Họa Tiên

Chương 17: 17: Hoàng Hôn Ở Khúc Giang Ba

Sau khi tìm Vương phi cho con trai chưa tới một tháng, Thiên Tử chuẩn bị sắc phong Dương Ngọc Hoàn làm Hoàng hậu.

Trước lúc này, có đại thần cố chấp can gián dập đầu, bể đầu chảy máu, lấy chuyện Tấn Văn công cưỡng lại sắc đẹp của Nam Uy làm ví dụ can gián, dùng lời nói của hiền quân cổ đại "Hậu thế ắt có kẻ mất nước vì sắc đẹp" (1), còn nói Hạ vong vì Muội Hỉ, Ân vong vì Đát Kỷ, Chu vong vì Bao Tự (2), để Thiên Tử không nên làm chuyện ngược với tam cương ngũ thường.

Dương Quốc Trung (3) tức giận tới mức râu cũng sắp xanh biếc, hận không thể móc ra Gia Cát liên nỏ (4) nã tung đầu người này, nói ngươi là Điền Thường (5) khoác áo Tỷ Can (6), chụp chậu phân bất trung bất hiếu lên đầu Thiên Tử, Thiên Tử cũng đã tạo ra Khai Nguyên thịnh thế, muốn lấy một nương tử thì có lỗi gì, ngươi có bản lĩnh thì mở ra một thế hệ Nguyên thịnh đi.

Bùi Hi Lam tương đối sùng bái quan điểm chính trị của Lỗ Cộng công (1), nếu như ông ấy có thể sống lại chắc sẽ thêm một câu "Nghi Địch làm rượu kia khiến ta phải dừng vui chơi" rồi mới yên tâm mà đi, nàng lại càng thích Lỗ Cộng công hơn.

(1).Trích từ ‘Lỗ Cộng công lựa lời’ trong ‘Sách Chiến quốc - Ngụy sách quyển nhị’: Dẫn ra ví dụ về bốn bậc quân vương tránh những cám dỗ dẫn tới mất nước: rượu ngon, người đẹp, đồ ngon, cảnh đẹp.

Lỗ Cung công hay Lỗ Cộng công (chữ Hán: 魯共公, trị vì 382 TCN-353 TCN[1]), tên thật là Cơ Phấn (姬奮), là vị vua thứ 31 của nước Lỗ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Theo sử ký, có lần Lỗ Cung công đến dự tiệc rượu với Sở Tuyên vương nhưng vua Sở không vừa ý, bèn liên minh với nước Tề đánh Lỗ.

Lương vương Ngụy Anh (tức Ngụy Huệ vương) hội chư hầu ở Phạm Đài, Lỗ Cung công cũng đến dự.

Lúc ngà say, Lương vương mời Lỗ công cạn chén.

Lỗ công bước khỏi chiếu, từ tốn nói rằng:

Ngày xưa, con gái vua Vũ sai Nghi Địch nấu rượu dâng lên vua, vua uống thấy quá ngon; liền tránh xa Nghi Địch, bỏ rượu ngon và nói: "Hậu thế ắt có kẻ mất nước vì rượu ngon!" Tề Hoàn công nửa đêm thấy đói, Dịch Nha trổ tài nấu nướng, nêm nếm ngũ vị dâng lên vua, vua ăn uống no nê, ngủ không biết sáng, sau đó nói rằng: ‘Hậu thế ắt có kẻ mất nước vì miếng ăn ngon! Tấn Văn công có được người đẹp Nam Chi Uy, ba ngày không thiết triều, thế là rời xa Nam Chi Uy và nói: “Hậu thế ắt có kẻ mất nước vì sắc đẹp!" Sở Vương lên Cường Đài ngắm nhìn Băng Sơn, bên trái là sông, bên phải là hồ, say mê cảnh đẹp, vui đắm mê hồn, bèn phát lời thề không bao giờ lên đó nữa và nói: "Hậu thế ắt có kẻ mất nước vì đài cao hồ rộng!" Nay chén rượu trong tay Chủ quân chính là rượu ngon của Nghi Địch; thức ăn của Chủ quân chính là vị ngon của Dịch Nha; Bạch Đài bên trái, Lư Tu bên phải chính là sắc đẹp của Nam Chi Uy; Giáp Lâm phía trước, Lan Đài phía sau chính là niềm vui thú ở Cường Đài.

Chỉ một trong bốn điều này đã đủ mất nước.

Nay chủ quân mắc đủ cả bốn, chẳng đáng để răn ngừa sao?

(2).Trích từ sách Ngô Việt Xuân Thu dẫn lời Ngô Tử Tư khuyên can Ngô vương Phù Sai không nạp Tây Thi làm thϊếp, nói: "Hạ vong vì Muội Hỉ, Ân vong vì Đát Kỷ, Chu vong vì Bao Tự.

Mỹ nữ, là cái họa vong quốc, tuyệt không thể nhận", thường dùng để chỉ hồng nhan họa thủy - những người phụ nữ đẹp thường phá hoại sự nghiệp của các quân vương trong văn hóa Trung Hoa.

(3).

Dương Quốc Trung (? -756) là quan viên với chức vụ Tướng quốc dưới thời Lý Long Cơ, là anh họ của Dương Quý phi.

(4) Gia Cát liên nỏ: Là nỏ liên hoàn hay còn được gọi là nỏ Gia Cát, đây là một phát minh nổi tiếng của Gia Cát Lượng (181-234), nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất của Trung Quốc thời Tam Quốc (220-280).

Phát minh đặc biệt này của Gia Cát Lượng được sáng chế khi ông chuẩn bị phạt Ngụy.

