Mưa Bóng Mây

Chương 57

May mà anh còn sống, may mà anh và cậu đều còn sống…

***

Bầu trời như một ô cửa kính được lau bớt hơi nước, tỏa ra từng chút từng chút ánh sáng một.

Người trong phòng lại tình nguyện chìm trong bóng tối, dùng chăn bông che kín đầu, sờ soạng thơm má nhau, như hai con người tuyệt vọng, ôm lấy nhau để sưởi ấm.

Trong lớp chăn được nhiệt độ cơ thể hun nóng, làn da vừa tắm rửa xong lại trở nên ẩm ướt dính dấp. Ban đầu Thời Mông còn đẩy ra vài lần, muốn Phó Tuyên Liêu lăn ra ngoài, sau đó cạn sạch chút sức lực vừa góp nhặt được, đến cả kiểu hôn đau đớn mà cậu am hiểu nhất cũng mất đi uy lực.

Phó Tuyên Liêu vẫn mặc chiếc áo sơ mi kia, vội vàng đến mức không lo cài nút áo, ngón tay thon dài của Thời Mông luồn qua vạt áo trước, chạm đến hình xăm trước ngực anh và vết sẹo lồi lõm ở chính giữa.

Bây giờ Phó Tuyên Liêu biết đau rồi, thở hắt ra, nói: “Thật khéo quá đi, vừa hay rơi vào hình xăm.”

Anh đang nói đến vết sẹo bỏng do tàn thuốc kia.

Thời Mông mím mím môi, nói nghèn nghẹn: “Tôi không cố ý.”

“Ừ, tôi biết.” Phó Tuyên Liêu an ủi cậu, “Lần sau tôi sẽ vẽ một bức khác, để xăm trên lưng.”

Thời Mông nói: “Đừng.”

“Tại sao?”

“… Xấu.”

Thoạt đầu Phó Tuyên Liêu sững sờ, sau đó l*иg ngực chấn động, bật cười.

“Chê tôi vẽ xấu hay là xăm trên người xấu?” Anh gặng hỏi, “Hay là cái nào cũng xấu?”

Thời Mông không muốn để ý đến anh, nghiêng đầu làm bộ muốn đi ngủ, Phó Tuyên Liêu bắt lấy cằm cậu không cho cậu trốn, cậu cáu lên lại túm cổ áo Phó Tuyên Liêu lần nữa.

Lúc này không phải là hôn, mà là cảnh cáo.

“Không cho anh chết, tôi không cho anh chết.” Nhìn người đang gần trong gang tấc, hai mắt Thời Mông đăm đăm, lúc này mới thấy chút hung ác ở cậu, “Nếu chết là có thể giải thoát, vậy đừng hòng tôi để anh chết.”

Tuy lời nói ra là những câu uy hϊếp phải tra tấn nhau mãi cho đến già, nhưng ý nghĩa thực sự thì không phải như thế.

Phó Tuyên Liêu hiểu, bởi vậy anh không những không sợ, mà còn hết sức vui vẻ chịu “tra tấn.”

Hốc mắt anh căng ra, nhưng lại cố ra vẻ thoải mái nhếch khóe môi: “Vậy tôi phải sống lâu trăm tuổi.”

Để trả nợ, để bị em tra tấn.

Để cả hai ta đều không còn cô đơn nữa.

Mãi đến tận khi trời tảng sáng Thời Mông mới nhắm mắt lại, chìm vào giấc ngủ.

Cậu ngủ bao lâu thì Phó Tuyên Liêu chống má nhìn bấy lâu, vài lần bị hơi thở khẽ khàng và mùi thơm cơ thể xông vào mũi làm cho lòng dạ ngứa ngáy, nhưng vẫn không dám làm xằng làm bậy, động tác quá đáng nhất chỉ là khẽ vuốt lọn tóc mai mềm mại của Thời Mông.

Sương sớm tan đi, ánh sáng tự rắc vào phòng, sợ tia sáng ảnh hưởng đến giấc ngủ của Thời Mông, Phó Tuyên Liêu đứng dậy kéo rèm cửa vào, nâng cổ tay nhìn đồng hồ, vừa qua 7 giờ.

