“Thuật có trăm ngàn loại thuật nhưng tựu chung lại chúng đều vô cùng huyền bí và kỳ ảo. Hầu hết người đời đều đã từng nghe qua Đạo thuật của Đạo gia, Phật thuật của Phật gia tuy nhiên hiếm ai biết rõ kỳ thực “thuật” bắt nguồn từ ngũ y. Trong đó, Đạo y truyền Đạo thuật, Phật y truyền Phật thuật, Vu y truyền Vu thuật, Đan y truyền khí thuật và còn một y nữa nhưng nó gần như đã bị thất truyền từ lâu, hiện tại rất ít người nhắc tới. Đó chính là Mệnh thuật.”
Vừa nói Văn Trạch Tài vừa thả nhẹ một đồng xu vào trong bát nước. Ngay lập tức, đồng xu và giọt máu đυ.ng phải nhau, thế nhưng lại chẳng xảy ra bất cứ phản ứng gì, giọt máu vẫn giữ nguyên hình dạng ban đầu, thậm chí nó như thể có linh tính, cố tình chuyển động ra xa nhằm tránh né sự va chạm.
Quá hãi hùng, quá khϊếp sợ, Hạ Chính Quốc chẳng còn biết gì nữa, cứ thế ngồi ngây ra như phỗng, mắt mở trân trân, mồ hôi lạnh chảy dọc hai bên sườn mặt.
“Vậy mà anh lại trúng ngay phải loại thuật thất truyền ấy. Xem ra người hạ thuật cũng có tí chút bản lĩnh đây.” Dứt lời, Văn Trạch Tài tiếp tục ném vào một đồng tiền nữa và cảnh tượng vẫn y chang lúc nãy, không có gì đổi khác. Song, anh chẳng lấy làm bất ngờ bởi mọi thứ đang diễn ra đúng như trong dự đoán.
Nhìn chằm chằm vào chén nước không rời mắt, Văn Trạch Tài đủng đỉnh nói tiếp: “Mệnh Thuật xuất hiện từ thời nhà Triệu (1). Lúc bấy giờ, nổi danh nhất là tứ đại gia tộc Triệu, Tần, Chu, Văn.
[(1)Nhà Triệu: (chữ Hán: 趙朝; bính âm: Zhào cháo; Hán Việt: Triệu triều) là triều đại duy nhất cai trị nước Nam Việt (Ngày nay gồm 1 phần của Miền Nam Trung Quốc và Miền Bắc Việt Nam) suốt giai đoạn 204–111 trước Công nguyên.
Nguồn gốc của nhà Triệu bắt nguồn từ Triệu Đà, một võ tướng của nhà Tần theo lệnh Tần Thủy Hoàng dẫn quân xuống chinh phạt phía Nam sông Trường Giang (khi đó là lãnh thổ của các bộ tộc Bách Việt). Ông chiếm được nhiều vùng lãnh thổ (nay là Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam), nhưng nhà Tần ở Trung Hoa đã diệt vong. Nhận thấy triều đình trung ương đã sụp đổ, Triệu Đà bèn tách ra cát cứ, dùng những lãnh thổ ông chiếm được để lập nên nước Nam Việt. Sau khi nhà Hán làm chủ Trung Hoa, khi về già, Triệu Đà đã quyết định bỏ việc xưng Đế, quy phục nhà Hán (nhưng vẫn xưng Hoàng đế ở trong Nam Việt). Triệu Đà viết thư gửi cho vua Hán, trong thư Triệu Đà đã công nhận rằng mình là người Trung Hoa, nhà Triệu chỉ là chư hầu phục vụ cho nhà Hán, thay mặt vua Hán để cai trị phía Nam, bản thân ông cũng chỉ coi những thần dân người Việt là đám "Man Di" mà thôi.]
