Diệt Sinh

Chương 1: Tuyết phủ sơn hà

Ngày đông, trời đất âm u, gió lạnh cắt da.

Hơn chục ngày nay, tuyết đổ liên miên không nghỉ, bất kể đêm ngày, Phiêu Thuỷ thành mênh mông trắng xoá, rừng đào ngoài ba dặm vừa hé nụ đón xuân chớp mắt liền hoá thành băng điêu mỹ lệ, mặt đất trãi một tấm chăn bông dày cộm, đường xá mất tăm, trai tráng ra ngoài đều phải chỉnh tề giày da, áo ấm.

Ấy vậy mà, một ông lão già nua, gầy yếu, khoác độc một bộ trường bào đen sậm, sờn cũ, chân xỏ giày cỏ thô sơ, đầu đội nón tre rách rưới, ăn mặt hết sức phong phanh đi trong trời đại tuyết, cước bộ lại thong dong như dạo mát vườn hoa.

Quanh thân lão nhàn nhạt bốc lên nhiệt khí ấm nóng, từng bước hạ xuống, tuyết lạnh thoái lui, ngay đến hoa tuyết lung lạc quanh thân cũng thật nhanh bốc hơi, tan vào không khí.

Vừa đi ông lão vừa cao giọng ngâm.

“Tang Can nam hạ bạch vân đa,

Thuỷ viễn sơn trường miết nhãn qua.

Vạn lý lợi danh khu bạch phát,

Nhất thiên phong tuyết độ Hoàng Hà.

Mỗi liên cố thái duy cuồng tại,

Dục mịch tân hoan nại lão hà.

Nhương tận khổ hàn tam duyệt nguyệt,

Lĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa.”

(“Từ Châu đạo trung” của Nguyễn Du)

“Trời đông giá buốt, hàn khí nhiễm thân dễ sinh bệnh. Lão gia gia, ghé uống chén trà cho ấm người rồi hẳn đi.” Một đứa bé trai chừng năm, sáu tuổi mặc quần áo bằng vải bố rẻ tiền vẫy tay, vui vẻ mời chào.

Dưới bóng liễu già dựng một toà khách điếm, biển gỗ sơ sài khắc hai chữ Hoa Minh.

Cũ kỷ, rách nát!

Ông lão thầm đánh giá.

Theo khoảng cách với toà khách điếm càng thu hẹp, khoảng cách giữa hai đầu mài ông càng thêm gần.

Mùi gỗ mục thoang thoảng đưa hương, đinh thiết rỉ sét thành màu đồng nát, cửa sổ lỏng lẻo, tựa hồ sẽ rơi ra bất cứ lúc nào, gió lạnh lùa qua kêu lên kẻo kẹt rờn rợn, thảm đến không thể tả.

Ông lão nhìn bé trai, nửa đùa nửa thật, nói. “Bạn nhỏ, khách điếm nhà ngươi sắp thành tinh rồi. Có khả năng, ta vừa bước vào môn khẩu liền đóng sầm, ngay đến bộ xương già cũng không tìm thấy a!”

“Kiếm nứt trăm đường là kiếm kinh qua trăm trận, nhà mục trăn ván là nhà có thâm niên. Khách điếm nhà ta kinh doanh mấy chục đời chưa từng xảy ra chỗ nào sai sót.” Bé trai tự hào, cằm nhỏ hất cao. Lại chỉ về gốc liễu trong sân. “Tổ tiên từng nói, cây liễu kia chưa ngã, khách điếm sẽ không lay. Lão gia gia, mời.”

Gốc liễu kia chẳng biết trồng từ năm nào tháng nào, đã qua bao nhiêu niên kỷ, thân cây phi thường cao lớn, đỉnh cao tít tắp, cành lá um tùm, rũ rượi buông xuống như làn tóc thiếu nữ, bóng phủ trọn toà khách điếm hai tầng.

Ông lão bị vẻ mặt giương giương tự đắc của thiếu niên chọc cho cười phá lên, chỉ là, khi đi ngang gốc liễu, nhìn cành lá rậm rạp lại không ngăn được, nghĩ thầm. “Âm khí quá nặng!” Bất quá, ngoài mặt vẫn vui vẻ nói cười. “Bạn nhỏ, cho ta một ấm Thiết Quan Âm.”

Bé trai xấu hổ gãi đầu, cười hì hì. “Ngại quá, quán nhỏ làm ăn nhỏ, không bán nổi danh trà, lão gia gia, xin hạ chút khẩu vị.”

Ông lão ngẫm nghĩ một chốc mới khẽ nói. “Trà đắng phương nam, nghe tiếng từ lâu, lấy ta một ấm.”

“Có ngay, có ngay, lão gia gia, mời đi bên này.” Bé trai ríu rít dẫn đường.

