Ngày 1 - 7:05 sáng
“Tôi cần xem thi thể của hắn.”
Nash liếc nhìn đám đông bằng ánh mắt đầy lo lắng. “Anh có chắc là muốn xem ngay tại đây không? Có rất nhiều cặp mắt đang hướng vào anh ngay lúc này.”
“Dựng lều lên đi!”
Nash ra hiệu với một trong số các cảnh sát.
Mười lăm phút sau, mặc cho lượng xe cộ đang đi tới khó chịu đến mức nào, một chiếc lều 12x12 vẫn được dựng lên trên đường 55, án ngữ mất một trong hai con đường hướng về phía đông. Nash và Porter lách qua cửa căn lều, bám sát ngay sau là Eisley và Watson. Một cảnh vệ mặc đồng phục đứng canh bên ngoài cửa phòng trường hợp có ai vượt qua các rào chắn của phạm vi hiện trường và tìm cách lẻn vào trong.
Sáu chiếc đèn halogen 1200W được dựng đứng trên những giá đỡ ba chân bằng kim loại màu vàng xếp thành hình bán nguyệt vòng quanh cái xác, chiếu rọi cả không gian nhỏ hẹp bằng ánh sáng rực rỡ, chói lóa.
Eisley cúi xuống và kéo mở phần nắp trên của chiếc túi.
Porter khuỵu gối xuống. “Đã di chuyển cái xác chút nào chưa?”
Eisley lắc đầu. “Chúng tôi chỉ mới chụp ảnh, rồi bọc cái xác lại nhanh nhất có thể. Hắn đáp đất như vậy đấy.”
Hắn úp sấp mặt trên nền bê tông. Có một vũng máu nhỏ ở gần phía đầu và một vệt máu kéo dài tới góc căn lều. Mái tóc màu đen của hắn được cắt ngắn, lấm tấm vài sợi bạc.
Porter đeo vào tay một đôi găng tay cao su khác lấy từ cái hộp phía bên trái rồi nhẹ nhàng nhấc đầu của người đàn ông lên. Nó tách ra khỏi lớp nhựa đường nguội lạnh với tiếng sột soạt chẳng khác nào khi ta bóc kẹo dẻo trái cây cán mỏng* ra khỏi lớp ni lông. Bụng Porter sôi lên, và anh nhận ra là mình vẫn chưa ăn sáng. Có lẽ đó là một điều may mắn. “Các anh giúp tôi lật hắn lại được chứ?”
Eisley nắm lấy vai của người đàn ông, còn Nash thì đứng ở tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
“Đếm đến ba nhé. Một, hai…”
Vẫn còn quá sớm nên cái xác chưa kịp cứng lại, nó vẫn còn khá lỏng lẻo. Nhìn qua trông có vẻ chân bên phải đã bị gãy ít nhất là ở ba chỗ, cánh tay trái cũng vậy, có khi là còn nhiều hơn.
“Ôi Chúa ơi! Kinh quá!” Hai mắt của Nash nhìn chằm chằm vào khuôn mặt người đàn ông. Nói chính xác hơn là vào nơi mà đáng lẽ là chỗ của khuôn mặt. Hai gò má đã tan nát, chỉ còn sót lại những dấu vết sờn nát. Xương hàm lòi ra nhìn thấy rõ nhưng đã gãy vỡ - miệng hắn há hốc như thể có ai đó nắm lấy cả hai nửa xương hàm và kéo mở nó ra như mở một cái bẫy gấu. Một con
mắt vỡ nát, một chất dịch trong suốt đang tuôn chảy. Một con mắt khác thì đang trợn trừng nhìn họ một cách vô hồn, dưới ánh đèn sáng, nó có màu xanh lá cây.
Porter tiến lại gần hơn. “Anh nghĩ sẽ tái dựng lại được nó chứ?”
Eisley gật đầu. “Tôi sẽ cho người làm ngay khi đưa được cái xác về phòng thí nghiệm.”
“Cũng khó để kết luận, nhưng dựa trên thể trạng và mái tóc đã điểm bạc, tôi đoán hắn cuối bốn mươi, và nhiều nhất là đầu năm mươi.”
“Tôi cũng sẽ cho anh biết số tuổi chính xác hơn.” Eisley nói. Anh ta đang dùng chiếc đèn giống bút máy kiểm tra hai mắt của người đàn ông. “Giác mạc vẫn còn nguyên vẹn.”
Porter biết họ có thể ước lượng tuổi qua phương pháp định tuổi bằng carbon các vật chất bên trong mắt, đó được gọi là phương pháp Lynnerup. Quá trình này giúp thu hẹp độ sai số tuổi xuống còn một hoặc hai năm.
Người đàn ông mặc trên người bộ com lê kẻ sọc màu xanh hải quân. Tay áo bên trái đã bị rách tả tơi, một cái xương gãy lòi ra ở gần khuỷu tay.
“Có ai tìm thấy giày của hắn chưa?” Chiếc giày bên phải bị mất. Chiếc tất tối màu thấm đẫm máu.