Mỗi gia tộc này đều có riêng cho mình hai bộ bí kíp về Mệnh Thuật. Sau đó, vì mưu quyền đoạt lợi can dự triều chính nên hai họ Triệu, Tần đã bị Triệu Văn Đế (2) tiêu diệt. Bốn đại gia tộc vì vậy chỉ còn họ Chu và họ Văn.”
[(2)Triệu Văn Đế: (趙文帝) hay Triệu Văn Vương (趙文王), húy Triệu Mạt, có khi phiên âm là Triệu Muội (趙眜), còn gọi là Triệu Hồ (趙胡), sinh năm 175 TCN, mất năm 124 TCN. Triệu Văn Đế là vị vua thứ hai nhà Triệu nước Nam Việt, cháu nội của Triệu Đà, lên ngôi năm 137 TCN. Tại vị 13 năm.]
“Để bảo vệ Mệnh Thuật không bị xoá sổ cũng như bảo toàn an nguy cho gia tộc, hai nhà Chu, Văn thống nhất phong ấn bốn bộ bí kíp Mệnh Thuật cuối cùng còn sót lại, đồng thời trốn ra biên ải và từ đó trở đi không tiếp tục truyền dạy Mệnh Thuật cho hậu thế nữa.”
Nhờ vẻ mặt bình thản cùng tông giọng trầm ổn của Văn Trạch Tài hoặc cũng có thể là vì câu chuyện quá sức cuốn hút mà Hạ Chính Quốc bỗng chốc tạm quên đi nỗi sợ hãi. Anh ta tò mò cất tiếng hỏi: “Vậy Mệnh Thuật cũng thất truyền từ đó luôn hả?”
Văn Trạch Tài lắc đầu: “Tuy nói là tứ đại gia tộc nhưng kỳ thực trong đó luôn tồn tại những mối quan hệ mật thiết đan xen, chồng chéo, không thể tách rời. Bởi vì, để đảm bảo duy trì dòng máu thuần khiết cho các đoán mệnh sư mà bốn nhà này buộc phải liên hôn với nhau. Điều đó có nghĩa là, bên trong gia tộc Triệu, Tần có không ít con cháu xuất thân từ Chu, Văn. May mắn tại thời điểm cuộc thanh trừng đẫm máu xảy ra, những người này đã nhanh chân tẩu thoát, ẩn mình vào nơi thâm sơn cùng cốc. Nhờ vậy mới thoát khỏi kiếp nạn diệt vong. Ngay khi Triệu Văn Đế vừa băng hà, hai nhà Chu, Văn liền tiến hành truy lùng tung tích và tìm về bốn bộ bí kíp thuộc sở hữu Triệu, Tần. Từ đó, Mệnh Thuật lại được hoàn nguyên như lúc ban đầu.”
Cùng lúc ấy, Chu gia và Văn gia, từng nhà âm thầm tuyển chọn một thành viên xuất sắc nhất trong gia tộc để chuyên tâm bồi dưỡng. Nhưng không ngờ, tân đế vừa mới đăng cơ đã lập tức ban chiếu tầm nã tất cả các mệnh sư trong thiên hạ. Vậy là một lần nữa, hai nhà Chu, Văn bị rơi vào tầm ngắm của triều đình. Để được yên ổn, bọn họ bắt buộc phải thay đổi chỗ ở liên tục, tứ tán lẩn trốn khắp nơi.
Cứ như thế, tình trạng đó kéo dài suốt hai mươi năm ròng. Và trong lúc ấy, hai truyền nhân cũng theo vậy mà trưởng thành.
“Quá mệt mỏi với cuộc sống lang thang vất vưởng, rày đây mai đó, Chu gia quyết định quy phục triều đình. Vì để thể hiện lòng trung thành, Chu gia thi (3) thuật giúp đỡ tân vương tróc nã con cháu Văn gia.”