Đúng như tên gọi, nỏ liên hoàn có thể bắn được số lượng đáng kể mũi tên trước khi cần phải nạp lại.Tốc độ chiến đấu và khả năng sát thương lớn khiến nỏ liên hoàn được ví như "súng máy" của binh lính Trung Quốc thời cổ đại.



(5)Điền Thường, hay Điền Hằng, Điền Thanh Từ, là vị tông chủ thứ 8 của họ Điền, thế gia của nước Tề thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là tổ tiên của các vị vua Điền Tề sau này.

(6) Tỷ Can (tiếng Trung: 比干: ? - ?), họ Tử, thị Tỷ, là một nhà chính trị thời nhà Thương, được hậu thế tôn làm Thần Tài.

Tỷ Can người Mạt Ấp, là hậu duệ Đế Khốc, con trai Thái Đinh và do đó là chú ruột của Đế Tân, được phong ở đất Tỷ (Tỷ Ấp).

Tỷ Can từ nhỏ thông tuệ, chăm chỉ, giữ chức Thiếu sư (Tể tướng) nhà Thương.

Theo truyền thuyết và câu chuyện xoay quanh Tỷ Can, ông được biết đến như một trung thần, luôn can gián nên khiến Đế Tân mất lòng.

Đặc biệt, Tỷ Can cực kỳ có mâu thuẫn với vợ yêu của Đế Tân là Đát Kỷ.

Một lần, Tỷ Can không thể chịu được hành vi của Đát Kỷ, khẳng khái nói trước mặt Đế Tân: Không nghe theo điển phạm của đời trước, lại chỉ chăm chăm nghe theo ý kiến của một mụ đàn bà, ngày rước họa không còn xa nữa! Đế Tân tức giận gϊếŧ chết Tỷ Can rất tàn khốc bằng cách cho người mổ tim ông.

Lý Long Cơ chỉ bãi quan của đại thần này, ra lệnh cho cả triều văn võ không được nhắc lại nữa.

Nhưng chính ông ta suy nghĩ, quả thật, gϊếŧ người cướp con dâu cũng không có gì, sau đó nếu muốn phong hậu cho Dương Ngọc Hoàn, lại giống như chiếu cáo thiên hạ: Trẫm, Thánh Văn Thần Võ Hoàng đế Lý Long Cơ của Đại Đường Khai Nguyên, đoạt vợ của con trai, những kẻ đánh rắm trên dưới cả nước đánh rắm mau tới vây xem sự kiện lσạи ɭυâи rầm rộ nhất này… Nghe qua, rất có thể có chút ‘Mẹ nó, ngu ngốc’.

Thế nên ông ta quyết định sắc phong Dương Ngọc Hoàn làm Quý phi.

Mặc dù như vậy, sau khi phế Vương Hoàng hậu, hậu cung không có tân hậu, người đương thời giờ đều gọi Dương Quý phi là ‘nương tử’, như vậy Dương Ngọc Hoàn chẳng khác gì Hoàng hậu.

Sau đó Lý Long Cơ tự mình viết khúc ‘Nghê thường vũ y khúc’ vì Dương Ngọc Hoàn, lệnh cho đồ đệ Lê Viên diễn tấu khúc này.

Dương Ngọc Hoàn vừa tấu một khúc gió thổi, vạt áo nhẹ bay bay*, ông ta vì Dương Ngọc Hoàn cài kim thoa*, tự giác chìm đắm trong gió xuân.

*Gió thổi, vạt áo nhẹ bay bay: Trích từ Trường hận ca - một bài thơ nổi tiếng của Bạch Cư Dị kể về mối tình giữa Đường Huyền Tông và Dương Quý phi (tức Lý Long Cơ và Dương Ngọc Hoàn)

*Kim thoa: Một loại cây quý thuộc chi Thạch hộc họ Lan, được liệt vào thượng phẩm trong cuốn ‘Thần nông thảo mộc kinh.” của Trung Quốc.

Ngọc Hoàn tỷ tỷ là Quý phi, đương nhiên Bùi Hi Lam cũng phải cởi bỏ mũ sa của người hầu đi cùng.

Dương Ngọc Hoàn không nỡ xa nàng, gọi nàng vào trong cung một lần sau cùng ân cần hỏi han, lưu luyến chia tay, tình cờ gặp phải Thiên Tử.

Thấy ái phi rối rắm như vậy, Lý Long Cơ không thể làm gì khác ngoài việc ném ra đòn sát thủ: “Hi Lam, đừng cứ để Ngọc Hoàn tỷ của ngươi lo lắng nữa, mau mau gả đi.

Sau đại hôn của ngươi với Quách Tử Nghi, trẫm sẽ thăng quan cho hắn, sẽ không để ngươi phải chịu thiệt.”

Bùi Hi Lam nói lý: “Bệ hạ tuyệt đối không thể suy nghĩ như vậy, ăn lộc vua phải trung với quân, sao Hi Lam có thể quan tâm đến chuyện lên xe xuống ngựa, hư danh bạc lợi của phu quân chứ? Giàu sang với thần như gió thu thoảng qua tai! Bên ngoài Hi Lam chỉ lo cho đất nước, tính toán cho dân sinh, bên trong chỉ nguyện noi theo Thái nhâm Triệu Cơ (1), thấy gió Tây thì muốn cá sạo thái lát (2)… Nếu như bệ hạ cho Quách Tử Nghi thăng quan, nhiều nhất có thể thăng bao nhiêu?”

(1) Thái nhâm Triệu Cơ là một nhân vật cuối thời Chiến Quốc.

