Hạ Nhuận quen biết Bùi Trường Hoài nhiều năm, sớm đã nắm rõ bản tính của y, rõ ràng hiểu được lời này đối với y mà nói chẳng khác nào lột da róc thịt, thế nhưng hắn cũng nói rồi.
Hạ Nhuận mong muốn nhìn thấy gương mặt tràn đầy thống khổ của Bùi Trường Hoài, dường như chỉ cần nhìn thấy người này thất bại đau đớn, hắn sẽ xoa dịu được nỗi hận trong lòng.
Nhưng Bùi Trường Hoài chỉ giương mắt nhìn hắn, chắn kiếm ngang trước ngực, bình thản nói: “Bản hầu có lỗi với Tùng Tuyển, nhưng chưa từng có lỗi với ngươi. Ngươi càng muốn ta khó coi, càng làm ta thêm lý trí đoạn tình tuyệt nghĩa với bằng hữu ngày trước.”
Sắc mặt Hạ Nhuận xám xanh, nắm chặt song kiếm trong tay.
Bùi Trường Hoài tiếp tục nói: “Lúc ta quen biết Hạ Nhuận, trong tay hắn chẳng có gì chứ đừng nói tới hạng nhất, nhưng hắn tình nguyện mạo hiểm tính mạng cứu người, là thiếu niên anh hùng đỉnh thiên lập địa. Bảo Nhan Gia Sóc, Bản hầu chưa từng vì Tạ Tùng Tuyển mà xem thường ngươi, là ngươi tự mình đố kỵ người tài giỏi hơn mình, tự xem thường bản thân.”
“Đừng nói nữa! Mau câm miệng!” Hạ Nhuận cắn chặt răng, thống hận đến đỏ cả mắt: “Tại sao ta phải xem thường bản thân? Bùi Dục, ta phải gϊếŧ ngươi, chứng minh cho phụ vương thấy năng lực của ta, đoạt lại vinh quang vốn thuộc về ta!”
Không nói nữa, song kiếm của Hạ Nhuận hợp lại mà tới.
Bùi Trường Hoài nâng trường kiếm lên đỡ, chiêu thức không ngừng biến hóa, trong đầu toàn là bóng dáng Triệu Quân lúc dùng kiếm.
Từng chiêu thức như hiện rõ trước mắt, được y thi triển ra ngoài.
Trường đoản kiếm của Hạ Nhuận do Bùi Trường Hoài chỉ điểm, vốn dĩ đã không địch nổi thế công của Bùi Trường Hoài, lại thêm thương pháp của Triệu Quân, biến hóa khôn lường, làm cho Hạ Nhận không kịp trở tay, sức lực dần cạn.
Hắn cảm nhận sự áp bách khi giao đấu với Triệu Quân lần nữa, trong lòng tuyệt vọng.
Hắn cùng kẻ khác tranh hạng nhất, nhưng vĩnh viễn đều tranh không được, không có Tạ Tùng Tuyển, sẽ có Triệu Quân, hoặc có lẽ sẽ có thêm càng nhiều thiếu niên trẻ tuổi càng có thiên phú vượt qua hắn.
Nhưng hắn đối mặt với những nhân kiệt thế này, chỉ biết tuyệt vọng mở to mắt nhìn vinh dự thuộc về bản thân không ngừng tàn úa.
Hạ Nhuận rơi vào bờ vực sụp đổ, kiếm pháp càng lúc càng loạn.
Dáng người trong trí nhớ của Bùi Trường Hoài càng lúc càng rõ ràng, trên hẻm nhỏ ngày đó, hình ảnh Triệu Quân ra chiêu ‘Vân nhàn long tiềm’ cứ như mới hôm qua.
Trái tim Bùi Trường Hoài hẫng một nhịp, một nhát đâm tới.
Một kiếm chất chứa thù hận bấy nhiêu năm, Bùi Trường Hoài phảng phất nghe thấy tiếng anh linh hóa thành cuồng phong kêu gào bên tai, cùng lưỡi kiếm mạnh mẽ đâm tới. Sắc bạc lạnh lùng phá tan chiêu thức dày đặc của song kiếm, đâm thẳng vào tim. Bùi Trường Hoài không chút do dự, đẩy mũi kiếm xuyên qua l*иg ngực Hạ Nhuận. Lúc rút kiếm về, máu tươi bắn đầy, nhuộm đỏ lên hoa văn chạm khắc trong vương đình Tuyết Lộc.
