Ngục Thánh

Quyển 6 - Chương 24: Chuyện kể một người

Trên thế giới này, điều gì là thật? Có sự thật nào để bàn tay con người bám vào và không bao giờ nghi ngờ?

“Chẳng có gì là thật, mọi thứ chỉ là ảo ảnh!”. Những người hiểu biết trả lời như thế.

“Chẳng có gì là thật, chỉ Vạn Thế mới là sự thật!”. Các tín đồ ngoan đạo trả lời như thế.

“Anh thắc mắc sự thật bằng đôi mắt nhưng không hề thắc mắc bằng bộ não. Và nếu anh tìm lời giải đáp bằng trái tim thì anh lại để lý trí ngủ quên dưới vực sâu. Anh cũng không hề biết ngay cả bộ não hay lý trí chỉ phản chiếu nỗi khát khao của anh, chứ không rọi chiếu sự thật của vạn vật như chúng là vậy. Thậm chí vạn vật chỉ biểu hiện qua dáng hình bề ngoài chứ không phải sự thật cốt lõi!”. Một nhà hiền triết trả lời như thế.

“Sự thật? Hỏi gì kỳ quặc?! Rảnh hơi quá hay sao, Liệt Giả?”. Hầu hết người bình thường trả lời như thế.

Dù đã hỏi nhiều người nhưng Liệt Giả chưa một lần thỏa mãn. Anh không thấy người bình thường và tín đồ ngoan đạo giải thích một cách tử tế – họ chỉ biết về điều mà họ thấy. Anh cũng chẳng thấy người hiểu biết và nhà hiền triết trả lời thực sự – họ chỉ thích chứng tỏ sự thông minh của bản thân. Hầu hết họ nhìn anh bằng ánh mắt ngạc nhiên rồi quay đi như lảng tránh. Người ta ghét bị hỏi và ghét kẻ hỏi nhiều, nhất là bị hỏi từ một “tên nhà quê” tóc đỏ.

Liệt Giả không ngại bị gọi là “tên nhà quê” hay “kỳ quặc”, anh tự biết mình khác người. Anh nghĩ bọn họ không hề biết câu trả lời, kể cả tín đồ ngoan đạo. Theo nghiệp thánh sứ, Liệt Giả thừa biết tín đồ ngoan đạo nhất từng ngửa mặt lên trời nguyền rủa Vạn Thế ít nhất một lần trong đời. Phần nào đó ở tâm trí họ nói rằng cây mẹ không hề “thật” và luôn tồn tại nghi ngờ.

“Sự thật giữa cuộc chiến này? Hà hà! Tôi không biết. Nhưng tôi biết những thứ biết nói sự thật đấy, tóc đỏ. Kiếm có lưỡi nhưng không quanh co, đạn có đầu nhưng không dối trá. Tại sao cậu không hỏi chúng?”

Mèo Hen trả lời như vậy. Gã kính cận đó luôn thích đánh đố. Nhưng chí ít là gã chịu lắng nghe Liệt Giả thay vì lảng tránh, bởi trong mắt gã, Liệt Giả không phải “tên nhà quê” hay “kỳ quặc”. Tựa hồ gã cũng thắc mắc về sự thật, không lảng tránh hay tự huyễn mình giống bao người khác. Hoặc có thể gã thông cảm cho anh – sự thông cảm của những người trẻ tuổi bị cuốn vào Chiến Tranh Tài Nguyên từ sớm, những người vốn háo hức tìm kiếm vinh quang như Thời Đại Thủy Triều để rồi vỡ mộng.

Nếu chẳng có điều gì là thật, phải chăng thế giới Tâm Mộng này cũng không thật? – Liệt Giả đau đáu. Anh đang bước vào, hay đúng hơn là lỡ bước vào con đường của một nhà triết học: bận tâm những thứ giản đơn nhất, cố gắng phức tạp hóa chúng bằng nhiều định nghĩa rồi nhọc công tìm một lời tuyên ngôn ngắn gọn hàm súc. Nếu Dạ Bích ở đây, hẳn nhiên cô sẽ cười anh vì rảnh rỗi sinh nông nổi. Nhưng đồng thời cô cũng sẽ thông cảm cho anh. Ngoài mặt trận, tâm trí con người hiếm khi vượt quá bàn tay mình. Nó bị tù túng trong ngột ngạt. Vậy nên lúc được nghĩ và có thời gian để nghĩ, nó sẽ bay xa, vượt qua cả đường chân trời, đến những miền đất xa xôi tới độ Cội Gió chỉ là một trạm khởi hành. Không phải thư viện hay cuộc hội họp giữa những con người thông tuệ mà chính ở chiến trường, người ta đặt nhiều câu hỏi nhất và gắng sức tìm câu trả lời. Tự nguyện. Không ràng buộc.

Vậy cái gì là thật?

Như Mèo Hen nói, kiếm và đạn không dối trá. Có thể chúng không thật nhưng chúng luôn nói thật. Vấn đề là, Liệt Giả chưa bao giờ hỏi chúng. Ít nhất thì tâm trí anh chưa tưởng tượng ra thanh kiếm và viên đạn biết nói. Chúng sẽ có cái miệng, tranh nhau nói, tranh nhau tấu hài như phim hoạt hình chăng? – Liệt Giả tự hỏi. Anh thấy không tệ nếu khung cảnh hoạt họa lố bịch đó diễn ra. Có hai cái mồm liến láu bên tai cũng vui. Tại xứ phương nam Thượng Cổ này, mọi thứ đều khan hạn dưới mặt trời đỏ lửa và những trận bom trút. Tất cả đều rạc ra vì nắng nóng, vì tiếng bom nổ trút xuống cái nóng ấy như tưới nước vào dầu sôi. Chiến trường nơi đây cần nước và khí thở, không phải lời tâm sự.

Giả rằng có thể tâm sự, người ta sẽ nói về gia đình, quê nhà hay những cổ vật nằm sâu dưới tầng đất lục địa. Thượng Cổ ẩn chứa nhiều bí mật, nhiều kẻ đến đây hòng kiếm chác. Liệt Giả cảm thấy lạc lõng. Vốn dĩ anh chẳng thuộc về đám đông như một người chẳng hề thú vị với đám đông đang rôm rả đằng xa dù rằng anh vẫn nghe, hiểu được họ muốn gì. Nhưng giờ anh chỉ thấy chính mình nhỏ bé giữa đồng không mông quạnh, gió nóng từ đông sang tây thổi ào ạt khi chiều muộn, cát lạnh vỗ mặt người rát rạt giữa nửa đêm cùng ba mặt trăng sáng như ba cái giếng đong thứ nước xanh bạc mềm mại. Tại lục địa Thượng Cổ, ba mặt trăng sáng hơn, đẹp hơn thường lệ. Nơi đồng không mông quạnh đó không có người, chỉ mình Liệt Giả. Bởi lẽ họ chẳng bao giờ thắc mắc về sự thật giống anh.