Bà là Vương hậu duy nhất của Tần Trang Tương vương, vua thứ 35 của nước Tần và là mẹ đẻ của Tần Thủy Hoàng

(2) Cá sạo thái lát là một mỹ vị rất ngon, tương truyền Trương Hàn làm quan ở Lạc Dương, đến khi gió mùa Thu phía Tây thổi đến thì mong nhớ hương vị tuyệt mĩ của canh rau nhút và cá sạo thái lát ở quê nhà nên ông từ quan về quê.

Sau này câu này dùng để chỉ những vị quan mong nhớ quê nhà nên từ quan ở ẩn.

Lý Long Cơ: “… Phó đô hộ phán quyết Thiền Vu*, thế nào?”

*Thiền Vu: Cách để gọi vua Hung Nô.

“Thật tốt, Hi Lam có thể ở bên Ngọc Hoàn tỷ tỷ thêm hai năm rồi.”

Lý Long Cơ cười vừa lòng, gân xanh trên trán nhảy lên: “Thêm một chức Hữu Tướng quân của Kim Ngô Vệ.”

Bùi Hi Lam nói: “Tạ bệ hạ! Bệ hạ thánh minh, bệ hạ hào phóng!”

Tuân Tức* từng nói với Tấn hiến công, Bùi Hi Lam cảm thấy có thể coi là kinh điển: "Chơi đùa ngay trước mắt, về sau gây họa cả quốc gia, lúc này phải biết nhìn lên mới có thể nghĩ sâu rộng được." Lúc trước Hình Dật Sơ nói với nàng một vài lời, có lẽ là biểu đạt ý này.

Khó chịu thì khó chịu nhưng khi bình tĩnh nghĩ đi nghĩ lại, nàng cảm thấy câu Hình Dật Sơ nói thật sự có lý, không cần phải đối nghịch với hắn.

Quả thật nàng rất thích Hình Dật Sơ, nhưng với nàng, hắn là chơi đùa ngay trước mắt.

Vì một người lúc ẩn lúc hiện như khói lại không thương mình mà làm chậm trễ đại sự cả đời, đến khi già đi bạc đầu đìu hiu, đây chính là tai họa về sau.

Nàng không thể chỉ biết đến sự thoải mái trước mắt, nàng phải lựa chọn con đường cách mạng chính xác nhất.

Tình cảm có thể bồi đắp, nàng gả cho Quách Tử Nghi.

*Tuân Tức (chữ Hán: 荀息; ?-651 TCN) là tướng quốc nước Tấn thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.

Ông có công giúp Tấn Hiến công diệt hai nước Ngu và Quắc, mở rộng lãnh thổ nước Tấn.

Ông là đại thần tận trung với sự ủy thác vua kế nghiệp của Hiến công.

Mặc dù Thiên Tử đã ngự ban hôn phối, nhưng Quách gia tương đối coi trọng con dâu này, nhờ bà mai mang một con chim nhạn mập mạp đến cửa đặt lễ nhạn, vấn danh lấy canh thϊếp, nạp cát đưa điềm lành (1), vân vân, không thiếu một bước nào, sính lễ còn là tám con tuấn mã.

Chuyện Bùi Hi Lam và Quách Tử Nghi sắp thành thân nhanh chóng truyền đi như nước sôi tới người người thân bạn bè và triều đình.

Bùi Hi Lam ở nhà đợi gả, không tới Quốc Tử Giám nữa, nhưng thi thoảng có đám bạn tới thăm, nói Quốc Tử Giám có mấy lang quân mượn rượu giải sầu, công tử dâu muốn cắt cổ nuốt Hạc đỉnh hồng (2), những bạn học khác cũng đều hâm mộ ghen tị với hai người bọn họ, mong hai người bọn họ sớm sinh quý tử.

Bùi Hi Lam nghe xong thì suýt chút nữa phát cáu.

(1)Nghi lễ truyền thống trong hôn nhân của Hán tộc, chỉ sáu loại lễ tiết trong quá trình từ bàn cưới cho tới thành hôn gồm: Nạp thải, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ, thân nghênh.

Nạp thải: Nhà trai nhờ bà mai sang nhà gái cầu hôn, sau khi nhà gái bằng lòng bàn cưới, nhà trai chuẩn bị lễ sắp tới cầu hôn.

Vấn danh: Nhà trai nhờ bà mai hỏi tên và ngày tháng năm sinh của nhà gái.

Nạp cát: Nhà trai đem tên của nhà gái lấy bát tự xong, tiến hành xem bói ở tổ miếu (miếu nơi vua chúa thờ tổ tiên.).

Nạp chinh: Còn gọi là nạp tệ, tức nhà trai lấy sính lễ đưa cho nhà gái.

Thỉnh kỳ: nhà trai chọn ngày thành thân, chuẩn bị lễ báo cho nhà gái biết, lấy sự đồng ý.

Hôn nghênh: Trước khi cưới một hai ngày, nhà gái đi đưa của hồi môn, trải giường chiếu, cách ngày tân lang tới nhà gái đón dâu.

(2) Hạc đỉnh hồng: loại thuốc độc nằm trong những loại nguy hiểm nhất.

Nháy mắt, Lập Thu đã qua, cơn mưa lạnh liên tục xối xuống thành Trường An.

Một đêm trước ngày đón dâu, Bùi Hi Lam mơ thấy vô số thứ hỗn độn liên quan đến chuyện thành thân, lúc thì mơ thấy đêm tân hôn chạy trốn, lúc lại nằm mơ thấy Quách Tử Nghi vừa thành thân đã nạp thϊếp, lúc lại mơ thấy hành lang vô tận, làm thế nào cũng không đi vào được động phòng...! Nhưng thứ khiến nàng ấn tượng sâu nhất, không gì bằng đoạn giấc mơ liên quan đến Hình Dật Sơ.