Cơ mặt Hạ Nhuận căng lên, tay ôm lấy vết thương đầm đìa máu trên ngực, nhưng vì có vẻ quá mức hoảng loạn, hắn bước vội mấy bước, ngã ra đất, bộ dáng thê thảm. Hạ Nhuận cúi đầu, nhìn bàn tay đẫm máu của mình. Bùi Trường Hoài lạnh mặt nhìn hắn, Chẳng bao lâu sau, Hạ Nhuận cười lớn, như điên như dại.
“Ta vẫn thua... thua... không... ta chưa từng thắng...”
Tuyệt vọng ăn mòn thần trí hắn, Hạ Nhuận gục đầu xuống, trước mắt mơ hồ, chẳng biết làm sao, tất cả đều biến thành trắng xóa, tựa như tuyết đầu mùa, cũng giống như hoa liễu đung đưa chốn kinh đô, cánh hoa theo gió, là ký ức xa xôi chẳng biết tự bao giờ.
Năm đó lúc hắn mới vào Chính Tắc Hầu phủ, bị tiếng đọc bài lanh lảnh thu hút, từng bước bước đến bên cửa sổ.
Thiếu niên lang ngồi bên bục cửa sổ, dáng vẻ thanh tú sạch sẽ, ngẩng đầu lên nhìn thấy hắn, tựa như nhìn thấy báo vật gì, lập tức ôm sách lên, đôi mắt đen láy quan sát vết sẹo trên mặt hắn.
Đối với Hạ Nhuận mà nói, vết sẹo trên mặt từng là nỗi nhục, sau khi bị trục xuất lưu lạc đến Lương Quốc, hắn vì vết sẹo xấu xí này chịu không ít khổ sở. Bị người khác nhìn chằm chằm thế này làm Hạ Nhuận không thoải mái, hắn nhanh chóng quay mặt tránh đi.
Thiếu niên đó bèn mỉm cười nói: “Xem ra ngươi chính là Hạ Nhuận? Nhị ca ca thường khen ngươi dũng cảm, là một thiếu niên anh hùng, ta vẫn luôn muốn gặp ngươi, không ngờ hôm nay được chạm mặt rồi.”
Lúc đó Hạ Nhuận vẫn còn chưa tinh thông Hán ngữ, thiếu niên nói chuyện vẫn còn mang giọng điệu mềm mềm dính dính, hắn chỉ có thể đoán được đại khái, nhất thời không thể đáp lời ngay.
Thiếu niên nhìn thấy hắn không nói chuyện, nghiêng đầu suy tư một lát rồi lại reo lên: “À, đúng rồi, tiểu anh hùng còn chưa biết ta là ai.” Y bỏ quyển sách xuống, cúi đầu hành lễ, tựa như bậc thánh hiền: “Ta là Bùi Dục, nhị ca ca của ta chính là Thiếu tướng Bùi Hành.”
Lúc đó Hạ Nhuận ngôn ngữ không thông, rất ít giao lưu cùng người khác, giống như một kẻ lập dị cô độc, chẳng có được đồng tình và tán xưng của kẻ khác.
Cho dù nhị công tử Bùi Hành bởi vì hành động cứu người của hắn mà thường khen ngợi, nhưng đó là tiền bối thưởng thức tài năng của hậu bối, còn chưa có ai từng dùng ánh mắt kính ngưỡng như Bùi Trường Hoài chăm chú nhìn hắn bao giờ.
Bởi vì Bùi Dục, hắn nhận được công nhận và kính trọng đã khao khát bấy lâu.
Hắn từng bởi vì ánh mắt đó mà muốn toàn tâm toàn ý làm một người Lương Quốc, làm tốt bổn phận của Hạ Nhuận.
Cơ thể của Hạ Nhuận chầm chậm lạnh thấu, Bùi Trường Hoài trong ký ức dần nhạt nhòa, đến khi thần trí của hắn trở về hiện thực, hắn nằm sấp trên đất, dùng hết sức lực ngẩng đầu lên nhìn ánh mắt của Bùi Trường Hoài.
Bùi Trường Hoài không mềm lòng, khuôn mặt lạnh lẽo lau sạch máu trên kiếm, tra kiếm vào vỏ.
Xung quanh binh sĩ song phương liều mạng chiến đấu, giữa đao quang kiếm ảnh, đột nhiên truyền đến một tiếng kêu gào thảm thiết: “Bẩm báo Hầu gia, Chử Tô Lặc dẫn theo một đội tinh binh phá cửa nam chạy về phía nam trốn rồi!”
Bùi Trường Hoài hạ lệnh: “Đuổi theo!”