Anh không lạc quan cho rằng sau ngày hôm qua Thời Mông đã có thể mở rộng cánh cửa tâm hồn với anh, và quan hệ của họ đã quay về quỹ đạo. Còn rất nhiều chuyện cần anh xử lý, anh chỉ đang giải quyết mọi việc lần lượt theo độ nặng nhẹ, không hề quên bẵng đi.

Quay về giường, Phó Tuyên Liêu cúi người, đặt một cái hôn lên mí mắt Thời Mông.

Hôm qua chỗ này chảy rất nhiều nước mắt, mí mắt vốn rất mỏng đã hơi sưng, dù vậy, mạch máu màu xanh lam vẫn có thể nhìn rõ như cũ, lông mi dày rậm chập chờn theo nhịp thở, như chú bướm muốn vỗ cánh bay lên.

Phó Tuyên Liêu không nhịn được, lại cúi đầu hôn thêm cái nữa.

Xuống dưới lầu, Phó Tuyên Liêu làm bữa sáng cho Thời Mông trước.

Anh không giỏi nấu nướng, những gì anh có thể làm chỉ là hâm nóng cánh gà tối qua chưa ăn hết, để trong lò vi sóng, rồi lại lấy bánh mì gối kẹp thêm trứng ốp và rau củ thành một chiếc sandwich sơ sài.

Lúc ốp trứng suýt chút nữa bị dầu văng phỏng tay, Phó Tuyên Liêu vừa cầm nắp vung chắn trước người né trái né phải, vừa âm thầm hạ quyết tâm lúc vào về phải thỉnh giáo mẹ cách dùng phòng bếp.

Trước khi đi, anh tìm giấy bút, để lại một tờ giấy nhớ, đặt trong hộp giấy màu lam.

Anh sợ Thời Mông không nhìn thấy, bỏ vào đây là đảm bảo nhất.

Sắp xếp tất cả xong xuôi, Phó Tuyên Liêu cầm áo khoác đi ra ngoài, muốn đi sớm về sớm, bước chân vội vàng hơn.

Không ngờ rằng đang định đẩy cửa ra thì gặp Lý Bích Hạm định gõ cửa.

Cuộc giáp mặt bất ngờ khiến cả hai người cùng xấu hổ, Phó Tuyên Liêu gọi “dì Lý”, cúi đầu nhìn theo ánh mắt Lý Bích Hạm mới phát hiện quần áo mình xộc xệch đã đành, trên áo sơ mi còn lỗ thủng do tàn thuốc lá đi kèm vết máu, cộng thêm khóe môi vừa kết vảy và sự mệt mỏi do cả đêm không ngủ, nhìn thoáng qua cũng đủ thấy sa sút đến nhường nào.

Trong lòng rớt cái độp, Phó Tuyên Liêu vội vàng khép chặt áo khoác trên người, che đống vết tích quỷ dị kia đi, sau đó xốc lại tinh thần cất tiếng chào buổi sáng tốt lành.

Lý Bích Hạm gật gật đầu, lộ ra một cười tạm gọi là ôn hòa: “Tuyên Liêu à cháu.”

Thấy Lý Bích Hạm tay xách nách mang, Phó Tuyên Liêu chủ động giúp bà xách đồ vào nhà, đồng thời nói cho bà biết: “Thời Mông vẫn đang ngủ, hôm qua em ấy mệt mỏi, có lẽ ngủ đến trưa mới tỉnh.”

Không biết câu này sai ở chỗ nào, Lý Bích Hạm nghe xong khẽ lườm Phó Tuyên Liêu một cái, có vẻ dò xét.

Phó Tuyên Liêu bị cái nhìn này làm tóc gáy dựng lên, nhủ thầm quái lạ, sao trước kia không cảm thấy dì Lý đáng sợ nhỉ.

Cũng may Lý Bích Hạm không nói gì khác, vừa sắp xếp đồ mang tới, vừa hỏi Phó Tuyên Liêu muốn đi đâu.

“Về Phong thành một chuyến ạ.” Phó Tuyên Liêu đáp, “Xử lý vài việc.”

Lý Bích Hạm “ừ” một tiếng: “Cứ giải quyết xong xuôi rồi hãy lại đây.”