[(3)Thi triển]
Thế nhưng ngàn vạn lần Chu gia không ngờ tới, cả gia tộc họ Văn đồng lòng liều chết bảo vệ bằng được truyền nhân duy nhất cũng là vị mệnh sư sở hữu trọn vẹn bí kíp Mệnh Thuật. Văn gia cho người đó thay tên đổi họ đồng thời thiết lập quy củ, ngoại trừ con trai ruột thì không được phép truyền thụ Mệnh Thuật cho bất kỳ một ai khác.
Tất nhiên đây là bí mật gia tộc, Văn Trạch Tài không kể cho Hạ Chính Quốc nghe mà chỉ nói rằng Văn gia đã bị diệt sạch.
“Sau khi tiêu diệt được Văn gia, Chu gia khấp khởi mừng thầm cứ tưởng rằng kể từ đây sẽ được sống trong giàu sang quyền lực, an hưởng thái bình. Tuy nhiên người tính không bằng trời tính, chỉ trong vòng một đêm ngắn ngủi, toàn bộ Chu gia bị quân triều đình khống chế. Nam thì bị đóng cọc xuyên thủng hai bả vai, dùng xích sắt khoá chết xương tì bà (4), còn nữ thì bị bắt làm nô tì hoặc bị bán vào lầu xanh. Và thế là, con cháu Chu gia chính thức trở thành nô ɭệ của Quân vương.”
[(4)Xương tì bà là xương bả vai.]
Há mồm trợn mắt chăm chú lắng nghe nãy giờ, Hạ Chính Quốc vô thức hít vào một ngụm khí lạnh, gấp gáp hỏi: “Vậy Chu gia cũng chết sạch à? Có còn ai sống sót không?”
“Đương nhiên là có!” Văn Trạch Tài nhướng mày đáp tỉnh bơ: “Bởi vì quân vương tính tình bạo ngược cho nên chưa đầy mười năm tại vị đã có rất nhiều người đứng lên phất cờ khởi nghĩa, mà nổi bật nhất chính là trận Côn Dương (5) trong cuộc đại chiến Hán - Tân lừng danh lịch sử.
[(5)Trận Côn Dương là trận đánh giữa quân nhà Tân và quân khởi nghĩa Lục Lâm năm 23 trong lịch sử Trung Quốc. Quân triều đình nhà Tân có 42 vạn người đã bị quân khởi nghĩa chỉ có hơn 1 vạn người đánh thua tan tác. Trận đánh khiến quân chủ lực nhà Tân tan rã, không còn khả năng trấn áp các lực lượng chống đối và nhà Tân sụp đổ vào cuối năm đó.
_Diễn biến lịch sử: Năm thứ 8 sau CN, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, lập ra nhà Tân. Do tiến hành những cải cách mất lòng dân và liên tiếp gây chiến với các ngoại tộc, chính quyền nhà Tân bị sự căm phẫn của nhân dân trong nước vì phải đi lính thú và cung đốn quân phí.
Cùng lúc ấy, trong nước lại xảy ra mất mùa, hạn hán, nạn châu chấu, vỡ đê sông Hoàng Hà, đổi dòng chảy sông Hoàng Hà… khiến cho đời sống nhân dân ngày càng quẫn bách. Trong hoàn cảnh đó, khởi nghĩa bạo loạn chống triều đình đã nổ ra khắp nơi.
Trong các cánh quân khởi nghĩa, quân Lục Lâm là một trong các lực lượng lớn mạnh nhất và có địa bàn hoạt động gần với kinh thành Trường An của nhà Tân, trực tiếp uy hϊếp sự tồn tại của nhà Tân. Quân khởi nghĩa nổi dậy từ năm 17, sau nhiều thắng lợi, tới năm 23 đã phát triển lực lượng lớn mạnh. Tham gia vào quân khởi nghĩa có cả những tông thất nhà Hán như Lưu Huyền, Lưu Diễn, Lưu Tú, Lưu Tứ… Để có danh chính ngôn thuận chống nhà Tân, các thủ lĩnh quân Lục Lâm đã lập hoàng thân Lưu Huyền lên làm vua, đặt quốc hiệu là Hán, lấy niên hiệu là Canh Thủy.