Trong mơ, nàng giống như bản thân, hoặc là Bắc Lạc tiên tử Hi Lam, Hình Dật Sơ giống Hình Thiếu sư, hoặc là Thái Vi tiên tôn Dật Sơ.

Bọn họ cũng ngồi trước nến đỏ rơi lệ trong động phòng, hai người có một đoạn đối thoại bị cảnh trong mơ làm mơ hồ, sau đó lại lâm vào lúng túng.

Bỗng nhiên hắn cười lạnh một tiếng, đẩy ra rèm châu trước mặt nàng, đỡ lấy sau gáy nàng hôn lên một cái.

Nàng giật mình hít một hơi, né tránh hắn giật mình nói: "Ngươi ngươi ngươi ngươi...!Ngươi làm gì?"

Giấc mộng này như sương như khói, nàng không thấy rõ mặt mũi hắn, chỉ nhớ nụ hôn của hắn khiến nàng thổn thức, lời nói của hắn khiến nàng kinh ngạc: "Bây giờ toàn bộ Tiên giới đều biết, nàng đã là thê tử của ta.

Dù nàng không có tình cảm với ta, ta cũng sẽ không nhường nàng cho nam nhân khác."

Hình như nàng khóc, nói chuyện nghẹn ngào ngắc ngứ, hèn mọn lại sợ sệt nói với hắn: "Chàng sẽ không rời đi, cũng sẽ không thay đổi, sẽ vĩnh viễn yêu ta, ở bên cạnh ta, có đúng hay không?"

"Ta sẽ không thay đổi, sẽ không rời đi.

Ta sẽ vĩnh viễn ở bên cạnh nàng."

"Từ nay về sau, chàng có bằng lòng cùng ta bạch đầu giai lão, sống hết cuộc đời này không?"

"Không chỉ đời này, mà phải là đời đời kiếp kiếp..."

Buồn làm sao, trên đầu chữ tâm có một vệt thu.

Mưa thu ồn ã trút xuống, không buồn cũng đâm buồn.

Qua nửa đêm, Bùi Hi Lam bị tiếng nước chảy làm tỉnh giấc.

Cây ngọc ngành quỳnh đầy viện, tiếng mưa rơi xối xuống cây quế.

Nàng nhìn bệ cửa sổ đến say sưa, loáng thoáng cảm thấy cuối cùng giấc mơ này cũng không chỉ là một giấc mơ nữa.

Đây cũng là lần đầu tiên nàng cảm nhận sâu sắc được chuyện đánh cược tính mạng yêu một người như thế nào.

Chỉ là ôm nhau với người ấy cũng sẽ khiến hô hấp nàng nặng trĩu, tim thoáng hẫng một nhịp, cho dù chết ngay lập tức cũng không phụ cuộc đời này.

Nhìn ra bầu trời tối tăm ngoài cửa sổ, nàng cảm thấy không nên suy nghĩ bậy bạ nữa, gọi thị nữ vào hầu hạ.

Các nàng ấy thay xiêm y rộng tay cho nàng, trên bác mấn* có cắm đầy trâm hoa kim thoa.

Mẫu thân cũng tới trang điểm cho nàng, vẽ lông mày thành dãy núi xa, môi thoa màu đỏ tường vi.

Bùi Hi Lam ngẩng đầu, bị nữ tử trong gương làm sợ hết hồn.

Gương mặt như vậy, ngoại trừ Ngọc Hoàn tỷ tỷ, nàng cứ tưởng rằng chỉ có trong tranh mỹ nữ mới có thể thấy được

*Bác mấn là phần đuôi trang trí dưới mũ miện.



"Con gái của ta sắp gả đi rồi, nhìn lớp trang điểm này mà xem, thật sự rất Hồ khí." Mẫu thân cười vỗ vai nàng một cái như khích lệ nhưng ánh mắt phiếm đỏ.

Tầm mắt của hai mẹ con giao nhau trong gương, ánh mắt Bùi Hi Lam cũng đỏ lên nhưng lại không có can đảm bật cười như mẫu thân của mình, ngược lại nàng nhanh chóng cúi đầu xuống.

Trang điểm xong, Bùi phu nhân dẫn Bùi Hi Lam xuống dưới lầu.

Bùi Kiều Khanh vốn đang lo liệu chuyện hôn lễ, thấy con gái thay đồ trang điểm xong cũng cười lên: "Khuê nữ của ta thật là xinh đẹp."

Bùi Hi Lam le lưỡi: "Chà chà, bình thường giục cưới như Diêm La vương đòi mạng, cuối cùng hôm nay phụ thần không cần thúc giục nữa rồi."

Nếu đổi lại là ngày thường, Bùi Kiều Khanh nhất định sẽ mắng nàng đại nghịch bất đạo, nhưng giờ phút này, ông chỉ cau mày nói: "Con đó, từ nhỏ đã thiếu dạy bảo những chuyện trong nhà, ngày mai lúc bái cha mẹ chồng, nhớ thỏ thẻ một chút, tuân nữ tắc, thủ tứ đức, mọi chuyện phải thương lượng với phu quân của con.

Nhớ lấy, tuyệt đối không thể uống rượu cho vui nữa, chơi bời văn chương nữa.

Biết chưa?"

"Dạ dạ dạ dạ." Mặt Bùi Hi Lam hoàn toàn không hề hứng thú.

Bùi Kiều Khanh chỉ nàng, nói với phu nhân: "Nàng nhìn con gái của nàng này, ta thấy nó gả ra ngoài chưa đầy một năm sẽ trở lại thôi."

"Trông nó vui vẻ quá chừng kìa!"

"Con nhóc này!"