Lời này thì Phó Tuyên Liêu nghe rõ, đang không đồng ý với hành vi chạy tới cầu hòa liều lĩnh và lỗ mãng của anh đây mà.

Có điều Phó Tuyên Liêu không hối tiếc, tiền đề của việc công tác ổn định của anh đó là tuân theo lựa chọn từ nội tâm.

Tới muộn một ngày, Thời Mông có thể phải dầm mưa thêm một ngày nữa.

Nghe Lý Bích Hạm bảo lần này tới định ở lại một thời gian, Phó Tuyên Liêu càng yên tâm hơn.

Nói lời chào rồi đi ra cửa, đúng lúc gặp một sợi nắng xuyên qua tầng mây rơi xuống đất, sáng chói mắt.

Dừng chân ngửa đầu nhìn một lát, Phó Tuyên Liêu chuyển hướng sang cửa sổ phòng ngủ trên lầu hai, dùng thanh âm rất khẽ nói với người đang ngủ say: “Đừng khóc nhé bé nấm, mặt trời lên rồi.”

Quay về Phong thành, dù bị Phó Khải Minh gọi điện thoại hối anh về công ty đến nỗi điện thoại sắp hết cả pin, Phó Tuyên Liêu vẫn quyết định tới nhà thầy Mã trước.

Chủ nhật không có lớp, thầy Mã ra ngoài tản bộ, khi về nhìn thấy người đợi ở cổng, phút chốc biến thành một ông chú khó tính không hề nể mặt.

“Thầy Mã.” Phó Tuyên Liêu cung kính nghênh đón, “Chuyện em nói lần trước…”

“Lần đó đã bảo thẳng cậu là đừng có giỡn rồi mà?” Thầy Mã lôi chìa khóa ra mở cửa, “Cái cậu này sao mà cố chấp thế.”

Phó Tuyên Liêu đi theo tới cửa: “Việc liên quan đến danh dự của Thời Mông…”

Mã lão sư cười khẽ: “Cái gọi là danh dự chẳng qua chỉ là danh hão mà người đời để ý. Tôi hiểu rõ cậu học trò Thời Mông này, trò ấy không màng danh lợi, vẽ tranh chỉ là sở thích của trò ấy mà thôi.”

Cửa mở ra, Phó Tuyên Liêu đi vào theo.

“Thầy nói rất đúng, người yêu vẽ tranh chân chính đều có thể phân biệt tác phẩm kia xuất phát từ tay ai, cũng hoàn toàn không để ý đến hư danh.” Anh nói, “Nhưng em là một kẻ trần tục, em quan tâm.”

Thầy Mã hừ một tiếng, không nói gì.

Làm xong công tác chuẩn bị, Phó Tuyên Liêu thành khẩn: “Nói ra sợ thành trò cười cho thầy, thế nhưng bức 《 Diễm 》kia là Thời Mông vẽ vì em.”

Nghe vậy, thầy Mã nhíu mày, bấy giờ mới cho Phó Tuyên Liêu một ánh mắt.

Phó Tuyên Liêu tới đây không ít lần, trước kia lần nào tới cũng thất vọng ra về. Anh nghĩ, có lẽ giữa người làm nghệ thuật và người thường có hàng rào ngăn cách, ví như anh luôn không hiểu Thời Mông muốn gì, chỉ có thể tự mình suy đoán và cảm nhận lung tung.

Dù có nhầm phương hướng, thứ anh cho đi không phải thứ cậu quan tâm nhất, thì chí ít thực lòng và nỗ lực sẽ không bao giờ uổng phí.

“Trò cười ở đây, không phải là bức tranh của Thời Mông, mà là bức tranh ấy lại dành cho em.” Nói rồi, Phó Tuyên Liêu cười tự giễu, “Thế nhưng em, lại tưởng rằng nó do người khác vẽ cho em, còn tự cho là hiên ngang lẫm liệt bắt cậu ấy trả lại cho người ta.”

“Bây giờ nghĩ lại, trừ cảm thấy mình bị mù ra còn cảm thấy mình không xứng.”

“Cậu ấy tốt như thế, em thì sao, dựa vào đâu mà được cậu ấy để mắt, dựa vào đâu mà được cậu ấy yêu thương, còn thương bao nhiêu năm như thế?”