Những lúc thế này, anh cần thầy Tây Minh chỉ lối. Hiềm nỗi thầy bận. Anh đã gửi thư một tháng nhưng thầy chưa hồi âm. Dạ Bích khi đó chưa phải là một cái gì đó xao xuyến như sau này, anh không tiện trò chuyện. Hai gã bạn thân thì biền biệt đâu đấy ngoài tiền tuyến. Liệt Giả chỉ còn chính mình với miền đất Thượng Cổ. Chính phủ liên tục đề nghị gửi hộ vệ thánh sứ đi kèm nhưng anh từ chối. Chẳng tay hộ vệ nào chịu nổi màn tra tấn bằng những câu hỏi của Liệt Giả quá năm phút, anh biết điều đó. Với anh, một mình là đặng chẳng đừng mà đành phải thế.

“Lần này, cậu hành động một mình. Đi bất cứ nơi đâu cậu muốn, miễn là làm dân chúng Thượng Cổ biết thánh sứ Phi Thiên là sứ giả hòa bình.” – Một đại thống lĩnh căn dặn Liệt Giả trước khi anh lên đường – “Nhưng cẩn thận, Liệt Giả. Cậu đã làm Trục Chữ Thập thiệt hại nhiều. Giờ họ đang săn lùng cậu. Hãy đề phòng mọi đối tượng, mọi mối quan hệ.”

Năm tháng ấy, nếu có đôi mắt nào thực sự trông thấy Liệt Giả thì đấy là quạ. Phía đông Thượng Cổ cằn cỗi nhưng quạ vẫn sống tốt. Chúng chứng kiến anh rong ruổi qua nhiều đơn vị quân đội Phi Thiên, xong việc lại đi, hiếm khi lưu lại một chỗ quá nửa tháng, độc hành độc bộ khắp lục địa. Chúng cũng có dịp quan sát anh cuộn mình bên tảng đá để tránh quân đội đối địch, giúp đỡ lương thực cho các gia đình chạy tị nạn, hoặc ban phước cho một ngôi làng bị cháy rụi vì bom đạn. Do đặc thù nhiệm vụ nên anh không bị ràng buộc hay nhận mệnh lệnh từ bất cứ ai, hoàn toàn được hành động theo ý mình. Chí ít là anh vẫn tự do thêm ba tháng nữa. Tự do giữa cuộc chiến tranh khốc liệt. Tự do làm bạn với Tử Thần. Tự do làm bạn với quạ.

Cuối năm 7486, quân đội Phi Thiên gửi thông tin chiến sự. Liệt Giả xem xét rồi khởi hành tới miền viễn đông lục địa, nơi mà chỉ cách vùng đất hỗn loạn Kim Ngân qua một Biển Lớn, hoang hóa cằn ruộc ít bóng cây xanh, những bộ tộc sống rải rác thành nhiều ngôi làng dọc theo chân núi đá. Ở Thượng Cổ còn nhiều bộ tộc cổ xưa vẫn giữ lối sống cũ, không gia nhập đất nước nào và tồn tại độc lập. Họ có văn hóa và tín ngưỡng riêng biệt, ít nhiều chối bỏ Vạn Thế. Thường thường, một thánh sứ sẽ chẳng bao giờ đến đó nhưng Liệt Giả thì khác. Anh tin mọi người đều cần sự cứu rỗi dù họ tin tưởng Vạn Thế hay không. Vả chăng bên trong Liệt Giả có ẩn ức. Anh đang về nhà.

Ấu thơ của anh ở đây, mẹ nằm lại đây, nên nó là chiến trường song cũng là nhà. Chẳng ai nghĩ thế, trừ Liệt Giả. Mọi người mong rời khỏi chiến tranh rồi về nhà. Liệt Giả ngược lại, anh phải tìm đến chiến tranh để được về nhà.

Men theo nhiều lối đi dọc hoang mạc, Liệt Giả tìm đến miền viễn đông lục địa. Nơi này đã đổi khác, hoàn toàn chệch khỏi ký ức thuở bé của anh. Ngày đó, hồi mẹ còn sống, khắp hoang mạc đầy những trạm thu mua phế liệu, những ngôi làng thường xuyên họp chợ bán lương thực, những chuyến xe dọc ngang chuyên chở quái vật không trung với bọn con buôn ma mãnh đến từ Kim Ngân. Thực tình chúng không đẹp hơn bây giờ bao nhiêu. Đẹp đâu ở hoang mạc với mấy ngôi làng đắp đất khô rộc màu cát? Nhưng rõ ràng là hồi đó, miền đất luôn đông đúc.

Giờ Liệt Giả không thấy những trạm thu mua phế liệu hồi trước. Hầu hết chúng bị tháo dỡ hoặc bỏ không. Cũng chẳng còn nhiều ngôi làng vì bom đạn cày xới mọi mái nhà, lắm nơi bị san phẳng hoàn toàn. Chiến tranh khốc liệt, cố nhiên là chẳng gã con buôn nào chở hàng qua nữa. Người đi đâu hết. Thậm chí núi đá cũng khó tránh khỏi số phận sứt mẻ. Các nước thay nhau đến đây đào múc xúc xới, khai thác rồi bắn nhau chí chết hòng chiếm đoạt tài nguyên. Có ngọn núi to lớn từng án ngữ phía nam, nay chỉ còn là một quả đồi nhổn nhển sỏi, cát, gạch vụn lẫn công cụ bị bỏ lại. Mất các quả núi, Liệt Giả không thể tìm đường cũ. Anh bất giác chạnh lòng. Mộ của mẹ đâu đó ở vùng đất này, nhưng liệu nó vẫn ở đó hay đã tan tành dưới bom đạn? Liệt Giả bỗng chán ghét cuộc chiến kinh khủng.

