một mình lẻ loi tới Bắc Bình, Trung Hoa.
Ấy là mùa xuân năm 1915, hoa đào nở rất sớm.
Cố đô phương Bắc, là tình nhân mà bao đời Hoàng đế Trung Hoa quyến luyến chẳng rời, ngàn năm trôi qua, khói lửa chiến loạn đã giày vò khôn tả, song linh hồn nó vẫn còn đây, chưa từng đi đâu cả, trên tấm tranh cuộn dài dằng dặc, nó chỉ nằm tại đây hàm súc mà hiển hiện một góc hoàng thành, nét bút thật đậm, son mẫu đơn dùng thay chu sa, rượu bồ đào, chén dạ quang, phù hoa đồi mi, khuynh đảo chúng sinh.
Chẳng có người qua lại, con phố trống không, mưa phùn rơi, giọt mưa xanh mát đáp lên cơ thể, lạnh tái, pha loãng đi chút nào đó ngạo mạn hoa quý, vậy mà, rất giống với Giang Nam bà nội đã kể tôi nghe, người phụ nữ bị gả đến nơi đất khách xa xăm ấy, vĩnh viễn không thể bỏ lại cố thổ mình. Rồi sương mù bay, hoa sơn chi ùn ùn kéo tới.
Một mảnh ngói lưu ly to màu xanh rét buốt ngả bên góc mái cong, cuộc đời tinh điêu tế tác*, chỉ xuất hiện trong những câu chuyện thuở bé. Vài cành đào bên trong bức tường thấp không chịu phận cô quạnh của xuân sớm, nghiêng thân mọc ra ngoài, và đang cười đến run rẩy là những áng mây hồng rực chất chồng lên nhau.
(Tinh điêu tế tác: chế tác hoàn hảo, ở đây có thể hiểu đại khái như ‘cuộc đời hoàn mỹ’.)
Những nụ cười hồng diễm, từng đóa, từng đóa, từng đóa, ngăn trở ánh mắt tôi, tôi vươn tay muốn vén lên…
Và rồi, tôi nhìn thấy y.
Nhiều năm sau này mới nghĩ lại, có lẽ tôi tới Trung Quốc, chỉ để gặp y, yêu y, rồi rời khỏi y, hoàn thành cuộc đời Thượng đế đã ban cho tôi, sau đó, dần dần già đi.
Con đường nhỏ lát đầy những đá, y từ cuối đường bước tới, khẽ khàng lặng lẽ như một cô hồn. Không che ô, mái tóc đen sẫm ướt đẫm nước mưa, từng giọt từng giọt, ngưng thành hàng lệ xanh ngăn ngắt. Trên lớp tơ lụa mềm mại, có mười ba con phượng hoàng nghỉ chân, tay áo bạc vân, khuy cài bàn long, cổ áo lược tùng dựng cao, tua cờ đỏ rực thả xuôi, như một đoạn chuyện xưa cũ mỹ lệ thê lương xảy ra từ trăm năm trước, và cái tên cũng đã bị vùi lấp, có lẽ, có lẽ có thể gọi là Giáng Tuyết.
(Giáng Tuyết: tuyết đỏ thẫm.)
Ngẩn ngẩn ngơ ngơ, người mà suốt đời này khiến tôi chẳng thể ngủ yên, khăng khăng xuất hiện ở cả cuộc đời tôi. Tôi gặp gỡ, không hẹn định trước, không kịp trở tay, cứ như vậy gặp gỡ, người đã luôn nằm trong chiêm bao của tôi về một Trung Hoa cổ kính.
Lần đầu tiên gặp gỡ, là truyền kỳ cả kiếp người.
Đã quên rồi, làm thế nào đưa tay cầm ô, chống đỡ cho y một khoảng thiên địa nho nhỏ, chỉ nhớ rằng đã mua từ cô gái bán hoa một cây dù trúc tím, tám mươi tư nan, trên mặt ô trắng muốt bay đầy những đóa đào hồng rực.
Y nhìn tôi, trên vầng trán tái nhợt, những lọn tóc buông rơi tán loạn, con ngươi bị nước mưa xối ướt, rất đen, rất sáng.