Nhớ đến trái tim không nhuốm bụi trần hướng về phía mình, còn có ánh mắt trong vắt nhìn mình chăm chú, trái tim vừa trở lại bình thường của Phó Tuyên Liêu lại đau âm ỉ.

Anh hít sâu một hơi, nói tiếp: “Cho nên, để xứng với yêu thương của cậu ấy, em nhất định phải làm đến cùng, vì cậu ấy, cũng là vì chính em.”

“Em không muốn cậu ấy tiếp tục cõng tai tiếng tày trời kia trên lưng nữa, em muốn cậu ấy thoát khỏi bóng ma bao năm qua, và muốn nắm tay cậu ấy, đưa cậu ấy tới nơi tràn ngập hoa tươi và tiếng vỗ tay.”

Cuối cùng, ngữ khí Phó Tuyên Liêu gần như là cầu xin: “Chuyện này, chỉ có thầy đồng ý giúp đỡ thì mới có thể làm được.”

Bức tranh đã bị thiêu rụi, chỉ dựa vào ảnh chụp thì việc nhận diện khó hơn rất nhiều, để cấp được loại chứng nhận này cần phải nhờ người có đầy đủ thẩm quyền trong giới, đây là điểm mù của Phó Tuyên Liêu, anh đành phải năm lần bảy lượt tới cửa nhờ vả thầy Mã, chờ mong một giải pháp khả thi.

Có lẽ bị những lời này lay động, thầy Mã trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng thở dài.

Ông về phòng, lúc đi ra cầm trên tay tờ giấy, trên đó viết một dãy số điện thoại.

“Đây cũng là học trò của tôi, không tĩnh tâm vẽ tranh được nhưng lại không muốn rời ngành rời nghề, sau này làm giám định thư họa.”

Đưa tờ giấy cho Phó Tuyên Liêu xong, thầy Mã nói: “Giáo viên hiện tại của nó là nhà giám định tranh nổi tiếng nhất trong giới, khi nào liên lạc được, cậu báo tên tôi, học trò của tôi sẽ nói giúp một chút, còn người ta có chịu nhận việc này không thì phải xem vận may của cậu.”

Giọng nói trịnh trọng, khiến Phó Tuyên Liêu có một cảm giác được ủy thác trách nhiệm khó tả.

Anh nhận tờ giấy, gấp vuông vắn rồi bỏ vào túi.

Chân trước vừa ra khỏi nhà thầy Mã, chân sau Phó Tuyên Liêu đã bấm số điện thoại của học sinh này.

Nghe thấy bảo là được thầy giáo giới thiệu, học sinh kia đồng ý giúp ngay lập tức. Chỉ là giống với phỏng đoán của thầy Mã, người kia cũng dặn anh phải thăm dò ý tứ trước đã, việc giám định và chứng minh nguồn gốc này liên quan đến vấn đề danh dự, giáo viên hiện tại của người đó cũng không muốn hủy hoại danh dự của mình, nên nhất định phải cẩn thận.

Phó Tuyên Liêu thông cảm cho sự khó xử của họ, nhưng khổ nỗi nóng ruột, hỏi được địa chỉ xong chạy luôn tới, mang theo quà cáp mà Cao Lạc Thành đã chuẩn bị sẵn từ trước.

Lần này rốt cuộc cũng đến lượt Phó Tuyên Liêu làm chủ, dù anh không hiểu nghệ thuật, không thạo nâng bút vẽ tranh, nhưng với anh, ngồi vào bàn đàm phán còn thường xuyên hơn cả bàn cơm.

Tới chỗ gặp ông lão, đầu tiên là một màn lấy lòng kín đáo khéo léo, sau đó là thể hiện thành ý trước sau đầy đủ, hứa hẹn nếu xảy ra sự cố thì bên anh sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn, về phần ký hợp đồng cũng không thành vấn đề, dù có là một ông cụ cố chấp đến mấy thì cũng không thể chống lại sự tấn công đồng thời của tiền bạc và tình cảm được.

Lúc về nhận được điện thoại của Cao Lạc Thành, nghe bảo đã xong công chuyện, hắn cũng rất vui.