Cảm giác buồn bực bám vấy Liệt Giả, hằn lên hoang mạc những dấu chân nặng nề lún vào lòng cát. Nó chỉ tạm biến mất khi anh tìm thấy một ngôi làng nhỏ xơ xác bốc khói đen, xem chừng đã hứng chịu một trận pháo kích cách đây nửa ngày. Lúc đến nơi, Liệt Giả nhận ra ngôi làng chỉ còn vài nóc nhà nguyên vẹn, dăm ba gia đình đang tụ tập bên nồi thức ăn chờ bữa trưa. Phờ phạc, mệt mỏi, đau đớn vì bị thương, đám dân làng gần như lả đi. Chỉ duy nhất một cô gái đi tới đi lui giữa cái nồi và những kẻ cùng khổ. Nhìn y phục với đường diềm đỏ trên người cô ta, Liệt Giả biết rằng đó là thành viên đội hỗ trợ nhân đạo Đại Hội Đồng. Dường như cô gái ở đây đã lâu, toàn bộ áo quần lấm lem chuyển sang màu cháo lòng thay vì màu trắng vốn có, tóc tai két đất lẫn máu khô. Nhận thấy sự có mặt của Liệt Giả, cô ta ngẩng đầu:

- Muốn ăn cướp? Cút!

Cô ta không dọa suông mà lăm lăm trên tay một khẩu súng ngắn. Liệt Giả giơ tay:

- Hung dữ vậy, bà cô? Tôi không phải cướp!

Nói rồi anh vận lực, sau lưng xuất hiện đôi cánh thánh sứ. Nhìn đôi cánh, đám dân làng mừng rỡ khôn xiết. Họ không quan tâm lắm tới Vạn Thế hay các thánh sứ tốt đẹp thế nào, mà chỉ biết nếu thánh sứ ở đây, họ sẽ được dẫn tới nơi an toàn. Người bị thương lẫn người lành lặn, hết thảy đều đứng lên rồi vây quanh Liệt Giả, cố gắng chạm vào vai, vào mặt, vào tóc của anh như đang thờ phụng một đấng cứu thế. Rốt cục người ngoại đạo vẫn cần sự cứu rỗi. Liệt Giả chứng kiến cảnh này thành quen. Nhưng cô gái nọ không thuộc đám đông phấn khích, chỉ lặng lẽ thu dọn đồ dùng y tế và canh nồi thức ăn. Liệt Giả không phản đối thái độ ấy. Ngoài chiến trường, cầu nguyện bất quá chỉ là ảo ảnh, băng gạc và lương thực mới là thực tế.

Hôm đó, Liệt Giả làm những việc mà một thánh sứ cần làm: chữa bệnh, an ủi, cầu nguyện, biểu diễn vài phép thuật nho nhỏ làm vui mắt tụi trẻ con. Hỏi chuyện mọi người, anh mới biết cư dân trong làng chết quá nửa, thi thể tập trung ở vùng rìa. Một số sống sót tự mình vượt hoang mạc nhằm tìm kiếm nơi an toàn, còn những người ở lại không muốn phó mặc cho may rủi và cũng hết nơi để đi. Từ ngôi làng này ngược xuôi đông tây nam bắc, chỗ nào cũng nhan nhản cướp đường. Chiến tranh ác liệt, cửa ngõ lục địa lỏng lẻo ít nhiều nên lũ du thủ du thực từ Kim Ngân thừa dịp tràn lên, thậm chí xuất hiện cả Đầu Sói. Chính ngôi làng từng bị cướp phá nhiều lần, các gia đình tại đây là những người cuối cùng sống sót. Liệt Giả thấy rõ là họ cần được nhanh chóng đưa đến trại tị nạn.

Ban tối, Liệt Giả tìm cô gái hỗ trợ nhân đạo. Hành trình nguy hiểm, anh cần người giúp đỡ. Đó cũng là lần đầu tiên anh trò chuyện với cô ta đồng thời có dịp chiêm ngưỡng gương mặt cô. Đôi mắt to tròn màu xanh vàng sẫm với lông mày mảnh như mặt trời nằm dưới mặt trăng khuyết, cái mũi nhỏ cao vừa phải, nước da bánh mật khỏe khoắn – khác hẳn phụ nữ phương tây, khác hẳn Dạ Bích mà anh đang tán tỉnh. Trời đêm Thượng Cổ vằng vặc ánh sáng ba mặt trăng, rõ như ban ngày và chẳng giấu giếm điều gì vào bóng tối. Phụ nữ Thượng Cổ cũng vậy. Liệt Giả hỏi:

- Cô là người lục địa này?! Màu mắt của cô... rối loạn sắc tố phải không? Tôi biết vài người như vậy...

- Màu mắt không liên quan tới chuyện chúng ta đang bàn. – Cô gái nói – Đúng là có một trại tị nạn phía bắc cách đây bốn mươi cây số, nhưng bọn cướp thường xuyên rảo qua đó. Gần đây có một bọn tên là “Xích Tuyết” thường xuyên truy đuổi, cướp của người tị nạn. Chúng rất hung hăng, manh động. Anh chắc là đi theo đường đó chứ? Tại sao không đi về phía tây, xa hơn nhưng an toàn hơn?

- Đường phía tây dài, mọi người không còn nhiều thức ăn. Cứ đi lên phía bắc, tôi lo được đám trộm cướp. – Liệt Giả nói – Này, cô ở đây bao lâu rồi? Hai năm?! Chưa về nhà lần nào?! Vậy muốn một bữa tối ra trò không? Tôi quen nhiều ông thống lĩnh Phi Thiên quốc, có thể sắp xếp. Thế nào, cô em?

- Vậy hy vọng là anh quyết định đúng. – Cô gái trả lời, hoàn toàn tảng lờ lời đề nghị ăn tối – Tôi chỉ biết cứu thương, không rành chiến đấu nên đừng trông mong nhiều. Ngủ ngon!

Nói rồi cô nàng đứng dậy. Liệt Giả gọi với:

- Ăn tối thì sao?

Cô nàng dừng bước, quay lại đáp:

- Anh tán tỉnh dở ẹc, tên nhà quê!

Bị dội nước lạnh, Liệt Giả im thin thít như thịt nấu đông. Anh im lặng vì cô gái nói đúng. Trong lĩnh vực tán tỉnh, anh là tên nhà quê chính hiệu.

Hôm sau, Liệt Giả dẫn đám dân làng lên phía bắc. Từ ngày đầu Chiến Tranh Tài Nguyên, miền viễn đông Thượng Cổ như bị cây mẹ bỏ quên, chẳng thánh sứ nào ghé qua nên thường xuyên bị trộm cướp thăm viếng. Liệt Giả chẳng phải đợi quá lâu để thấy tổ chức Xích Tuyết. “Tổ chức” nghe sang xịn miệng lưỡi, thực tế là một đám du đãng sở hữu vài chiếc xe cơ giới, dăm khẩu súng tự chế khi nổ khi xịt dọa rồ là chính, vài thằng mồm to hò hét, vài thằng máu chó biết đánh nhau chút chút. Tổ chức Xích Tuyết thuở đầu là thế. Liệt Giả dẫn đoàn tị nạn cuốc bộ năm cây số thì chạm mặt chúng. Chục tên cưỡi xe chạy vòng vòng hú hét khiến người tị nạn co rúm, cô gái hỗ trợ nhân đạo hét lên:

- Sao đây, tóc đỏ? Tôi đã nói phía tây an toàn hơn, anh không chịu nghe tôi!