Tháng 2 năm 23, quân Lục Lâm chia làm 2 đường, cánh quân chủ lực do Vương Khuông, Lưu Diễn chỉ huy đánh Uyển Thành; cánh thứ 2 nhỏ hơn do Vương Phượng, Vương Thường, Lưu Tú chỉ huy, mang 2 vạn quân đánh Côn Dương, Định Lăng và đất Yển.
Cuộc chiến ở Côn Dương, có liên quan đến mặt trận Uyển Thành xảy ra đồng thời giữa quân Tân và quân Lục Lâm.]
Nhân lúc loạn lạc, Chu gia liền tìm cách trốn khỏi kinh thành. Sau khi nếm trải biết bao đau
khổ, Chu gia không dám ngông nghênh huyênh hoang nữa mà căn dặn hậu thế phải sống khiêm tốn ẩn mình, chỉ làm một đoán mệnh sư bình thường là được, nếu không rơi vào cảnh vạn bất đắc dĩ tuyệt đối không được thi triển Mệnh Thuật, để lộ bản lĩnh thực sự ra bên ngoài.”
Nghe xong, Hạ Chính Quốc siết chặt tay thành nắm đấm, nghiến răng nghiến lợi tức giận nói: “Vậy là cái đám người họ Chu đó hạ thuật tôi đúng không?”
Văn Trạch Tài nhún vai: “Ừhm, nó đó!”
Nhắc tới đây thì không thể không giới thiệu, tổ tiên của Văn Trạch Tài chính là vị truyền nhân duy nhất của Văn gia Mệnh Thuật. Để tăng cường tính bảo mật, Văn gia thực hiện hạ Mệnh Thuật lên chính huyết thống của mình. Cũng bởi vì vậy mà mỗi thế hệ Văn gia chỉ sinh được một người con duy nhất, dù trai hay gái thì tuyệt nhiên cũng chỉ có một mà thôi. Cứ như vậy, trải qua hàng ngàn năm, Văn gia lặng lẽ ẩn mình vào dòng chảy lịch sử mặc cho người đời nghĩ rằng gia tộc họ đã hoàn toàn bị chôn vùi trong trận hạo kiếp năm xưa.
Hạ Chính Quốc mếu máo khóc không ra nước mắt: “Thế giờ phải làm sao? Tôi thật sự không nghĩ ra mình đã lỡ đắc tội với người nào họ Chu luôn ấy. Hơn nữa tôi chỉ là một anh nông dân tầm thường, cả ngày quanh quẩn với ruộng đồng, bao tâm tư đặt hết lên cây cỏ hoa màu. Đến hàng xóm xung quanh còn chẳng có thời gian tranh cãi nữa là đi sinh sự với người ngoài. Thật sự nghĩ không ra luôn ấy!”
Văn Trạch Tài không trả lời câu hỏi mà trực tiếp thả nốt đồng xu cuối cùng vào bát nước. Ngay sau đó, anh dùng kim châm tự đâm vào đầu ngón tay giữa của mình rồi nhỏ một giọt máu xuống theo.
Cơ hồ khi giọt máu ấy vừa chạm vào mặt nước, tức thì cả ba đồng xu đồng loạt rung lên. Càng lúc tần suất dao động càng nhanh cũng như biên độ dao động càng lớn, chúng va chạm với nhau phát ra thanh âm “leng keng…leng keng…” liên tục không ngừng.
Đứng một bên, Hạ Chính Quốc căng mắt theo dõi, tập trung đến độ quên cả việc hít thở.