“Giang Tuyết đang chuẩn bị để người đẹp lạnh lùng nhà ông xuất hiện trở lại đấy, lại còn được rửa sạch oan khuất, há chẳng phải song hỉ lâm môn hay sao.”

Phó Tuyên Liêu nghe mà mát lòng mát lạ, thần kinh căng thẳng nhiều ngày cũng thoáng thả lỏng.

Anh lái xe, bon bon trên con đường thông thoáng vùng ngoại thành, hiếm khi rỗi rãi nghe Cao Lạc Thành kể lể về những điều ân ái hằng ngày với Giang Tuyết, nào là gặp phụ huynh nào là mua nhà, đều là những chuyện trước giờ Phó Tuyên Liêu chưa bao giờ nghĩ tới, bây giờ lại rục rịch muốn làm.

Nghe thấy anh bảo xong việc là sẽ về Tầm thành, Cao Lạc Thành thắc mắc: “Cô chị rẻ tiền của cậu ấy đã phải khóc sau song sắt, bà mẹ nuôi và ông thầy bị chó ăn mất lương tâm ít nhiều cũng bóc lịch 8 năm 10 năm, ngay cả lão bố đẻ không bằng súc sinh cũng mất vợ con táng gia bại sản rồi, còn phải xử lý chuyện gì nữa?”

Xe quẹo cua, đi vào một con đường ít ai lui tới, dốc thoải uốn lượn kéo dài, hòa mình vào núi rừng thăm thẳm.

Phó Tuyên Liêu trả lời ngắn gọn với điện thoại: “Xử lý quá khứ.”

Gió mùa đông thổi rặng thông thường xanh ven đường ào ào xào xạc, lúc xuống xe, Phó Tuyên Liêu quay đầu nhìn thoáng qua con đường lúc đến, nhớ lại tối hôm qua Thời Mông nói “quay lại”, anh tăng tốc, muốn xong sớm về sớm.

Đây là một mảnh nghĩa trang, dựa vào sườn núi, vị trí cực đẹp ven sông, nghe nói chỗ dốc nhất cũng có thể bán được bảy chữ số.

Không nói đến tiền bạc, phía sau mỗi tấm bia mộ sừng sững còn là một mẩu chuyện đời khác nhau, tấm trước mặt Phó Tuyên Liêu bây giờ cũng thế.

Đây là lần đầu tiên anh mang tâm trạng bình tĩnh thản nhiên để tới đây, bởi vậy khi nhìn thấy cái tên trên bia mộ, đầu óc anh trống rỗng trong một nháy mắt, dường như không biết phải nói gì.

Thật ra vốn cũng không cần phải nói ra, không cần chạy tới đây.

Nhưng Phó Tuyên Liêu cho rằng, cần cho Thời Mông, cho bản thân anh một câu trả lời rõ ràng, nếu không nói trực tiếp trước mặt thì không đủ thuyết phục.

Coi như anh đang chạy theo mốt, học đòi một lần truy cầu cảm giác nghi thức đi.

Phó Tuyên Liêu nhớ lần trước tới đây, vì mang theo nỗi áy náy “thay lòng đổi dạ”, đến mắt cũng không dám nhìn thẳng. Mà bây giờ, anh nhìn bức ảnh đen trắng trên mộ bia, chỉ cảm thấy khuôn mặt này càng ngày càng xa lạ, đã không phải là dáng vẻ trong trí nhớ của anh.

Hoặc là nói, chính vì trước kia những gì anh nhìn thấy là giả tạo, nên khi chân tướng ập tới chúng mới sụp đổ nhanh đến vậy, triệt để đến vậy.

Đổi sang góc nhìn khác, có lẽ phải cảm ơn người nằm ở đây, để tia áy náy sau cùng của anh tan thành mây khói, để dây thừng trói trên người được cởi bỏ, có thể một lần nữa ôm lấy tự do, một lần nữa nhìn rõ tình cảm chân chính của mình.

Phó Tuyên Liêu cất lời trong gió lạnh: “Đây là lần cuối tôi tới đây.”

“Không phải là để thăm cậu, dù sao thì tôi cũng không nợ cậu, Thời Mông càng không nợ cậu.”

Người trong tấm ảnh như không nghe thấy lời anh nói, nụ cười vẫn cứ xán lạn như thế, không khác khi xưa chút nào.