Cô nàng lăm lăm súng ngắn. Liệt Giả thở dài đoạn vận lực, rút ra thánh giới Thu Lôi rồi nói:

- Ngồi yên một chỗ và đừng bắn lung tung nhé, bà cô. Tôi sợ vướng tay chân lắm!

Thánh sứ chưa từng đặt chân đến miền viễn đông Thượng Cổ, thành ra bọn trộm cướp chẳng biết thánh sứ mạnh mẽ thế nào. Ngày đó, bọn Xích Tuyết lần đầu chứng kiến phép thuật Lôi niệm nổ váng óc và thần hộ mệnh Thần Cơ Pháo khổng lồ. Nhiều kẻ chỉ được nếm trải sức mạnh đó một lần duy nhất, số khác quay đầu chạy trối chết. Trong đám du côn có một tên nhỏ con bị bỏ lại, nằm sấp mặt trên cát, không chút động đậy. Liệt Giả lật hắn dậy, nhận ra đấy chỉ là thằng nhóc con trạc mười ba, mười bốn tuổi cùng mái tóc cháy nắng. Nó trúng phải phép Lôi niệm, không chết nhưng mê man chẳng biết bao giờ mới tỉnh. Cô gái hỗ trợ nhân đạo nói:

- Bỏ nó thôi. Mang thằng bé đến trại tị nạn, người ta cũng đuổi nó đi sớm.

Liệt Giả phân vân nhìn thằng nhỏ. Nghĩ ngợi hồi lâu, anh túm lấy thằng nhóc rồi lẳng nó lên vai:

- Trẻ con thì đi chơi, không đi cướp.

Cô gái nọ im lặng. Thánh sứ quyết định chuyện gì nghĩa là cây mẹ quyết định như thế, người ngoài không thể can thiệp. Biết rằng vác theo thằng nhóc này là tự rước lấy phiền phức nhưng Liệt Giả không nghĩ ngợi lần hai. Sau rốt, Liệt Giả dẫn đoàn người tiến lên phía bắc trong khi đôi vai trĩu xuống vì thằng nhỏ.

Liệt Giả hay vạ miệng, bởi thế các cô thường xa lánh anh. Nhưng ít nhất là hành động của anh khiến cô gái hỗ trợ nhân đạo chú ý. Cứu vớt thằng trẻ con ăn cướp chẳng mang lại lợi lộc gì cho anh. Ở thời đại tranh giành tài nguyên lợi ích này, lòng tốt không hề miễn phí còn Liệt Giả thực hiện nó không công. Thấy cô gái nhìn ngó mình, Liệt Giả cười:

- Sao hả cô em? Suy nghĩ lại chăng? Muốn ăn tối với tôi hả?

- Không. – Cô gái lắc đầu – Anh thô thiển quá!

- Bà cô chán chết. – Liệt Giả thở phì.

- Tôi còn trẻ, chưa ba mươi tuổi, không phải bà cô! – Cô gái nghiêm giọng.

- Vậy thì chấp nhận lời mời ăn tối, cô em sẽ không còn là “bà cô” nữa, chịu chứ?

Cô gái lắc đầu rồi quay ngoắt. Liệt Giả chặc lưỡi cười nhạt. Hoang mạc Thượng Cổ cằn cỗi, người ta vì thế mà đối thoại đốp chát cụt ngủn, để dành hơi sức uống nước và cuốc bộ. Không có thứ tình cảm nào nảy nở trên vùng đất này.

Chập tối, đoàn tị nạn nghỉ chân. Liệt Giả một mình trên đồi cát, ngước cặp mắt xanh lá nhìn ba mặt trăng như con sói nhìn trời đêm. Ánh trăng gợi nhớ những ký ức sống động trong anh, thuở vẫn lẽo đẽo theo mẹ mò tìm phế liệu. Hồi đó vui hơn bây giờ. Nhưng vui vẻ thế nào thì chúng vẫn chỉ là ký ức, không phải hiện thực, không phải mảnh đất mà ánh trăng đang rọi xuống đây. Một khoảnh khắc thoáng qua, Liệt Giả ngoảnh sang phải và thấy cô gái hỗ trợ nhân đạo ở cách đây không xa. “Hỗ trợ nhân đạo” – một thứ danh từ dài ngoằng, đọc muốn rão mồm, phi tự nhiên. Anh sực nhớ mình chưa hỏi câu hỏi giản đơn nhất, chả trách cô gái chê tán tỉnh dở ẹc. Liệt Giả tiến đến cô gái, không mào đầu cũng không xem người ta muốn nói chuyện hay không, liền hỏi:

- Này, cô tên gì?

Cô gái khó chịu ra mặt. Khó mà dễ chịu được khi thời gian nghỉ ít ỏi còn tên thánh sứ tóc đỏ vừa lắm lời vừa vô duyên, nàng ta miễn cưỡng lắm mới trả lời:

- Tì Khốc Lăng Tỏa, người ta hay gọi tôi là Lăng Tỏa.

- Người dân tộc thiểu số?!

- Phải, tộc người thiểu số. – Cô gái đáp – Có vấn đề gì chăng?

- Có đấy! – Liệt Giả nhún vai – Người thiểu số Thượng Cổ không thích Đại Hội Đồng, tại sao cô làm việc cho họ? Mà đồng đội của cô đâu?

Lăng Tỏa dụi mắt vì buồn ngủ. Chẳng ai trả lời nhanh và vô trách nhiệm như người buồn ngủ. Nhưng tựa thể biết rằng không thẻ tránh khỏi cuộc nói chuyện, Lăng Tỏa trả lời:

- Chết hết. Chúng tôi gặp Đầu Sói phục kích, các kiếm sĩ bảo vệ không chống cự nổi, chỉ mình tôi chạy thoát. Người giữ bộ đàm và điện thoại đã chết nên tôi không thể liên lạc về sở chỉ huy. Tôi đành ở lại ngôi làng đó.

- Cô biết đường về khu tị nạn phía tây lục địa, sao không theo lối đó? – Liệt Giả nhún vai.

- Dù sao thì ngôi làng cũng cần người giúp đỡ. – Lăng Tỏa trả lời.

Liệt Giả bật cười. Anh ngồi xuống bên cô gái người Thượng Cổ, sau tiếp lời:

- Chúng ta giống nhau là đều bán lòng tốt với giá rẻ. Đồng điệu chứ hả?