Trong tích tắc, ba đồng tiền dựng thẳng đứng rồi chụm lại với nhau tạo thành hình nón, bao bọc lấy hai giọt máu. Lúc này, không gian đã bị thu hẹp đi rất nhiều, giọt máu của Hạ Chính Quốc điên cuồng né tránh giọt máu của Văn Trạch Tài, thế nhưng rất dễ để nhìn thấy lớp màng bên ngoài đang dần bị phá vỡ, máu đỏ bắt đầu tràn ra, từ từ loang dần trên mặt nước.
Kế đến, Văn Trạch Tài vừa rì rầm niệm chú vừa che kín miệng bát bằng chính bàn tay mới bị trích máu ban nãy.
Sự việc diễn ra tiếp theo đây mới thực sự rợn người. Đương lúc không gian đang vô cùng tĩnh mịch thì bỗng nhiên từ trong chén nước vang lên tiếng gào khóc xé lòng của trẻ sơ sinh và đan xen vào đó là những tràng cười khanh khách của một người phụ nữ. Cùng lúc này, chén nước bắt đầu rung lên bần bật, nếu không phải Văn Trạch Tài đang dùng sức chấn trụ thì nhất định những thứ quỷ dị bên trong chắc chắn sẽ được phóng thích ra ngoài.
Hạ Chính Quốc vô thức đứng bật dậy, theo bản năng lùi ra thật xa.
Không chỉ một mình anh ta, ngay cả Điền Tú Phương cũng đang sợ chết khϊếp. Vốn dĩ dỗ con gái ngủ xong, cô định quay trở về phòng mình, ai dè khi đi ngang phòng khách, đập vào mắt cô là hình ảnh chồng mình đang nhắm nghiền mắt, tay giữ chặt cái chén đang rung lắc dữ dội, miệng thì không ngừng lẩm nhẩm cái gì đó, thoáng nghe qua tưởng chừng như Kinh Phật nhưng chú tâm nghe kỹ thì lại không phải.
Ngay lúc Điền Tú Phương đang hoang mang không hiểu chuyện gì thì tới lượt cái bàn lắc lư dữ dội. Đột nhiên, Văn Trạch Tài mở bừng mắt, nhanh như cắt anh nâng tay rồi dứt khoát đập mạnh cái chén xuống nền nhà.
Vậy nhưng điều khiến cả Điền Tú Phương lẫn Hạ Chính Quốc khϊếp đảm tột độ chính là trên mặt đất không hề thấy bất cứ một giọt nước nào mà chỉ có ba đồng tiền nằm lẫn trong những mảnh chén vỡ.
Điền Tú Phương bất tri bất giác thốt lên một tiếng “ông xã” rồi cuống cuồng nhào lại gần, lo lắng nhìn vào bàn tay đang nắm chặt của chồng. Hình như anh ấy đang cầm cái gì đó thì phải?!
Không để vợ phải thắc mắc quá lâu, Văn Trạch Tài từ từ mở lòng bàn tay ra, kỳ lạ thay ở trong đó xuất hiện một giọt máu đỏ tươi.
Hạ Chính Quốc nuốt nước bọt đánh ực, khϊếp đảm nhìn Văn Trạch Tài dùng hai ngón tay dễ dàng nhấc giọt máu lên như thể đang nhấc một cái mật rắn, rồi anh ấy đưa cái thứ lủng lẳng, lòng thòng đó tới trước mặt anh và nói: “Nuốt đi!”
Một lời rất đơn giản nhưng đủ khiến Hạ Chính Quốc kinh hồn bạt vía. Nhưng đã tới nước này thì không thể hèn nhát được nữa, Hạ Chính Quốc run rẩy vươn tay. Tại thời điểm giọt máu đó chạm vào da thịt, anh cảm thấy toàn thân mình lạnh toát. Bởi vì quá đỗi tò mò nên Hạ Chính Quốc khẽ lắc tay xem thế nào. Quả nhiên giọt máu ấy không phải giọt máu bình thường mà nó đóng thành một khối tròn, lăn quay lăn lại trên tay anh.