Còn Phó Tuyên Liêu thì chợt có một nỗi xúc động, muốn bước tới lột bỏ nụ cười và lớp ngụy trang của cậu ta, chất vấn vì sao cậu ta thâm độc đến vậy, trước khi chết còn cố hại Thời Mông ra nông nỗi kia.

Thời Mông đã làm sai điều gì? Dựa vào đâu mà cậu bị vận mệnh trêu ngươi, giày vò đến nỗi chồng chất vết thương, đầy mình thương tích?

Dựa vào đâu mà bọn họ phải lỡ mất nhau nhiều năm như vậy?

Thế nhưng người trước mắt đã chết, có nói gì chăng nữa cũng không truyền được xuống lòng đất.

Đến tận bây giờ, Phó Tuyên Liêu mới hiểu hàm nghĩa chân chính của câu “Thế nhưng anh ta chết rồi mà” của Thời Mông năm ấy.

Bởi vì anh ta chết rồi, nên anh không thể quên anh ta; Bởi vì anh ta chết rồi, nên em vĩnh viễn không có cách nào độc chiếm trái tim anh.

Nhìn thì có vẻ khích tướng, dùng việc mình vẫn còn sống để vênh váo, thực ra là hèn nhát vô cùng, như thể trừ chuyện còn sống ra, cậu không lấy ra được bất kỳ ưu thế nào để địch lại người đã chết.

Một loại tuyệt vọng và bất lực cùng cực.

Hít thật sâu một hơi khí lạnh trong núi, như một con dao lạnh lẽo róc trong cổ họng, mùi gỉ sắt bốc lên đủ làm tê liệt thần kinh.

“Lần này tôi tới đây là muốn nói cho cậu biết, tất cả những gì bị cậu cướp đi giờ đã được trả lại toàn bộ cho Thời Mông.” Phó Tuyên Liêu gằn từng chữ, “Kể cả những yêu thương, mà những năm đó cậu bất chấp chiếm đoạt.”

Nghĩ đến những câu chuyện đẹp đẽ đáng lẽ ra phải thuộc về Thời Mông và anh trong những năm ấy đã bị phá nát tươm, anh hận mình không nhìn thấu lòng người, đồng thời, cũng hận người trước mặt cười vô hại là thế nhưng thực chất ác độc vô cùng.

Người này ra đi thanh thản, dù sau này có bị nhắc đến, thì cũng có thể dùng một câu “Còn trẻ mà mắc bệnh nan y bảo sao lòng mang gút mắc” để bỏ quá, nhưng những gì cậu ta gây ra lại như cây gai đâm vào lòng bọn họ, khiến họ hoài nghi lẫn nhau, dẫu có nhổ bỏ thì cũng không thể hoàn toàn lành lặn.

Nhưng bây giờ không phải lúc để kêu ca. Ghìm cơn giận đang cuồn cuộn lại, Phó Tuyên Liêu cười lạnh: “Bây giờ, tôi có thể cam đoan rằng tôi sẽ không quên cậu.”

“Tôi sẽ vĩnh viễn không bao giờ quên những gì cậu đã đối xử với Thời Mông, cho dù cậu có chết thì cũng đừng hòng được xí xóa, đã phạm tội nghiệt thì nhất định phải trả lại từng thứ từng thứ cho tôi.”

Nói đến đây, Phó Tuyên Liêu lại cảm thấy may mắn.

May mà anh còn sống, may mà anh và cậu đều còn sống.

Còn sống, không chỉ là một lợi thế khi so sánh với người chết, mà còn là thể hiện sức mạnh của sự sống với người đã chết.

Còn sống thì mới có hi vọng.

“Nếu cậu vẫn cảm thấy chưa đủ, vẫn muốn báo thù, vậy cứ tìm đến tôi, mạng tôi lớn.”

Phó Tuyên Liêu duỗi thẳng thắt lưng, thở hắt ra luồng khí lạnh mà anh đã hít vào phổi.

“Mà em ấy, sẽ mang theo tất cả tình yêu của mọi người, tất cả chúc phúc của mọi người, sống lâu trăm tuổi, một đời khỏe mạnh vui tươi.

Hết chương 57.