Nói rồi anh ngoảnh sang thằng nhóc con trộm cướp đang mê man dưới chân triền cát. Lăng Tỏa cười nhạt:

- Anh tốt vậy sao?

- Tôi không tốt lắm, mà chỉ là trả ơn. – Liệt Giả đáp – Tôi cứu thằng nhỏ chỉ vì muốn trả ơn Vạn Thế. Nhiều năm trước, cây mẹ đã gửi đến một người đàn ông tốt bụng, không ngoảnh mặt làm ngơ khi tôi, một đứa bé sắp chết lả vì khát trên hoang mạc Thượng Cổ. Không có vụ ấy, tôi sẽ giống thằng nhóc kia: gia nhập lũ trộm cướp, sau chết rục ở xứ sở này.

Lăng Tỏa nhướn mày, nom như vành trăng khuyết mỏng mảnh:

- Thì vẫn là điều tốt, dù anh nói thế nào chăng nữa. Việc anh tới đây đã là điều tốt, tốt đến mức kỳ quặc. Vùng viễn đông này vốn bị bỏ quên. Các thánh sứ luôn lảng tránh nơi đây, vì nó chẳng giúp họ tạo dựng hay gia tăng danh tiếng. Anh thì sao? Lại trả ơn chăng?

- Không, chỉ là tôi muốn giúp mọi người. Đằng nào tôi cũng khoái đi đây đi đó. – Liệt Giả đáp – Nhưng tôi muốn thăm mộ của mẹ, chỉ là giờ không biết nó ở đâu.

- Vùng viễn đông lục địa nát bấy. Người sống tan nát, nói gì một nấm mộ?! – Lăng Tỏa nói.

Liệt Giả im lặng. Mới gặp Lăng Tỏa nhưng đây là lần thứ hai anh đồng ý rằng cô nói đúng. Biết đâu mộ của mẹ giờ đã bị máy xúc máy ủi xới tung? – Anh dợm nghĩ. Nếu việc đó xảy ra thật thì anh không khóc. Bởi lẽ ngay năm đầu tiên gia nhập chiến tranh, anh đã cạn khô nước mắt, tuyến lệ giờ chỉ còn sỏi đá cát bụi. Liệt Giả bất giác cất lời:

- Cô biết Thời Đại Thủy Triều không? Người ta bảo năm tháng đó, các chiến binh dành tất cả sức lực để chiến đấu, để giành chiến thắng, để lưu lại tên tuổi vào dòng thời gian bất tận. Và họ làm được. Vinh quang thuộc về họ. Người tốt hay kẻ xấu, chiến thắng hay cái chết của họ đều trở thành chuyện kể, đều khiến mọi đứa trẻ Tâm Mộng phấn khích. Còn giờ thì sao? Tôi biết người ta nói gì về Chiến Tranh Tài Nguyên. “Phi nghĩa”, “vô mục đích”, “lũ điên thích đánh đấm”... người ta nói thế. Tôi, cô, những người tham gia cuộc chiến này, tất cả... tất cả sẽ kết thúc trong lặng lẽ. Không ai biết. Không ai hay. Không ai quan tâm chúng ta sống chết thế nào. Chính chúng ta cũng không bao giờ thấy sự thật phía sau cuộc chiến, và chúng ta sẽ dằn vặt về “sự thật”.

- Anh thắc mắc và lý giải nhiều quá! – Lăng Tỏa thở phù – Nếu anh định tán tỉnh kiểu đó thì tôi xin kiếu! Tôi không biết mấy vụ triết lý khó hiểu. Mệt rồi, tôi nghỉ đây!

Lăng Tỏa thu mình nằm dưới mỏm triền cát, không quan tâm lắm tới gã trai tóc đỏ đang nhìn mình chằm chặp. Ba mặt trăng sáng rõ, gương mặt cô gái cứ thế hằn vào đôi mắt xanh lá của Liệt Giả. Anh nhìn chăm chú, có lúc quên luôn trên đời này có một cô gái tên Dạ Bích với mái tóc vàng kim khiến anh mê mẩn mãi không thôi.

Tảng sáng ngày kế tiếp, Liệt Giả dẫn đoàn người đến trại tị nạn. Trại do quân đội liên minh Khối Ngũ Giác lập, Liệt Giả nhờ danh tiếng cá nhân và vài mối quan hệ để người ta tiếp nhận thằng nhóc trộm cắp. Đã ngày thứ hai nhưng nó chưa tỉnh dù nhịp tim vẫn bình thường. Liệt Giả đành phó mặc thằng nhóc cho khu trại. Anh đã cho thằng nhóc cuộc đời mới, giờ nó phải tự thân phấn đấu. Anh còn nhiều việc cần làm.

Giữa lúc Liệt Giả phân vân chưa biết đi đâu trong vùng viễn đông này thì Lăng Tỏa xuất hiện. Cô nàng nói:

- Anh muốn đi tìm mộ của mẹ? Thử nói xem, biết đâu tìm được? Vùng viễn đông nói khá rộng, nhưng cũng rất bé nếu biết cách tìm kiếm.

- Cô không quay về Đại Hội Đồng sao?

- Đằng nào họ vẫn ghi tên tôi vào danh sách mất tích. – Lăng Tỏa trả lời – Thế nên tôi vẫn còn nhiều thời gian để giúp anh. Thế nào, tôi được phép đi theo một thánh sứ không?

Liệt Giả nhăn trán nghĩ ngợi. Anh không quên những lời dặn dò từ vị đại thống lĩnh. Trục Chữ Thập đang săn tìm anh, mọi mối quan hệ đều trở nên nguy hiểm. Nhưng ngày đó, Liệt Giả vẫn là gã trai cực kỳ tự tin, phần nào ngạo mạn. Anh đồng ý cho Lăng Tỏa theo mình.

Bạn đồng hành là chung chặng đường, chung mục đích, chung giờ giấc, chung kế hoạch. Giờ đây Liệt Giả phải để ý rằng chặng đường không chỉ có riêng mình mà còn người khác. Anh bảo vệ Lăng Tỏa, ngược lại cô gái cảnh giới lúc anh ngủ. Cứ đều đặn như thế suốt một tháng liền. Hai người đi khắp vùng viễn đông tìm mộ của mẹ Liệt Giả. Họ chạm trán hàng chục bọn cướp và giúp đỡ dân chúng Thượng Cổ tị nạn. Lắm lúc Liệt Giả bị thương, Lăng Tỏa tận tình chăm sóc. Cũng một tháng đó, anh huyên thuyên đủ thứ chuyện tạp phí lù – cái thói khiến anh bị gọi là “nhà quê” và khiến mọi người phiền phức. Lăng Tỏa không phàn nàn nhiều vụ đó, trừ vụ anh lải nhải mãi chuyện ăn tối. Cô gái nghe Liệt Giả mọi thứ, trừ việc tán tỉnh. Nhưng Liệt Giả chỉ cần vậy. Anh thấy vui.