Chân vừa nhập quán, ông lão liền bị mùi hương liệu nồng nặc xộc thẳng vào mũi, bên tai nghe thấy tiếng than đá liên tục nổ giòn, lách tách êm tai, lướt mắt liền thấy chục cái bình lưu hương đang cháy đỏ, không khí ấm áp chẳng kém mùa xuân, hoàn toàn đối nghịch với trăm dặm phong tuyết bên ngoài.

Cậu bé nhanh nhẹn dẫn ông lão đi đến một cái bàn nhỏ sớm ngồi sẵn ba người, ngượng ngùng nói. “Trời đông giá rét, mọi người đều muốn một chén rượu cho ấm người, lão gia gia, phiền người ngồi tạm.”

“Không sao, không sao! Ta uống trà của ta, họ uống rượu của họ, không can dự đến nhau.” Vừa nói ông vừa điềm nhiên ngồi xuống vị trí còn thừa.

Cậu bé tươi cười rồi thoắt cái biến mất khỏi rừng người. Ông lão không buồn để ý bé trai, lần nữa cẩn thận đánh giá chung quanh, chân mày nhíu sâu.

So với vẻ ngoài rách nát, không gian khách điếm không tính quá tệ, trên lầu dưới sảnh chứa đựng cả trăm người vẫn rộng rãi chán, bài trí gọn gàng, ghế bàn tươm tất, còn chu đáo đốt lên bình lưu hương, khiến khách ghé qua tăng thêm mấy phần hảo cảm.

Quái lạ ở chỗ, bên ngoài tuyết phủ dày đến năm phân, đi về khó khăn, suốt dọc đường cô liêu quạnh quẽ, những thôn làng chung quanh cửa chốt then cài, không thấy một bóng người, vậy mà, trong quán nhỏ lúc này đông đúc như mở hội, văn nhân, võ phu, ngư long hỗn tạp ngồi đủ mặt.

Mùa đông rời nhà vì vài ba chén rượu!

Có thể sao?

Ngay lúc ông lão còn đang nghi hoặc, chợt nghe có người cao giọng.

“Thiên địa sơ phân, hồng hoang sơ phán, đại đạo hỗn loạn, vạn pháp tranh phong, liệt hoả phần thiên, hàn băng tích địa, phong quyển như cương, lôi vân vần vũ thế gian tịch mịch suốt ngàn năm. Mãi đến một ngày, Thái Dương Nhật thần lăng không xuất thế, kéo theo vạn đạo kim quang soi chiếu bát hoang, phối hợp Thái Âm Nguyệt thần ôn nhu nguyệt lượng trấn áp pháp tắc náo động, nhật nguyệt luân hồi ổn định nhân gian. Dưới dương quang ấm áp, ngân nguyệt nhu hoà, hạt giống sinh mệnh nguyên thuỷ từng chút nảy mầm, khai linh mở trí. Có thể nói, thiên linh bách chủng đạt đến rực rỡ như ngày nay là có liên hệ mật thiết với Nhật, Nguyệt song thần!”

Giữa phòng, một thư sinh áo trắng, sắc diện nhợt nhạt như giấy nến, một mạch kể ra đoạn truyền thuyết sáng thế thần kỳ, xong liền chậm rại nhấp một ngụm trà thấm giọng.

Người trong quán thân phận bất đồng, tam giáo cửu lưu, vậy mà toàn bộ bị lời kể sinh động của thư sinh cuốn hút, mười phần chăm chú lắng nghe, hai mắt tròn xoe, ai nấy tưởng trượng tràng cảnh kinh diễm trong từng con chữ, không ngừng gật gù.

Chỉ có, góc tây phòng, một bộ bàn ghế, một bộ ấm trà, một cậu thiếu niên hờ hững không quan tâm.

Cậu thiếu niên uể oải vươn vai, nheo mắt nhíu mày, trưng ra bộ mặt ngốc trệ cừa người từ cõi mộng trở về, quẹt qua chút dải trắng ở khoé miệng, trông như chẳng biết chuyện gì, tuy nhiên, từ khi thư sinh bắt đầu kể hắn chưa từng bỏ sót nửa chữ.

Lúc này, hắn vơ lấy chén trà đã nguội lạnh, ực một hơi rồi ngầng đầu nhìn ánh tà dương vàng rực tận chân trời, lãnh đạm cất tiếng. “Tiên sinh, dám hỏi một ngày Thái dương Thần kia biến mất, vậy thế gian sẽ biến thành cái bộ dáng gì?”

Một lời vừa ra kéo đến toàn trường chú ý, trăm cặp mắt đổ dồn về phía thiếu niên.

Cửa sổ hé mở một bên, chút nắng chiều len lỏi lách vào, sáng tối đan xen, chúng nhân chỉ thấy nửa bộ trường bào đỏ rực như lửa cháy, nửa khuôn mặt phong hoa cùng một ánh mắt hờ hững, nhưng lại sâu như đầm nước.

Sắc mặt thư sinh vốn nhợt nhạt, lộ ra khó chịu càng thêm khó xem, hắn ấp úng nói. “Vấn đề này, vốn không nên hỏi a!“

Môi đỏ vẽ một đường cong, thiếu niên bá đạo lấn tới. “Ta vẫn muốn!”