Lo lắng ngơ ngẩn thật lâu, gần như soát hết trong đầu một lượt tất cả câu chữ tiếng Hán bà nội đã dạy, cuối cùng, tôi chỉ thốt lên câu nói ngắn ngủi, tôi đưa em về nhà.
Ánh mắt y hơi dao động, ngón tay mang sắc trắng của đào chậm rãi giơ lên, chỉ hướng mảnh ngói hồng cách đó không xa, đỏ tươi đỏ tươi, như hoa đào nở rộ giữa đêm tối.
Tòa nhà rộng lớn được giấu giếm trong con ngõ ngoằn ngoèo, dưới bậc thềm rải rác thi thể những côn trùng không tên. Cửa khảm rất cao, sơn son vòng vàng nhưng rêu đã phủ xanh cả, nhìn thật hoang phế, như tấm áo lông lỗi thời, che thiên phủ địa mà vây khốn, khiến người ta thở không nổi.
Một lão nô bộc mở cửa cho chúng tôi, giọng nói the thé phân không rõ giới tính, chỉ còn dư lại lớp da thịt héo hắt. Con ngươi khô vàng liếc thấy y, cung cung kính kính mà cúi gập thắt lưng.
Mái cong chạm trăng lưỡi liềm, thật cao thật cao, che đi ánh dương, quanh năm chẳng thấy mặt trời, lầu hoa song vuông, hành lang chín khúc, cũng nhìn được đâu đó phong quang ngày xưa của tòa nhà này. Có lẽ đã xảy ra chuyện, chứ nhất định không phải là ngôi nhà người thường được ở. Đằng sau tảng đá lởm chởm đến kỳ cục của hòn giả sơn, vài đôi ngươi dè dặt đang thăm dò, nhìn kỹ lại, hóa ra là mấy con mèo nhỏ vừa mới sinh, nhốt trong l*иg trúc xanh, máu từ trong bụng mẹ dính trên bộ lông trắng thuần vẫn chưa lau sạch.
Một mình một bóng quanh quẩn giữa vườn hoa hoang vắng, quanh quẩn, quý ngài, chủ nhân tôi cho mời. Quay đầu lại, cụ già mặt đầy nếp nhăn, run run rẩy rẩy mà nói.
Đẩy cửa chính màu đen chạm hoa, vừa liếc mắt đã thấy y.
Trong lư hương kỳ lân lất phất khói phù dung, là mùi hương ngọt lành mà mục nát. Người nằm nghiêng trên tháp đã đổi y thường sạch sẽ ấm áp, mái tóc đen sáng loáng dịu dàng rũ xuống, phủ kín hết chăn nệm, cần cổ trắng ngần không đủ sức chống đỡ, chỉ đành khẽ ngửa ra sau. Tay như không xương, mềm mại nắm lấy tẩu thuốc màu bạc, hương thơm của thuốc phiện thượng đẳng vẫn còn mịt mờ đâu đây, ngan ngát chẳng tan.
Biếng nhác nâng lên con ngươi.
Anh đến rồi.
Hàng mày dài mảnh lợt lạt khẽ cong, phồn hoa trong gió lập tức biến hóa.
Thủy tinh khắc chín rồng, phỉ thúy làm vòng ngọc, trên vải lĩnh xanh lam chèn những đường bạc mỏng còn vẽ vài cành sen trắng, hương lạnh mỹ lệ, dường như ai đó muốn giúp y một tay, chế tác mộ phần cho y, vì chúng đều là vật bồi táng cả.
Trắng như tuyết, làn sóng trắng như tuyết, tôi nhớ tới mình đã từng nhìn thấy biển xanh. Nhẹ nhàng giẫm nát lớp cát tinh mịn dưới chân, chợt thấy hơi đau đau, vỏ sò màu sắc rực rỡ lóe sáng dưới ánh mặt trời, ngoài khơi cuộn lên tầng tầng sóng cả, qua thật lâu, biển mới ranh mãnh thở một hơi dài đằng đẵng, như thủy triều rút xuống, xuống rất xa rất xa, cũng không còn thấy được nữa, không còn đến lần nào nữa, cả khoảng xanh thẳm chẳng bóng người.
Khi ấy, cánh cửa lăng mộ, ầm một tiếng, nặng nề khép lại.
Tôi biết, mình không thể, và cũng không muốn chạy trốn.
Hết chương 1