- Cô có gia đình chứ? – Liệt Giả hỏi.

- Chỉ còn một em trai. – Lăng Tỏa đáp – Chiến tranh, gia đình tôi không còn nhiều người. Nhưng tôi cũng không nói chuyện với nó nhiều. Chúng tôi xa cách, không hợp nhau.

- Giữ lấy em trai cô. Thời buổi này còn người thân là hạnh phúc.

- Tôi không chắc. – Lăng Tỏa lắc đầu – Anh từng nói về “sự thật”, đúng không? Tôi hiểu phần nào rồi. Tôi cũng từng thắc mắc điều ấy. Tôi và em trai chung dòng máu, chung cha mẹ, sự thật là thế nhưng sao chúng tôi xa lạ? Chúng tôi có thật sự là chị em không?

Liệt Giả bối rối:

- Tôi... tôi không rõ. Có lẽ hai người không hợp nhau thôi.

- Vậy đấy, Chiến Tranh Tài Nguyên là thế. Anh nhớ những chuyện kể Thời Đại Thủy Triều không? Con người thời đó bước vào bể máu để tìm lý tưởng và vinh quang. Vậy tại sao chúng ta, giữa Chiến Tranh Tài Nguyên này, phải lặn xuống bể máu để tìm chính mình? Tôi không hiểu?!

Liệt Giả im lặng. Anh không trả lời vì suy nghĩ hay tìm lời có cánh nào đấy. Anh không trả lời vì anh không biết câu trả lời.

Cuộc tìm kiếm vẫn tiếp diễn. Không biết từ lúc nào, Liệt Giả đã quen với gương mặt Lăng Tỏa, quen với cô gái có cách nói chuyện nhát gừng ấy. Nàng không nói nhiều, nhưng mọi thứ từ nàng cứ hiển hiện ra, cả tâm tình lẫn vẻ đẹp mà chỉ riêng con gái Thượng Cổ có, giống như cái cách ba mặt trăng rực sáng trời đêm ở lục địa này. Anh nhận ra vào đêm tối, đôi mắt rối loạn sắc tố của Lăng Tỏa rực rỡ như mặt trời, đẹp tới cháy bỏng. Bởi đôi mắt ấy, vì đôi mắt ấy, đôi lúc anh quên luôn mình đang tự do trên lãnh địa Tử Thần.

“Có tin mới. Trục Chữ Thập, cụ thể là Lưu Vân quốc đã cử tình báo tới vùng viễn đông Thượng Cổ.” – Thư từ đại thống lĩnh cảnh báo Liệt Giả – “Chúng ta không chắc họ thiết lập hệ thống tình báo từ bao giờ, nhưng chắc chắn là họ biết cậu đang ở đó, Liệt Giả. Nếu không có việc gì, hãy rời khỏi đó ngay lập tức. Cậu đang gặp nguy hiểm.”

Tin nhắn làm Liệt Giả đắn đo. Anh đủ thông minh để biết có gì đấy lạ lùng trong câu chuyện này. Khốn thay, thể xác anh đã quen với những ngón tay đầy đặn của Lăng Tỏa. Mỗi vết thương trên người Liệt Giả đều có dấu tay nàng. Anh muốn câu chuyện đi theo cách khác. Anh tự tin, phần nào ngạo mạn. Anh tự tin mình thay đổi được câu chuyện. Anh ngạo mạn rằng mình có thể thay đổi câu chuyện. Một đêm nọ, anh hỏi cô gái:

- Cô có bạn trai chưa?

- Không có. – Lăng Tỏa đáp – Nhưng không có nghĩa là tôi cần người như anh.

- Hai tháng rồi, một tháng nữa tôi phải về. Hãy thử để tôi làm bạn trai cô, ít nhất là thêm một tháng. Chẳng ai kể câu chuyện của chúng ta, vậy hãy để chúng ta kể câu chuyện của mình. Tôi không muốn ngày tháng này là vô nghĩa, tôi muốn chúng là sự thật.

Lăng Tỏa nhìn gã trai. Liệt Giả không thể biết đôi mắt màu xanh vàng sẫm kia nghĩ gì. Rồi anh chợt thấy Lăng Tỏa cởi bộ đồng phục hỗ trợ nhân đạo, trút hết xiêm y bên trong, xõa mái tóc bồng bềnh như cơn sóng Biển Lớn ngăn cách Thượng Cổ và Kim Ngân, phơi bày tất cả đường nét cơ thể. Từng múi cơ thể màu da bánh mật đó hằn lên nỗi cô đơn nhưng cũng cháy bỏng những khao khát dưới ánh sáng ba mặt trăng vằng vặc, đẹp đến vô thực. Nhưng cái vô thực ấy là sự thật giữa hoang mạc này, giữa cuộc chiến của những người phải lặn vào bể máu để tìm chính mình.

- Nếu chỉ mình chúng ta kể với nhau thì được. – Lăng Tỏa nói.

Cô gái hơi bẽn lẽn nhưng không sợ sệt. Liệt Giả vô thức tiến đến, bỏ lại sau lưng mọi lo toan phiền muộn. Anh ôm cô gái đó, cảm nhận tất cả về nàng từ mái tóc bồng bềnh tới đôi mắt xanh vàng sẫm. Gió che đi hơi thở lẫn dáng hình, vùi lấp ánh mắt của hai con người ấy trên nền cát hoang mạc khô cằn và dưới ba mặt trăng rực màu xanh bạc. Chiến tranh vẫn ở đó, nhưng sự thật là họ đã bước vào thế giới của nhau.

Sáng hôm sau, hai người thức dậy và bắt đầu chuyến hành trình mới như chưa hề có chuyện gì đêm qua. Lăng Tỏa búi lại tóc, khoác lên mình bộ đồng phục hỗ trợ nhân đạo, giấu đi mọi thứ mà cô từng phơi bày trước gã trai tóc đỏ. Liệt Giả cũng không nhắc lại. Họ lặng lẽ đi dọc theo trườn cát như hai người xa lạ vô tình chung lối. Liệt Giả không thích cảnh tượng này. Anh không chắc chuyện đêm qua chỉ đơn thuần là giải tỏa sinh lý hay là một loại tình cảm đặc biệt nào, nhưng anh thực sự không thích cảnh tượng hai người ở cạnh mà xa cách cả thế giới.