Thấy Hạ Chính Quốc cứ đứng đó tẩn ngẩn tần ngần, Văn Trạch Tài sốt ruột thúc giục: “Mau ăn đi, nhanh lên!”
Hạ Chính Quốc hít vào một hơi thật sâu để tăng lòng can đảm rồi nhắm chặt mắt, ngửa đầu quả cảm nhét cái thứ gớm ghiếc này vào họng.
Không mùi, không vị, không nóng, không lạnh, cảm giác duy nhất Hạ Chính Quốc cảm nhận được là có một thứ gì đó trượt qua yếu hầu. Đang lúc anh định mở miệng nói chuyện thì bất thình lình bụng dưới quặn lên. Cơn đau bất ngờ ập đến khiến Hạ Chính Quốc chỉ biết ôm chặt lấy bụng không ngừng kêu la: “Aizz, đau quá….”
Văn Trạch Tài chỉ chỉ ra phía đằng sau kho chứa củi: “Nhà xí ở bên kia. Ít nhất cũng phải ba hiệp mới xong. Cho nên anh cứ ngồi yên trong đó, đừng hấp tấp chạy ra sớm không là “đựt cáp trum tùm lây” đấy!”
Hạ Chính Quốc chẳng kịp nói lời nào, vội vàng chạy về hướng Văn Trạch Tài vừa chỉ.
Đợi người đi rồi, Điền Tú Phương mới quay sang, bắt lấy tay chồng lật trái lật phải, cẩn thận kiểm tra từng li từng tí. Một lúc sau, cô mới thở phào nhẹ nhõm: “May quá, không bị thương.”
Văn Trạch Tài xoay tay bao bọc lấy bàn tay mảnh khảnh của vợ, nhẹ nhàng trấn an: “Em yên tâm, không phải thứ gì cũng có thể gây thương tổn đến anh đâu.”
Điền Tú Phương khẽ gật đầu rồi tính tiến tới dọn gọn mấy mảnh vỡ đang nằm chổng chơ trên nền đất. Thấy vậy, Văn Trạch Tài lập tức kéo vợ vào lòng: “Đừng chạm vào, cứ để đó cho anh!”
Dứt lời, anh bước nhanh về phòng cầm ra một miếng vải vụn rồi mang cả vải lẫn mấy mảnh vỡ ra sân, châm lửa đốt.
Ủa, bát sành làm sao cháy được? Điền Tú Phương nhíu nhíu mày đang tính ngăn cản chồng thì cảnh tượng trước mắt khiến cô lập tức im bặt. Lửa bừng cháy phừng phực rồi vụt tắt trong nháy mắt và tất cả còn lại chỉ là đống tro tàn. Chẳng lẽ sành cũng có thể cháy thành tro ư?
Trời ơi, cái quái quỷ gì thế này?! Điền Tú Phương sững sờ, đứng chết trân tại chỗ. Một lúc sau, cô mới từ từ ngẩng đầu nhìn về phía chồng với ánh mắt phức tạp khó che giấu.
Văn Trạch Tài hốt hết tro vào ống trúc, đậy nắp cẩn thận rồi mỉm cười khẽ nói: “Em đừng sợ, Văn Trạch Tài là anh, anh cũng chính là Văn Trạch Tài. Anh không phải cô hồn dã quỷ. Bởi vì đời này thiếu nợ mẹ con em cho nên trời cao mới cho anh một cơ hội quay về chuộc lỗi.”
Điền Tú Phương sửng sốt vô cùng. Cô đứng đó, ngây ngẩn nhìn thẳng vào mắt anh như thể muốn xác nhận những lời này là thật lòng hay giả dối.
Hai người cứ thế đứng đó mắt đối mắt nhìn nhau không chớp. Ước chừng mấy phút sau, Điền Tú Phương cuối cùng cũng trả lại cho chồng một cái gật đầu kiên định: “Em tin anh!”