Gió lạnh thấm qua vết thương lan vào l*иg ngực, Hạ Nhuận chỉ còn một hơi mỏng manh, nghe thấy Chử Tô Lặc bỏ lại hắn mà chạy, Hạ Nhuận cười khổ, chất vấn trời xanh, chất vấn chính mình: “Ta rốt cuộc, là thứ gì...”
Chẳng có ai đáp lời hắn, đôi mắt mở to trừng trừng của Hạ Nhuận dần mất đi ánh sáng, thân thể nằm trong vũng máu bất động, đã lìa đời.
Ngọn lửa trong vương đình Tuyết Lộc vẫn tràn lan khắp chốn.
Binh sĩ Đại Lương khí thế hung hãn, nhanh chóng khống chế vương đình. Từng đội binh sĩ di chuyển trong hành lang đầy ánh lửa, cuối cùng tại một nơi hẻo lánh trong cung điện tìm được Bảo Nhan Đồ Hải và Vương hậu.
Bùi Trường Hoài cho một đội binh ở lại bảo vệ Bảo Nhan Đồ Hải rồi tự mình dẫn một đội binh đuổi theo Bảo Nhan Chử Tô Lặc.
Thương Lang và Ưng Đàm kề bên nhau, hướng mà Chử Tô Lặc bỏ trốn là hướng đi Ưng Đàm. Nơi đó binh lực không nhỏ, còn có một đội quân tự vệ của dân chúng Bắc Khương, nếu như Chử Tô Lặc gióng trống giương cờ là sẽ có cơ hội phản kích, nhưng Bùi Trường Hoài dĩ nhiên sẽ không cho ông ta có được cơ hội này.
Hai bên không ngừng truy đuổi, thiết kỵ dưới trướng Chử Tô Lặc kiêu dũng vô cùng, nhiều năm trước bọn họ từng giao thủ với Bùi Trường Hoài ở Tẩu Mã Xuyên, không ít người còn từng tham gia hành hạ lăng nhục hai vị Thiếu tướng của Bùi gia. Giờ đây nhìn thấy khí thế hùng dũng của Chính Tắc Hầu Bùi Dục, bọn họ biết rõ sợ hãi không thể đổi lấy sự nhân từ của đối phương, lúc mạng treo sợi tóc càng thêm phần điên cuồng và mạnh mẽ.
Chử Tô Lặc dựa vào đội kỵ binh này mà thoát ra khỏi thành.
Lúc đoàn quân phi ngựa tới bình nguyên, trời đã hửng sáng, nhưng mặt trời bị tầng tầng mây mù che khuất, bình nguyên chìm trong sương lạnh.
Mà thời khắc này, tiếng vó ngựa như sấm dội, vang ầm ầm dưới gầm trời.
Bảo Nhan Chử Tô Lặc ngược gió mà đi, Bùi Trường Hoài truy đuổi phía sau, tựa như một con sói dữ, thề chết cũng không buông tha.
Chử Tô Lặc không thể không phái một nhánh binh sĩ đi cản đường Bùi Trường Hoài, lại rẽ ngang bình nguyên, quyết định dẫn binh mã của Bùi Trường Hoài vào hẻm núi.
Địa hình xa lạ có vẻ đã cản trở vó ngựa người Lương Quốc, tiếng vó ngựa sau lưng dần nhạt nhòa.
Sương dày vẫn phủ dưới tầng tầng cây rừng dày đặc.
Chử Tô Lặc thở dài một hơi, nhưng kỳ lạ là ông ta chẳng có cảm giác hưng phấn khi giành được sự sống.
Có lẽ ông ta đã già cỗi.
Đáng buồn là, tuy thân đã héo úa, nhưng dã tâm vẫn hừng hực.
Chử Tô Lặc vẫn còn nhớ lúc ông ta còn trẻ, Thương Lang vì vấn đề ranh giới mà mâu thuẫn với Ưng Đàm, ông ta cầm đao thiết nặng ngàn cân, bảy ngày bảy đêm chém gϊếŧ, máu tươi đốt cháy lên ngọn lửa của dã tâm và du͙© vọиɠ.
Ông ta thét gào, bôn ba trên thảo nguyên, lập chí muốn thống nhất Bắc Khương.
Ông ta muốn nắm trong tay quyền lực lớn nhất, ngồi trên vị trí tối cao, ngay cả quân chủ Bắc Khương cũng phải thần phục mình, muốn Lương Quốc Hoàng đế nghe thấy cái tên Chử Tô Lặc liền kinh hồn táng đảm, đây là vinh quang cỡ nào?