Nghĩ mãi, nghĩ mãi, anh chợt chìa tay về phía Lăng Tỏa mà chẳng nói chẳng rằng. Cũng giống Liệt Giả, cô gái ngẫm nghĩ khá lâu trước hành động ấy. Rồi cô nắm lấy tay Liệt Giả, để anh dắt đi trên hoang mạc không bóng người.

- Tôi dắt anh mới phải chứ?! – Cô nàng bỗng cười – Anh đâu biết đường?

Liệt Giả phì cười. Phải, anh vốn là không biết đường về nhà. Là Lăng Tỏa đưa anh về nhà.

Thế giới không lớn đến mức người ta đi một mình mãi. Cứ đi, rốt cục sẽ thấy người.

Những ngày kế tiếp, Liệt Giả vẫn chưa tìm thấy mộ của mẹ. Dù vậy, anh không quá phiền lòng bởi anh có bạn đồng hành, có người chịu nghe anh kể lể và chịu đi cùng anh. Lăng Tỏa không quá khô cứng như buổi đầu gặp gỡ. Dù sao thời tiết xứ viễn đông Thượng Cổ cũng chẳng phải nơi thích hợp cho một cô gái bày tỏ sự dịu dàng. Nhưng ít nhất là Lăng Tỏa không gạt phắt lời mời ăn tối của anh, cũng chẳng phản đối nếu anh muốn có một cái gối ôm để ngủ. Những ngày kế tiếp đó thật đẹp với Liệt Giả.

Nhưng chiến tranh không thôi ám ảnh con người thời đại này, hoặc bởi ngày tháng quá đẹp mà anh nhạy cảm. Mỗi đêm, anh lại thoáng nghe thấy Lăng Tỏa nhắn tin qua một chiếc máy ba chiều cũ rích mua lại từ trại tị nạn. Mỗi lần nhắn tin, gương mặt cô gái đượm vẻ lo lắng rất rõ ràng. Song mỗi lần Liệt Giả hỏi chuyện, cô lại mỉm cười vờ như chẳng có gì to tát. Sự mẫn cảm của thánh sứ mách bảo anh Lăng Tỏa đang giấu giếm điều gì đó. Nỗi nghi ngờ thôi thúc anh gửi tin nhắn nhờ Mèo Hen điều tra về Lăng Tỏa. Anh cần chắc chắn rằng nàng là một nhân viên hỗ trợ nhân đạo, một người luôn sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, một cô gái mà anh bắt đầu sinh thương nhớ.

“Không có ai là Lăng Tỏa, anh bạn.” – Mèo Hen nhắn lại, chỉ nửa ngày sau khi Liệt Giả gửi tin – “Tôi hỏi vài gã làm việc cho Đại Hội Đồng, họ nói chẳng có nhân viên nào là Lăng Tỏa. Họ cũng không gửi đội hỗ trợ nhân đạo tới vùng viễn đông Thượng Cổ.”

Liệt Giả thất vọng tràn trề. Anh không biết tại sao mình thất vọng nhiều như thế dù mới gần gũi Lăng Tỏa chưa lâu. Năm tháng đó, anh còn trẻ nên dễ yêu thương, cũng vì còn trẻ nên dễ giận dữ.

Khoảng một tuần sau, Lăng Tỏa đưa anh đến nơi cần tìm. Nó là một thung lũng nhỏ nằm giữa các đồi cát và núi đá, giống hệt ký ức năm nào khi anh tự tay dựng mộ cho mẹ. Nhưng bia mộ đã đi đâu mất, chỉ còn lại nhiều gò nổi mà Liệt Giả không dám chắc là mộ hay chỉ là mô đất đùn lên. Vả lại bia mộ cũng khó mà nguyên vẹn ở thung lũng này khi nhiều người tị nạn đã tới đây dựng trại nghỉ chân. Thứ duy nhất vẫn tồn tại ở đây là quạ. Chúng đậu khắp nơi, từ đỉnh núi đến nóc lán trại. Lăng Tỏa nói:

- Vẫn còn thời gian, chúng ta sẽ đi tìm. Tôi có mang theo máy xét nghiệm tế bào. Nếu đào được xác, tôi có thể xác định huyết thống cho mẹ con anh.

- Tại sao em tốt với tôi vậy? – Liệt Giả hỏi.

- Vì anh là người tốt. – Lăng Tỏa trả lời – Anh biện minh mình đang trả ơn gì gì đó, tôi không quan tâm. Anh là người tốt, vậy thôi.

Liệt Giả nhìn cô gái. Đôi mắt vàng xanh sẫm của nàng không một tia dao động. Chỉ những người thành thật mới có cái nhìn ấy, hoặc là một kẻ do thám lão luyện biết che giấu cảm xúc. Nàng là ai? – Anh tự hỏi.

Như đáp lại anh, Vạn Thế mang tới câu trả lời. Từ khu trại tị nạn, nhiều kẻ xuất hiện với súng và kiếm, quân số khoảng một đại đội. Bọn họ đã chờ anh từ lâu. Giữa khu lán trại tị nạn, cuộc đấu súng đấu kiếm nổ ra. Liệt Giả thoáng chút chần chừ, sau vẫn nắm lấy tay Lăng Tỏa chạy trốn. Anh mong rằng mình có thể thay đổi câu chuyện. Thay vì hoảng hốt, cô gái vẫn bình tĩnh đối mặt vấn đề. Nàng không sợ hãi, hoặc là biết trước chuyện này sẽ xảy ra. Liệt Giả kéo nàng ra sau một hốc đá, vừa thay đạn vừa hỏi gấp:

- Em yêu tôi không, Lăng Tỏa? Sau vụ này, em muốn về nhà với tôi không?

Anh không nghe thấy Lăng Tỏa trả lời, chỉ nghe tiếng lách cách nhỏ rí từ phía sau. Đôi tai thánh sứ vốn bén nhạy gấp nhiều lần người thường. Liệt Giả giận dữ. Anh xoay người đâm thánh giới Thu Lôi, thanh trường kiếm xập xòe điện xé gió. Trong khoảnh khắc ấy, anh nhìn thấy Lăng Tỏa chĩa súng về phía mình. Súng nổ khô khốc, đạn nóng bay ngang mặt Liệt Giả. Trường kiếm lạnh lẽo, lưỡi kiếm sắc đâm xuyên bụng Lăng Tỏa. Cô gái nhìn anh, đôi mắt xanh vàng sẫm thoáng lên tia kinh ngạc.

Khoảnh khắc đó, Liệt Giả nhận ra có thứ đã chết bên trong mình.