“Ây!” Thư sinh tặc lưỡi.

Một tên đại hán từ phía đông phòng đi đến đối diện thư sinh.

Kẻ này cao lớn khôi ngô, vóc người vượt đại bộ phận một cái đầu, quanh thân sơ sài quấn ngang một bộ da lông heo rừng, bắp thịt săn chắc lồ lộ từng mảng. Hắn không kìm được hiếu kỳ, tay trái đập bàn, tai phải lắc lắc túi vải thô ráp bên hông, lớn tiếng quát. “Quỷ mặt trắng, nhanh kể, chỗ tiền này cho ngươi.” Nói đoạn, hắn ném ra mười đồng tiền.

“Ta cũng cho a.”

“Ta mười đồng tiền.”

“Ta…ta…ta ba đồng.”

Đám người nhao nhao thúc ép, đồng thời lấy ra rất nhiều túi bạc muôn vàn màu sắc, trút xuống, âm thanh tiền đồng leng keng leng keng cứ đều đều vang lên.

Thư sinh dường như vẫn đang lưỡng lự thì chợt cảm thấy có một bàn tay đặt lên vai mình, xoay người liền thấy, phía sau mình từ khi nào đã xuất hiện một ông lão râu tóc bạc phơ, hắc bào u ám mang theo vẻ cổ xưa.

Nụ cười xảo trá thường trực trên khuôn mặt ông kéo giãn thêm mấy phần, khẽ nói. “Tiểu huynh đệ ngươi tại dưới mi mắt lão phu công nhiên kéo khách, mọi người chỉ chăm chú nghe ngươi kể chuyện, suốt mấy canh giờ một giọt trà chưa uống, nửa bát mì chưa kêu, thiệt hại này quán nhỏ chịu không nổi.” Lời đầy vẻ khổ tâm, đôi mắt già nua còn hàm chứa lệ quan.

Bờ môi mím chặt, ông lão chỉ vào chỗ tiền chất thành đống trên bàn, ủ rũ nói. “Ta nghe khẩu âm tiểu huynh đệ đoán không phải người Hoài Phong quốc, là khách phương xa. Quanh vùng này ba mươi dặm không là rừng sâu nước độc thì sơn tặc chực chờ, ngươi độc thân hành tẩu thật không nên. Chi bằng, số bạc này ta thu phân nửa, vừa xem là phí trọ mấy ngày, vừa xem như bồi thường thiệt hại, phần còn lại giúp ngươi thuê mấy vị võ giả theo hộ tống dọc đường.” Lão không đợi thư sinh đồng ý, ma trảo thật nhanh vươn ra, hốt lấy một khoảng lớn cho vào ống tay áo.

Thư sinh khẽ nhíu mày, song vẫn thật thà gật đầu. “Tại hạ là người đọc sách, thân thể quả không tốt, chuyến này lặn lội xuôi nam nửa năm liền, suy kiệt không ít, nếu được, cầu ông chủ mua giúp vài vị thuốc bổ, mướn luôn một cỗ xe ngựa.”

“Không vấn đề, không vấn đề.” Lão chủ quán xua tay, nụ cười gian trá đã rộng đến mang tai, liên tục thu lấy tiền đồng.

Tại góc khác của căn phòng, một vị kiếm khách hờ hững nhìn sơn mạch liên miên phía tây, khinh thường khẽ mắng. “Vô sỉ!”

Toàn trường vượt hơn trăm người, trung bình mỗi người năm đồng tiền, con số kia đã là thật lớn, bao trọn toà khách điếm rách nát chốn sơn cùng thuỷ tận này mười bữa nửa tháng vẫn còn dư, vậy mà, lão cáo già kia khua môi múa mép vài lời liền dễ dàng gạt đi phân nửa, công phu sư tử ngoạm này luyện quả có thành tựu.

Nhiều người tâm tồn chính khí, muốn tiến lên thay thư sinh đòi công đạo, bất quá, đột nhiên sực nhớ một lời đồn, vài năm trước có đám cường đạo đi ngang khách điếm, sinh sự với lão chủ quán kia. Kết quả, ngày hôm sau người ta vớt được trên sông mười ba bộ thi thể không đầu, trùng khớp hoàn toàn với số lượng cường đạo, mà quan trọng là khách điếm vẫn mở cửa kinh doanh như chưa từng phát sinh chuyện gì, nghĩ đến đây, rất nhiều anh hùng giấy liền muốn thu tay.

Càng thêm, bọn hắn thấy thư sinh vui vẻ gật đầu, đã chẳng thèm ai muốn lo chuyện bao đồng để rước hoạ vào thân, bọn hắn càng quan tâm hơn tới câu chuyện sắp được kể.

Thư sinh thấy mọi người đã ổn định, ho lấy giọng rồi bắt đầu kể.