“Một cảnh sát đã nhặt được nó. Đang để trên bàn phía bên kia.” Nash chỉ tay về chiếc bàn ở phía xa bên phải. “Hắn còn đội cả mũ phớt mềm nữa.”
“Mũ phớt mềm? Mấy thứ đó đang được yêu thích trở lại à?”
“Chỉ có trên phim thôi.”
“Có gì đó trong túi áo kìa.” Watson chỉ tay vào túi áo ngực bên phải của áo khoác. “Nó hình vuông. Một chiếc hộp nữa sao?”
“Không đủ dày.” Porter cẩn thận tháo khuy chiếc áo khoác rồi luồn tay vào trong, lấy ra một cuốn sổ tay nhỏ, giống như những cuốn sổ mà các học sinh vẫn mang theo trước khi họ có máy tính bảng và điện thoại thông minh: Khổ 11cm x 9cm với phần bìa bọc trắng đen và những trang giấy có dòng kẻ. Nó đã được viết kín gần hết, mỗi trang được phủ kín bằng những dòng chữ viết tay nhỏ và sát nhau tới mức mỗi hai dòng trong quyển sổ này chỉ chiếm diện tích bằng bình thường người ta viết một dòng. “Đây có thể là một thứ gì đó. Trông giống như kiểu nhật ký. Quan sát tốt đấy, bác sĩ.”
“Tôi không phải…”
Porter xua xua tay với anh chàng. “Biết rồi, biết rồi.” Rồi anh quay lại phía Nash. “Tôi tưởng anh nói đã kiểm tra hết các túi trên người hắn rồi?”
“Chúng tôi mới kiểm tra túi quần để tìm ví thôi. Tôi muốn đợi anh để khám nghiệm cái xác mà.”
“Vậy chắc chúng ta sẽ phải kiểm tra lại những túi khác nữa.”
Nói rồi anh bắt đầu với túi quần trước bên phải, kiểm tra lại phòng trường hợp bỏ qua thứ gì đó, rồi tiếp tục với hết cả thi thể. Khi tìm ra vật gì, anh lại nhẹ nhàng đặt xuống bên cạnh. Nash đính thẻ đánh dấu còn Watson chụp ảnh.
“Hết rồi. Không tìm được quá nhiều.”
Porter kiểm tra lại các món tìm được:
Hóa đơn giặt khô
Đồng hồ quả quýt
Bảy mươi lăm cent với đủ loại tiền lẻ
Tờ hóa đơn cũng chỉ chung chung. Ngoài con số 54873, nó chẳng còn bất cứ một thông tin nào có thể truy xuất được nữa, thậm chí tên hay địa chỉ của tiệm giặt cũng không có.
“Quét tìm dấu vân tay trên tất cả những thứ này đi.” Porter hướng dẫn.
Nash cau mày. “Để làm gì? Chúng ta có hắn ở đây rồi, và dấu vân tay của hắn cho kết quả âm.”
“Có lẽ là tôi đang cầu mình gặp may. Có thể chúng ta sẽ tìm được một dấu tay khớp và nó sẽ dẫn chúng ta tới chỗ một ai đó có thể nhận diện được hắn. Anh nghĩ gì về cái đồng hồ kia?”
Nash cầm cái dụng cụ đếm giờ lên trước ngọn đèn. “Tôi chẳng quen ai còn dùng đồng hồ quả quýt bây giờ nữa. Đang nghĩ có lẽ gã này lớn tuổi hơn anh tưởng.”
“Chiếc mũ phớt cũng giúp ta đoán vậy.”
“Trừ phi chỉ là hắn thích phong cách cổ điển.” Watson lên tiếng. “Tôi biết nhiều người như vậy.”
Nash bấm nút chốt, mặt đồng hồ bật mở. “Hả!”
“Sao thế?”
“Nó dừng lại vào lúc ba giờ mười bốn phút. Đó không phải là lúc gã này bị xe đâm.”
“Có thể tác động của cú đâm làm nó bị lệch?” Porter nói luôn suy nghĩ ra miệng.
“Nhưng chẳng có vết xước nào hết, không có dấu hiệu hư hại gì cả.”
“Có thể là thứ gì đó ở bên trong, hoặc có thể nó không hề bị hỏng. Tôi xem được chứ?”
Nash đưa chiếc đồng hồ sang cho Porter.
Porter vặn nút chốt. “Nó lỏng quá. Lò xo không hoạt động. Nhưng mà tay nghề thợ làm khéo đấy. Tôi nghĩ nó được làm thủ công. Chắc chắn là để sưu tập.”
“Tôi có một người chú.” Watson lên tiếng.
“Ồ, chúc mừng cậu nhóc.” Porter đáp.
“Chú ấy có một cửa hàng đồ cổ ở trung tâm thành phố. Tôi cá chú ấy có thể cho chúng ta biết vài điều về thứ này.”