Hai cha con lại cãi cọ một lúc lâu mới ngừng chiến.

Bùi Hi Lam lại lên lầu lần nữa, chuẩn bị đeo bông tai bị rơi lên.

Đợi bóng lưng nàng biến mất, Bùi Kiều Khanh mới thu lại nụ cười trên mặt, thở dài một tiếng.

Bùi phu nhân lau nước mắt: "Con gái có chốn về, xuất giá là chuyện sớm muộn.

Từ từ chúng ta sẽ quen thôi."

Bùi Kiều Khanh gật đầu một cái, ngồi xuống với cảm xúc lẫn lộn: "Haizz, ta chỉ có mỗi một đứa con gái như vậy..."

Mặc dù mạnh miệng nhưng khoảng thời gian chuẩn bị hôn sự này, Bùi Hi Lam dần biết nỗi lòng của phụ thân.

Mẫu thân hi vọng nàng ở nhà vì quyến luyến con gái, cha hi vọng nàng xuất giá ngược lại là bởi vì suy nghĩ về lâu về dài, hi vọng nàng có một đời yên vui.

Tình yêu của nữ tử là dòng nước chảy lững lờ, tình yêu của nam tử là núi cao nguy nga, dù sao cũng không thể so sánh với nhau.

Nghĩ đến đây, nàng bỗng nhớ lại mấy lời Hình Dật Sơ nói với nàng.

Hắn giống như phụ thân, cũng hi vọng nàng và phu quân bên nhau cả đời, cũng sắp xếp một đống chuyện lớn, bây giờ nghĩ tới, cảm tình của hắn với nàng hẳn là có thể so với tình thương của cha? Toàn là giả thiết lộn xộn gì đây.

Trên đời này làm gì tình yêu của nam tử nào có thể so sánh với tình cảm của cha đối với con gái chứ.

Nửa ngày trôi qua, giờ lành đã tới, Bùi Hi Lam nghe thấy bên ngoài truyền tới tiếng hò hét ầm ĩ, nghĩ là tân lang dẫn người tới đón dâu.

Nàng ngước mặt lên trời than thở trong im lặng.

Ông già trong miếu quả thực không hiểu được thần ý*, tay cầm cốc quẻ xóc lên một lượt, nói ngày này thành thân lành nhất*, kết quả mưa dầm liên tục, không ngớt không dừng.

Mặc dù có người che dù chắn mưa nhưng tân y kéo trên đất đã bị nước mưa xối hoàn toàn.

May mà hoa quế giữa đường nhô ra bên tường, phả ra trên đường phố ngập tràn hương thơm, còn còn có chút cảnh sắc.

*Xuất phát từ bài thơ: Vào ra mắt miếu núi Hành bèn ngủ ở chùa núi đề thơ ở cửa lầu của Hàn Dũ vào thời Đường(bản dịch của Nguyễn Minh)

Ông già trong miếu thông thần ý,

Dương mắt dò, yên lặng cúc cung.

Chỉ cách cầm bôi giao khấn quẻ,

Bảo rằng quẻ tốt, thật hanh thông.

Nàng nhìn ra cảnh sắc mùa thu bên ngoài cửa sổ, phát hiện từ khi mới gặp Hình Dật Sơ đã gần mười năm.

Chẳng qua là khi đó cảnh sắc phồn thịnh hơn chút, có mười dặm gió xuân, hoa đào hoa mận tranh nhau nhỏ, có cả nàng trên lầu gác Lạc Dương vẽ tranh, vẽ ra ý trung nhân của mình...!Chỉ tiếc rằng ý trung nhân của nàng Thái Vi tiên tôn, thọ như trời đất, nàng không thể sống thọ để cùng hắn tay nắm tay làm bạn cả đời.

Cuộc đời này bọn họ chắc chắn đã định là phải bỏ lỡ.

Chỉ nguyện còn có kiếp sau, thϊếp là sen hồng, quân là gió, theo gió mưa xua mà quấn quýt lấy nhau.

Nghĩ tới đây, đúng lúc nàng cúi đầu nhìn thấy bóng dáng Quách Tử Nghi vào sân, màn đỏ sậm trong mưa bụi khiến đầu nàng trống rỗng.

Sau đó, lỗ tai nàng ong một tiếng, nghĩ đến một chuyện: Đúng rồi, ban đầu nàng nhặt được chiếc bút thần kia, vẽ tiên nhân trên giấy, Hình Dật Sơ và cảnh đẹp rừng đào giống y như đúc lập tức xuất hiện trước mắt nàng! Còn nữa, Hình Dật Sơ đã từng thừa nhận với nàng, năm đó dưới vách núi Bạch Cốt là bạn cũ trên Tiên giới của nàng, Tử Tiêu.

Mà Tử Tiêu thấy nàng, câu đầu tiên nói là "Thật sự là ngàn năm loạn lạc lìa xa, lớn lên mới được nơi xa tương phùng." Nói cách khác, thời gian đã qua ít nhất một ngàn năm kể từ khi Hi Lam rời khỏi Tiên giới! Tử Tiêu xuất hiện ở biên giới Đại Đường, nhưng trong nháy mắt lại nhận ra kiếp trước của nàng, sao lại không biết hành tung của Thái Vi tiên tôn chứ? Thế nhưng, hắn nói nàng là con nhóc phụ lòng.

Cái này chứng minh chuyện gì? Hình Dật Sơ từng nói mấy lần, sức mạnh của hắn không đủ một phần mười, chuyện này lại chứng minh điều gì?

Bùi Hi Lam cảm thấy choáng váng đầu óc, hoa mắt, chỉ che đầu, lao xuống lầu, cưỡi một con ngựa trong chuồng, từ cửa sau giơ roi lao nhanh đi.