Đối với sự thay đổi quá mức đột ngột của Văn Trạch Tài, Điền Tú Phương không chỉ ngỡ ngàng ngày một ngày hai. Nhưng dù cho anh có khác lạ đến thế nào đi chăng nữa thì trong cô vẫn luôn tồn tại một cảm giác thân thuộc khó nói thành lời.
Nhận được chữ “tin” đáng giá ngàn vàng từ vợ, đáy lòng Văn Trạch Tài trào dâng một niềm hạnh phúc vô bờ bến. Nhân lúc không có ai ở đấy, anh liền hoá yêu thương thành hành động, ngang nhiên cúi xuống phớt nhẹ nụ hôn lên môi bà xã.
Điền Tú Phương hốt hoảng tới độ trừng lớn mắt, nhất thời không biết phản ứng thế nào, cứ đứng đực ra như bị điểm huyệt.
Không phản đối là đồng ý nhé, Văn Trạch Tài được đằng chân lân đằng đầu. Anh quăng cái ống tre sang một góc rồi vươn tay ôm sát vợ vào lòng khiến cho nụ hôn càng thêm nồng nàn và cháy bỏng.
Chẳng biết lấy dũng khí từ đâu, Điền Tú Phương dần khép mi mắt, vươn hai tay choàng lên cổ chồng rồi bắt đầu phối hợp cùng anh.
Môi tìm môi triền miên không dứt…ước gì thời gian mãi mãi dừng lại ở giây phút ngọt ngào say đắm này thì tuyệt vời biết bao!
Song cũng không thể đứng ở đây mãi được, dù rất lưu luyến nhưng Văn Trạch Tài cũng đành phải dừng lại. Điền Tú Phương bẽn lẽn nâng cằm đối diện với chồng. Lúc này, hai má cô đã phiếm hồng còn cặp mắt thì lúng liếng lấp lánh ánh nước, cô khẽ đánh vào ngực anh, nũng nịu mắng: “Anh to gan lớn mật quá đấy, trong nhà đang có khách mà!”
Văn Trạch Tài vẫn giữ nguyên tư thế ôm chặt lấy vợ, anh đặt cằm lên hõm vai cô đợi ổn định nhịp thở rồi mới khẽ cười: “Tối om om thế này thì nhìn thấy cái gì. Mà nhìn thấy thì cũng đã sao, chúng ta là vợ chồng hợp pháp. Anh hôn em quang minh chính đại mà lại!”
Trời ơi cái ông tướng này, đã không biết xấu hổ lại còn nói năng bá đạo nữa chứ, thật là chịu hết nổi! Điền Tú Phương ngượng ngùng đẩy đẩy ngực chồng: “Thôi, buông ra để em về phòng!”
Văn Trạch Tài đứng thẳng người dậy, thuận thế hôn chụt thêm một cái nữa rồi ngọt ngào thì thầm: “Đợi anh vào rồi cùng ngủ nha!”
Lại nữa rồi, Điền Tú Phương đỏ bừng mặt, vội vàng đẩy chồng ra, luống cuống chạy biến vào phòng!
Nhìn theo bóng lưng chạy trối chết kia, Văn Trạch Tài khẽ bật cười. Sau đó, anh khom lưng nhặt ống trúc lên rồi thong thả tiến vào nhà chính.
Còn về phần Hạ Chính Quốc, sau khi bắn liên hoàn 6 hiệp không dừng thì cuối cùng cũng xong.
Anh mệt lả, đỡ tường lết ra khỏi nhà xí. Hai cặp giò gần như tê dại vì ngồi xổm quá lâu.
Khó khăn lắm mới lết được tới phòng khách, Hạ Chính Quốc ngồi phịch xuống ghế, thở hổn hển.
Văn Trạch Tài rót cho Hạ Chính Quốc một chén nước sạch, để anh ấy ngồi im nghỉ ngơi còn mình thì đi xuống bếp, châm một ngọn đuốc đem vào nhà xí.