“Cậu đang cố giành sao vàng* trong ngày hôm nay đấy à? Được rồi, cậu sẽ nhận nhiệm vụ với chiếc đồng hồ này. Ngay khi những thứ này được kiểm kê xong, hãy mang nó tới chỗ chú cậu và thử xem chúng ta sẽ tìm được gì.”
Watson gật đầu, khuôn mặt sáng bừng.
“Có ai nhận thấy có điều gì bất thường trong cách ăn mặc của gã này không?”
Nash khám nghiệm cái xác một lần nữa rồi lắc đầu.
“Đôi giày đẹp đấy.” Eisley nói.
Porter mỉm cười. “Đúng thế, nhỉ? Của hãng John Lobbs đấy. Chúng vào khoảng một ngàn năm trăm đô một đôi. Nhưng bộ com lê thì lại rẻ tiền, khả năng là mua ở một tiệm bán lẻ hoặc trong trung tâm thương mại. Có lẽ không tới vài trăm đô.”
“Rồi sao, anh đang nghĩ gì?” Nash hỏi. “Hắn làm việc trong ngành giày dép sao?”
“Không chắc nữa. Tôi không muốn kết luận ngay. Chỉ là thấy lạ khi một người đàn ông bỏ quá nhiều tiền vào đôi giày mà lại không bỏ một khoản tương ứng để mua com lê thôi.”
“Trừ khi hắn làm nghề buôn bán giày và được mua với giá ưu đãi nào đó? Như thế nghe cũng có lí.” Watson nói.
“Rất vui vì cậu tán đồng với tôi. Nhưng những nhận xét ngớ ngẩn sẽ khiến sao vàng bị thu lại đấy.”
“Xin lỗi ạ.”
“Đừng lo, bác sĩ ạ. Chọc ngoáy nhau tí thôi. Bình thường tôi sẽ chọc Nash, nhưng anh ấy quá quen mấy trò bẩn của tôi rồi. Nên chẳng còn vui nữa.” Porter chuyển sự chú ý của mình sang cuốn sổ ghi chép. “Cậu đưa tôi cuốn sổ đó được chứ?”
Watson chuyển nó sang cho anh, rồi anh lật sang trang đầu tiên. Hai mắt của Porter nheo lại khi anh cố gắng lướt nhìn theo con chữ.
Xin chào bạn của tôi.
Tôi là một tên kẻ cắp, một tên gϊếŧ người, một kẻ bắt cóc. Tôi đã gϊếŧ người để tìm kiếm niềm vui. Tôi gϊếŧ người vì tôi buộc phải thế. Tôi gϊếŧ người vì ngứa mắt. Tôi gϊếŧ người đơn giản chỉ để thỏa mãn những nhu cầu có khả năng xuất hiện trong tôi theo thời gian. Một thứ nhu cầu tương tự như cơn đói, chỉ có thể dập tắt bằng những dòng máu hoặc những bài ca được tìm thấy trong tiếng gào thét của kẻ bị tra tấn.
Tôi kể điều này với bạn không phải để dọa nạt hay để gây ấn tượng với bạn, mà chỉ đơn giản là nói lên sự thật, một cách cởi mở và chân thành.
IQ của tôi là 156, một mức thiên tài theo những gì người ta thống kê được.
Một nhà thông thái từng nói: “Tự đo IQ của mình, cố gắng định lượng trí thông minh của chính mình, đó là dấu hiệu của sự ngu dốt.” Tôi không hề yêu cầu kiểm tra IQ, người ta tự đến làm - hẳn đó là việc mà bạn sẽ làm.
Nhưng chẳng bài kiểm tra nào có thể định nghĩa được tôi là ai, nó chỉ có thể cho biết tôi là cái gì. Đó là lí do tôi quyết định phải viết lại, để chia sẻ với bạn những gì mà tôi sắp sửa chia sẻ. Kiến thức mà không được chia sẻ, sẽ chẳng thể có sự phát triển. Bạn (với tư cách là xã hội) sẽ chẳng học được gì từ rất nhiều lỗi sai của mình. Và còn rất nhiều điều mà bạn phải học hỏi.
Tôi là ai?
Nói hẳn ra tên của tôi sẽ chỉ khiến cuộc chơi mất đi sự vui vẻ, bạn không nghĩ thế sao?
Nhiều khả năng bạn đã biết đến tôi với cái tên Four Monkey Killer. Vậy tại sao chúng ta không dừng ở đó thôi nhỉ? Hoặc có lẽ là 4MK cho những ai thích gọi tắt? Đơn giản hơn cả. Ai cũng gọi được.
Và chúng ta sẽ có rất nhiều chuyện vui vẻ cùng nhau, bạn và tôi.
“Mẹ kiếp!” Porter lẩm bẩm.
Nguyên văn là “Fruit Roll-Ups”, một nhãn hiệu kẹo dẻo làm từ trái cây được cán thành lớp
mỏng rồi sấy cho khô.
Biểu tượng cho sự khen thưởng.