Có người lớn tiếng la lên: "Tiểu nương tử, người người người người đi đâu đó???" Nàng cũng làm bộ như không nghe thấy.

Nhưng nàng không thể tìm được Hình Dật Sơ trong nhà hắn.

Phủ Thiếu sư không ai biết hắn đi đâu, gia đinh chỉ nói mấy ngày nay hắn dùng bữa rất ít, ngày càng gầy gò, thường xuyên xem văn thư tới khuya, dường như có tâm sự, từ sáng sớm hôm nay đã không thấy bóng dáng.

Bùi Hi Lam hồn bay phách lạc rời khỏi phủ Thiếu sư, trong đầu nghĩ có lẽ bọn họ thật sự không có duyên, cứ thế vô thức đến Khúc Giang.

Mưa dày tạt nghiêng, sương mù phủ lên cung điện.

Mùa xuân ở Khúc Giang là mùa xuân đẹp nhất, nơi này từng có văn nhân thi sĩ cắm liễu tiễn đưa, thấp thoáng có bóng mây muôn màu bay lượn, có tiếng cười của cung nữ đấu hoa, có hàng ngũ ngựa trắng cương vàng, có tải tử tư thế oai hùng như bắn mây lật trời, cũng như yến tiệc long trọng đầu tiên của cung Chiêu Dương lúc đó, cũng có ký ức Dật Sơ và nàng gặp lại dưới gốc liễu mùa xuân...!Lúc này, chuyện cũ đã vậy, chỉ có thể làm một chiếc thuyền lá lặng lẽ trôi trên sông.

Tóc mai đã ướt, váy ngâm trong nước, Bùi Hi Lam chỉ có thể nhìn phong cảnh trước mắt, yên lặng nhịn xuống sự nhớ nhung khó nói thành lời.

Bỗng nhiên chiếc thuyền hoa kia lắc lư một chút.

Bùi Hi Lam trừng mắt nhìn, nghiêng đầu nhìn ra xa thì nhìn thấy bên trong lộ ra một người màu đỏ tía.

Hình Dật Sơ che dù, nói mấy câu với người hầu ở bên trong, đang muốn đến mũi thuyền cầm gì đó thì nhìn thấy Hi Lam trong mưa bụi.

Hắn mang dù xuống thuyền, ánh mắt chứa chút trách cứ đi qua, tới khi cách nàng một đoạn thì dừng bước lại.

Ánh mắt hắn ảm đạm, buông tay ra, mặc cho chiếc dù treo lơ lửng trên không trung, làm phép cây dù nhẹ nhàng đẩy một cái.

Dù giấy dầu đi đến trên đầu nàng, trên đầu hắn xuất hiện tiên thuật bằng sương mù, ngăn nước mưa lại.

Hắn hờ hững nói: "Không phải hôm nay là ngày thành thân của nàng sao, tại sao lại ở đây?"

Khẽ hừ trong mưa, bóng dáng hắn nhạt như mây khói, mà nàng song mấn* hoa hồng, đôi môi đẹp đẽ là sắc thái sống động duy nhất trong tình cảm lạnh lẽo màu xám tro này.

Nàng cười một tiếng: "Chẳng qua là ta đã nghĩ rõ một số chuyện."

*Ý chỉ hai bên bác mấn (đã chú thích ở trên)

Hình Dật Sơ cau mày nói: "Cái gì?"

"Rốt cuộc ngươi là ai?"

Hắn ngẩn ra, vẻ mặt không thay đổi: "Nàng đào hôn, gây động tĩnh lớn như vậy chỉ là vì muốn tới nói chuyện vớ vẩn như vậy ư? Mau trở về đi, đừng chậm trễ nữa."

"Ngày trước ngươi luôn lấy đủ loại lý do để đẩy ta ra, cái gì mà người tiên khác biệt, gì mà thế sự khó lường, chẳng qua cũng chỉ toàn là nói lung tung.

Kiếp trước ta vốn không phải người phàm, gì mà khác biệt gì mà người tiên chứ? Mà cho dù kiếp trước ta là tiên, không phải Thái Vi tiên tôn cao cao tại thượng vẫn yêu nữ nhân khác như thường đó thôi.

Không yêu chính là không yêu, lấy đâu ra nhiều cớ như vậy."

Nàng còn chưa dứt lời, hắn đã cắt ngang, nói: "Nếu nàng biết rồi, vì sao lại cứ phải nói thêm lời này?”

"Không, hôm nay ta mới phát hiện.

Ngươi đẩy ta ra cũng không phải vì ngươi không yêu ta, mà là bởi vì ngươi vốn cũng không phải Thái Vi tiên tôn."

Hình Dật Sơ mở miệng muốn nói gì đó nhưng cuối cùng cũng không giải thích nữa, chỉ khép chặt bờ môi trắng bệch.

Tiếp đó, tiên thuật trên đầu hắn giống như bị đánh hỏng bỏ đi tán loạn.

Nước mưa tạt xuống làm ướt mái tóc dài và cẩm bào màu tím, phủ lên một tầng lông tơ màu trắng trên lông mi hắn.

Hắn nhìn nàng từ xa, mặt không chút biến đổi, nói: "Không sai, ta chẳng qua chỉ là ảo ảnh nàng dùng bút thiên trượng huyền ảo vẽ ra mà thôi.”

Mặc dù nàng đã sớm đoán được kết quả này nhưng khi thật sự nghe chính miệng hắn thừa nhận, nàng vẫn không khỏi cảm thấy khϊếp sợ.