- Thời đại này... chúng ta chẳng thể tin lẫn nhau... – Cô gái cười – Nhưng đêm đó là thật, đúng không Liệt Giả? Là sự thật, đúng không?

Rồi cô không nói thêm lời nào nữa, đôi mắt xanh vàng sẫm không khép lại mà nhìn về nơi nào đấy xa xăm qua cả đường chân trời. Liệt Giả ngoảnh lại, bỗng nhận ra một gã kiếm sĩ nằm ngửa trên đất. Viên đạn từ Lăng Tỏa đã gϊếŧ chết gã. Cô gái không nhắm nòng súng vào Liệt Giả. Đạn có đầu nhưng không dối trá.

Liệt Giả không nói nên lời. Sau đấy anh vỗ cánh bay khỏi thung lũng, lạng lách giữa cơn mưa đạn, đôi tay mang theo cô gái người Thượng Cổ. Vài tiếng rít phía xa vọng lại làm anh giật mình. Là quạ. Nơi đây thay đổi nhưng quạ vẫn ở đó.

Ngày đó, khi anh còn bần thần bên xác Lăng Tỏa thì Mèo Hen gửi tin nhắn. Như thường lệ, tin tình báo làm người ta phát điên vì độ trễ nải của nó:

“Chuyện lần trước về cô nàng Lăng Tỏa đó. Tôi mới tìm được vài thông tin mới. Cô ta không phải nhân viên Đại Hội Đồng mà là được thuê. Đại khái là đám hỗ trợ nhân đạo không muốn nhọc công ở vùng viễn đông nên thuê người ngoài với giá rẻ hơn, tiện thể ăn bớt vật tư. Thế nên Lăng Tỏa không có tên trong danh sách của Đại Hội Đồng. Sự tình là vậy. Cậu muốn hỏi gì nữa không?”

Đọc xong tin nhắn, Liệt Giả như không nhìn thấy gì nữa. Anh lục tư trang của Lăng Tỏa, đọc lại tin nhắn mà cô đã gửi qua máy chiếu ba chiều. Tất cả đều là tin từ bệnh viện, thông báo rằng người em trai tên Tì Khốc Ngũ Diệu của cô trở bệnh nặng. Cậu ta muốn gặp cô lần cuối. Lăng Tỏa chưa thể về vì vướng bận với Liệt Giả. Chuyện chỉ có vậy.

Cuộc đời chỉ có vậy.

Thế giới không nhỏ đến mức người ta vĩnh viễn không cô đơn. Sẽ có lúc, con người phải học cách sống một mình.

Ngày đó, Liệt Giả không khóc mà trân trân nhìn cô gái Thượng Cổ đang nguội lạnh. Giả như ngày đầu ra chiến trường, anh mạnh mẽ hơn, ít yếu lòng hơn thì giờ đây, anh đã có nước mắt tiếc thương cho Lăng Tỏa. Giả như vẫn yếu đuối và dại khờ, anh đã không vung nhát kiếm đó. Kiếm có lưỡi nhưng không biết quanh co.

Kiếm và đạn luôn nói thật.

Tháng sau, Liệt Giả tìm đến bệnh viện nơi Tì Khốc Ngũ Diệu lưu trú. Cậu trai bệnh nặng, không qua khỏi.

Rồi anh quay trở lại trại tị nạn ở vùng viễn đông, tìm lại thằng nhóc trộm cướp. Thằng nhỏ đen nhẻm, tóc cháy nắng, chỉ duy đôi mắt vàng khè khiến người ta chú ý. Màu mắt rối loạn sắc tố. Anh gặp lại nó, hỏi:

- Nhóc tên gì?

Thằng nhóc lắc đầu. Nó không có cha mẹ, không người thân, đến với băng đảng Xích Tuyết chỉ vì miếng ăn. Vốn dĩ bọn Xích Tuyết không coi nó như con người. Liệt Giả tiếp lời:

- Vậy ta đặt tên cho nhóc. Gọi là Ngũ Diệu, được chứ?

Thằng nhỏ gật đầu. Liệt Giả bật cười, xoa mái tóc cháy nắng của nó. Anh cười nhiều rồi gục đầu dưới nắng chiều Thượng Cổ. Tới khi ba mặt trăng lên, anh vẫn ngồi ở đó.

Chuyện của năm tháng ấy, rốt cục chỉ mình anh biết. Chuyện hai người nhưng chỉ còn một người kể.

*

* *

Trước mắt Liệt Giả chẳng còn ai, chỉ mình gã đối mặt Vạn Thế. Trong khoảnh khắc, tâm trí gã thoáng qua chuyện năm nào ở đất viễn đông Thượng Cổ. Nghĩ tới đó, gã rít một hơi căng l*иg ngực đoạn chậm chạp tiến bước dù cho thân thể gã đã hứng chịu hàng chục phát đạn và lốt kiếm chém.

- Rốt cục cậu muốn điều gì, Liệt Giả? Tất cả chỉ để trả thù? Cậu đã từng yêu thương tất cả mọi người, tại sao thành ra thế này?

Giọng nói khiến Liệt Giả phân tâm. Gã ngoảnh sang, nhận ra Bất Vọng. Liệt Giả đáp:

- Không phải trả thù, tôi đã không còn trả thù nữa. Tôi ở đây vì con người, chỉ vì con người thôi, bạn tôi. Tôi muốn con người được thấy sự thật.

Bất Vọng vung kiếm ngăn cản gã. Nhưng trước khi Liệt Giả bị tổn hại thì một cái bóng khác đã ngăn cản Bất Vọng. Chắn giữa gã và Bất Vọng là Ngũ Diệu, thằng oắt con trộm cướp năm nào đang bảo vệ gã. So với người mạnh nhất thế giới, Ngũ Diệu chỉ là thằng nhóc không hơn không kém. Nhưng Liệt Giả chỉ cần như thế để tìm ra sự thật.

Liệt Giả đặt tay lên rễ Vạn Thế, gồng sức như cố nhấc bổng cây đại thụ khổng lồ khỏi mặt đất. Sau lưng gã, sáu cánh đen xuất hiện. Những người ở đương trường kinh hãi, thánh sứ sáu cánh trong truyền thuyết nay xuất hiện trước mắt họ. Gã tóc đỏ gào lớn. Vạn Thế khổng lồ, Liệt Giả nhỏ bé. Và rồi cả lục địa Hỗn Nguyên rung động. Liệt Giả tin rằng mình đang tìm đến sự thật lớn lao cho thế giới này.

Hoặc đơn giản là gã tìm kiếm một sự thật nhỏ bé đã nằm lại dưới lòng đất Thượng Cổ.