Nương theo ánh lửa, Văn Trạch Tài có thể nhìn rõ ràng một vũng nước đen ngòm bên dưới hầm cầu. Quả nhiên đúng như những gì anh dự đoán!
Kế đến, Văn Trạch Tài nhổ một sợ tóc trên đầu vất xuống hầm cầu rồi quăng cả ngọn đuốc xuống theo.
Gặp nước nhưng lửa không tắt mà ngược lại càng bùng cháy dữ dội hơn. Dường như lửa liếʍ tới chỗ nào là dòng nước đen sẽ điên cuồng cuộn cao lên, cố gắng nhấn chìm ngọn lửa bằng mọi cách. Hai bên giằng co vô cùng dữ dội, nhưng rất tiếc bóng tối sẽ không bao giờ đẩy lùi được ánh sáng. Ước chừng năm phút sau, bãi nước đen ngòm bị dồn vào một góc rồi vụt biến mất hoàn toàn, như thể nó chưa từng xuất hiện ở nơi đây.
Văn Trạch Tài xúc hai xẻng lớn phân tro rải xuống. Sau đó anh ra giếng múc nước rửa sạch tay chân rồi mới quay về nhà chính.
Ngồi nghỉ một lúc, tuy đã khôi phục được chút ít tinh thần nhưng trông Hạ Chính Quốc vẫn chật vật vô cùng. Thấy Văn Trạch Tài quay lại, anh liền thều thào hỏi: “Cái nước đen đen kia là gì thế?”
“Những thứ dơ bẩn tích tụ trong người anh mấy năm nay.” Vừa nói, Văn Trạch Tài vừa cẩn thận quan sát đuôi mắt Hạ Chính Quốc. Rất tốt, hai chấm đỏ đã không cánh mà bay. Tiếp theo, anh bảo Hạ Chính Quốc xoay đầu lại. Ồ, cái gân xanh ở sau hõm tai cũng lặn mất luôn rồi.
“Xong, thuật đã được giải!” Văn Trạch Tài khẽ cười rồi dặn dò thêm: “Ngày mai tuyệt đối không được ăn gì, chỉ uống nước thôi. Bắt đầu từ ngày mốt quay trở lại ăn uống như bình thường.”
Hạ Chính Quốc liên tục gật đầu tỏ ý đã nhớ rõ. Vì chính mắt chứng kiến tường tận mọi việc nên giờ đây Hạ Chính Quốc tin tưởng và kính trọng Văn Trạch Tài tuyệt đối. Anh khép nép nói: “Văn đại sư, có phải bởi vì tôi bị trúng cái thuật này cho nên con tôi mới chết non đúng không?”
Văn Trạch Tài gật đầu xác nhận: “Anh đã trúng phải Mệnh Thuật chặt đứt con nối dõi có tên gọi Thuật tử anh. Thuật này bắt buộc phải hạ trên cha ruột bởi anh chính là người tiếp xúc gần với cơ thể người mẹ nhất. Đêm khuya, khi hai người ngủ say, những thứ dơ bẩn trong cơ thể anh sẽ di chuyển sang vợ anh, làm suy yếu bào thai trong bụng cô ấy. Vậy nên kể cả đứa bé có được sinh ra thì cũng không thể nuôi sống nổi.”
Thuật tử anh là độc thuật, hại người ta đoạn tử tuyệt tôn, không có con nối dõi tông đường.
Nghe Văn Trạch Tài giải thích, nỗi sợ hãi trong lòng Hạ Chính Quốc tức thì chuyển hoá thành cơn giận dữ ngút ngàn. Một hồi sau anh mới có thể lấy lại bình tĩnh để hỏi đến chuyện quan trọng nhất: “Văn đại sự, thế còn cái thai lần này liệu có thể giữ được không?”
Văn Trạch Tài lắc đầu: “Chuyện này tôi cũng không chắc, phải gặp trực tiếp vợ anh xem tình huống cụ thể thế nào đã.”