Cây bút kia thật sự không phải vẽ cái gì là có thể gọi ra cái đó, mà là vẽ cái gì sẽ xuất hiện cái đó.

Nhưng bản thân thứ đã vẽ ra chưa chắc đã tồn tại.

Cho nên, người trước mắt này cũng chỉ là một bức họa nàng dựa vào trí nhớ ngàn năm còn sót lại vẽ ra...

Ngày dài hoàng hôn, tiếng nhạn xa xăm đứt đoạn, nước chảy Khúc Giang biến thành màu đỏ thẫm trở lại.

Mưa lạnh bao phủ trong khói sương, thân hình gầy gầy của hắn có phần cô đơn, gầy gò, còn nhạt hơn cả mây mù, giống như tranh thủy mặc vậy, chẳng qua là trong bản vẽ đẹp nhất của mùa thu nơi Khúc Giang.

Hắn nói: "Ảo ảnh không có tình cảm, cũng sẽ không yêu.

Vì vậy nàng cũng không cần dây dưa với ta, sẽ lãng phí rất nhiều thời gian."

Nàng khẽ dừng, nước mắt rưng rưng trong hốc mắt: "Ta không tin.

Chàng không chấp nhận ta, là bởi vì chàng cho là ta yêu Thái Vi tiên tôn...!Có đúng hay không?"

"Không phải."

"Thế nhưng, ban đầu ta cũng không có trí nhớ của kiếp trước, Thái Vi tiên tôn là người nào, ta đều biết từ chàng cả.

Chàng hiểu lầm ta, có phải không?"

"Không phải."

"Vậy vì sao chàng phải lạnh nhạt với ta? Chẳng lẽ là vì chàng có trí nhớ của kiếp trước, lúc ấy không thích ta cho nên bây giờ cũng không thích ư? Hay là nói, chàng có trí nhớ của kiếp trước, lần hạ phàm này, chàng giống như Thái Vi tiên tôn vậy, chỉ là muốn cứu chúng sinh thôi?!"

"Không phải!" Hắn cau mày nói.

"Chàng chối nữa cũng vô ích." Nàng nói quả quyết, kiềm chế để nước mắt không lăn xuống: "Ta biết, Thái Vi tiên tôn không yêu ta, nhưng chàng yêu."

Người hắn cứng ngắc, giống như không nghe hiểu nàng nói cái gì.

Trong bức họa này, hắn là thủy mặc, ánh chiều tà, là ráng chiều đỏ.

Mà nàng lại giống như lửa vậy, xách váy chạy như bay tới, ôm chặt lấy hắn.

"Hi Lam, nàng..." Hai tròng mắt của hắn bỗng mở to, nhưng không cách nào đẩy nàng ra, nhất thời chỉ có thể hoảng hốt.

Thân thể hắn chân thực như vậy, cách cẩm bào cũng có thể cảm nhận được cảm giác rắn chắc gầy gò, rất khó phân biệt thật giả với tình lang lạnh nhạt trong mơ.

Nàng tựa đầu vào cần cổ hắn, mặc cho từng giọt lớn nước mắt rơi xuống: "Người ta yêu là Hình Dật Sơ, không phải Thái Vi tiên tôn, không phải tiên hồn ngàn năm nhìn không thấy, sờ không được.

Ta mặc kệ, ta cứ yêu chàng như vậy, chàng phải yêu ta! Chàng..."

"Nàng đừng càn quấy!"

Hắn đẩy nàng ra, ngực thoáng phập phồng, đỡ vai nàng, nói: "Nàng nghe cho kỹ, ta không có tình cảm của người phàm, sẽ không ở bên cạnh nàng được.

Nhưng nàng là cố nhân của nguyên thân, ta sẽ không giận chuyện nàng bất chấp như vậy."

Bùi Hi Lam không tỏ vẻ gì cả, không trả lời, chỉ dùng đôi mắt thỏ hồng hồng nhìn hắn.

Mi tâm hắn cau lại, nói: "Hôm nay tình thế cấp bách, có vẻ như Ma giới định thao túng Cửu Châu từ trong bóng tối, thượng giới bận bịu trông coi rãnh trời giữa hai giới thần ma nên không còn lòng dạ nào để ý tới chỗ này.

Mà sức mạnh ảo ảnh của ta cực kỳ yếu, rất khó chống đỡ với Ma tộc.

Cho nên, nếu ta thật sự có thời gian lo lắng cho nàng, cũng chỉ là lo nàng có thể sống được hay không, có thể chết đói trong chiến loạn hay không, không có thời gian nói chuyện yêu đương trai gái với nàng đâu."

Nàng cảm thấy hắn nói gì cũng đúng nhưng chỉ cảm thấy vô lực.

Không đợi nàng trả lời, hắn đã nói tiếp: "Trở về thành thân đi, kéo dài nữa sẽ quá muộn."

Trái tim nàng chìm sâu vào đáy hồ lạnh như băng.

Nàng nhếch môi nhưng cũng không nặn ra nổi nụ cười, chỉ có thể khẽ gật đầu một cái: "...!Ừm."

Đợi đến khi Bùi Hi Lam dắt ngựa rời khỏi Khúc Giang, sắc trời đã tối, dân thường cũng đã trở về nhà, Vũ Hầu cấm đêm cũng lần lượt xuất hiện.

Cuộc đào hôn này coi như kết thúc mỹ mãn.

Nàng buộc ngựa trên cây liễu, định đi bộ đến góc ít Vũ hầu ở thành Nam tìm chỗ ở.

Đi chưa được mấy bước đã thấy nửa vầng trăng trên thành Trường An phủ thêm sương trên những ngọn đèn sáng soi phố phường.

Một trận gió lạnh thổi qua, mấy chiếc đèn l*иg phía trước đung đưa, một bóng dáng màu đỏ đột nhiên xuất hiện phía trước.

Bùi Hi Lam sợ hãi, núp sau tường đá ngắn.

Nàng nhắm mắt lặng lẽ đợi một lát rồi len lén thò đầu ra nhìn, phát hiện đèn l*иg đã ngừng đung đưa, bóng người nơi đó đã sớm biến mất, giống như quỷ vậy.

Lại một trận gió lạnh thổi qua, thổi đến mức nàng run lập cập.

Nàng thở phào nhẹ nhõm, vừa quay đầu muốn nhìn tình hình đằng sau lại phát hiện có một người đứng đằng sau mình.

Bùi Hi Lam thề, nàng thiếu chút nữa đã chầu trời tại chỗ.

Nam tử trước mắt mặc áo bào đỏ, mày như núi xa, mái tóc đen dài như quạ, đôi mắt đen sâu không thấy đáy, da trắng không hề có chút huyết sắc.

Nhìn cách ăn mặc không giống người Đường, khuôn mặt lại không giống ngoại tộc, đẹp giống như quỷ vậy.

Sự ví von này rất kỳ lạ nhưng khi nhìn thấy hắn đứng dưới ánh trăng như thế này, đó lại là phản ứng đầu tiên của nàng.

Nàng luôn cảm thấy người này hơi quen mắt, chỉ khẽ giọng hỏi: "Ngươi...!ngươi là ai? Vì sao xuất hiện ở nơi này?"

"Tại hạ là bạn cũ kiếp trước của Bùi cô nương, cũng từng có duyên gặp cô nương trong sơn cốc ở biên cương một lần.

Có điều cô nương hẳn là người hay quên, có lẽ là không có ấn tượng gì rồi." Hắn chắp tay với nàng, "Tại hạ U đô Hoa Tử Tiêu."

"U đô Hoa Tử Tiêu...!Tử Tiêu?"

Tử Tiêu là bạn tốt của nàng ở Tiên giới trong mơ, vậy hắn cũng không phải đẹp giống như quỷ mà là đẹp đến mức chính là một tên quỷ.

Hơn nữa, U đô, đây không phải kinh thành của âm tào địa phủ sao...!Nàng che ngực, run giọng nói: "Tử Tiêu, ngươi tới tìm ta lấy mạng sao?"

Hoa Tử Tiêu bật cười: "Đó là nhiệm vụ của quỷ câu hồn, Tử Tiêu không có quyền lợi lớn như vậy."

"Vậy người xuất hiện làm gì?"

"Biết được hôm nay là ngày vui của Bùi cô nương nên ta cố ý tới tặng cô nương một phần lễ mọn."

Ngày vui nhận được lễ vật của khách từ U đô thì coi như là việc vui hay việc tang? Hắn có thể không nói lời nào treo giấy tiền vàng bạc rồi đi hay không? Bùi Hi Lam sợ hãi nói: "Vậy Bùi Hi Lam cám ơn ngài trước.

Còn xin chỉ bảo phần đại lễ này là..."

Hoa Tử Tiêu từ từ mở một quyển trục, chỉ thấy ánh sáng vàng tràn ra, từng chữ viết bên trong nhảy vào trong không trung di chuyển, kiểu chữ không giống lối chữ Hán hay chữ triện, cũng không rõ là chữ viết của triều đại nào.

Hắn nói: "Trí nhớ của Bắc Lạc tiên tử Hi Lam.

Nói cách khác, trí nhớ kiếp trước của Bùi cô nương."

"Gì..."

Bùi Hi Lam còn chưa kịp kinh ngạc, Hoa Tử Tiêu đã phất phất tay, nàng thấy những chữ kia bay về phía mình, xông vào trán nàng sau đó biến mất.

Chỉ một thoáng, nàng như uống ngàn đấu rượu, bước chân lảo đảo, đầu vô cùng nặng nề, Hoa Tử Tiêu cũng như toàn bộ cảnh đường phố cũng đung đưa.

Nàng há miệng muốn nói gì đó, nhưng ngoại trừ tiếng gió, nàng không nghe được âm thanh nào khác...

Cất bước nặng nề trong bức họa gió trăng cũ, ngay cả ánh mắt nàng cũng không nhìn thấy rõ, chỉ có thể thấy một mảng mờ mịt xám xịt, chỉ có thể cảm giác nước mắt dâng đầy hốc mắt.

Rốt cuộc, nàng cũng có sức lực nói ra câu nói sau cùng, mặc dù chỉ có hai chữ nhẹ như tiếng thở dài: "...!Dật Sơ."

---

Tác giả có lời muốn nói

Lúc viết Họa tiên, tôi nghĩ đến vài vấn đề liên quan đến tình yêu và hôn nhân.

Tôi cảm thấy thích là cảm tính, yêu là lý tính.

Nói như vậy có thể có phần lật đổ nhận thức của một bộ phận các bạn trẻ, có thể có người sẽ cảm thấy, không phải yêu là oanh oanh liệt liệt sao? Nhưng tôi cảm thấy, thích là sự xúc động, là phản ứng bản năng, mà yêu thật ra là kết quả của trí tuệ, rất cao quý, chằng qua là hi vọng người ấy mạnh khỏe, vui vẻ, dù là mất đi người ấy cũng không sao cả.

Hi Lam đối với Dật Sơ, Dật Sơ đối với Hi Lam, cũng chính là tình cảm như vậy.

Dật Sơ: "Không, chẳng qua là ta cảm thấy nàng phiền toái, không muốn bị dây dưa."

Hi Lam: "Chàng thẳng thắn một chút thì sẽ chết à!".