Ông ta nên là sói dữ, là sư tử, là bá chủ của Bắc Khương.
Lúc Chử Tô Lặc vẫn còn chìm trong hồi ức, một mũi tên xé gió mà tới, Chử Tô Lặc theo bản năng né được, mũi tên bạc lướt qua cổ ông ta, ngựa trở mình trong hoảng loạn, phút chốc mất đi thăng bằng.
Chử Tô Lặc té xuống ngựa, lăn tròn trên đất mấy vòng mới cắm đao trên đất làm điểm tựa đứng dậy.
“Mau bảo vệ Thương Lang chủ!”
Kỵ binh đi theo Chử Tô Lặc lập tức xuống ngựa, lấy ông ta làm trung tâm mà dàn trận, thề chết không đầu hàng. Vũ khí trong tay họ chém đứt từng tấc cây cỏ, nhanh chóng phán đoán hướng của mũi tên.
Sát khí lạnh lẽo trùm lên rừng cây.
Trong khi dây thần kinh của bọn họ căng lên, lại nhìn thấy một cái bóng đen nhẹ nhàng trên cành cây ở phía xa.
Người này rất trẻ, khuôn mặt anh tuấn, nụ cười lơ đãng chẳng coi ai ra gì, trong tay cầm một cây cung bạc, ngoài ra cũng không mang theo vũ khí, ngay cả giáp cũng không mặc, cứ như chẳng phải tới chặn gϊếŧ Thương Lang chủ Chử Tô Lặc mà chỉ đang nhàn nhã đi săn.
Người đó mỉm cười: “Ta mà là Thương Lang chủ, nhất định sẽ đi đường này.”
Trong sương mù xuất hiện hai bóng người, là Vạn Thái và Vệ Phong Lâm.
Mà người trước mắt chính là kẻ đã bắn Chử Tô Lặc ngã ngựa, Triệu Quân.
Hắn đưa cung tiễn cho Vạn Thái, đổi sang một cây giáo bạc, cười cười nhìn Vạn Thái: “Ngươi thua rồi nhé, mười lượng, lần sau nhớ trả đủ.”
Mí mắt Vạn Thái giần giật, không nhịn được cằn nhằn: “Ngài cũng ngồi lên chức Đô thống rồi mà còn nhớ nhung chút tiền uống rượu này của ta?”
Đám người này vẫn còn cười cười nói nói, đối với quân đội Thương Lang quả thật là sỉ nhục. Chử Tô Lặc lại không mấy phẫn nộ, chỉ bình tĩnh lại, thận trọng quan sát người bắn cung lúc nãy.
Người này tiễn pháp tinh chuẩn, xem ra là đã mai phục ở chỗ này từ sớm, chỉ đợi ông ta đến. Nếu đúng như thế, xem ra xung quanh vẫn còn người. Còn bao nhiêu?
Chử Tô Lặc không đoán được, nhưng trước mắt ông ta đã không còn đường lui, gầm lên hạ lệnh: “Gϊếŧ!”
Triệu Quân nói: “Chử Tô Lặc, đã cùng đường mạt lộ rồi, cần gì phải hi sinh vô ích?”
Trong bóng cây cao cao, ba mũi tên đính lông vũ đen đã lên dây, muốn làm như thế cần phải có sức mạnh và rèn luyện nhiều năm, nhưng bàn tay kéo dây dường như đã quá quen thuộc, chẳng có chút run rẩy hay do dự, ba mũi tên vυ't ra!
Mũi bạc xé gió, vù vù bên tai, mỗi mũi tên chuẩn xác xuyên qua kỵ binh Thương Lang, chỉnh tề cắm bên chân Chử Tô Lặc. Đợi nghe thấy tiếng ngựa ngân dài trong hoảng sợ, kỵ binh bảo vệ xung quanh Chử Tô Lặc mới nhìn thấy mũi tên cắm bên chân ông ta, nhất thời kinh hãi.
Ba mũi tên này từ phía sau lao tới, từ trên cao ngắm bắn, kẻ đó rõ ràng có thể trực tiếp bắn chết Chử Tô Lặc, nhưng lại chẳng trực tiếp để ông ta chết.
Chử Tô Lặc nếm được cảm giác bị kẻ khác dắt mũi, lập tức cầm lấy nỏ, nhắm về phía mũi tên vừa lao đến, dùng tiếng Bắc Khương hét lớn: “Muốn gϊếŧ cứ gϊếŧ, bớt làm mấy trò mèo này! Mau cút ra đây!”
Chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa vang lên trong màn sương, những bóng đen trùng điệp xuất hiện tứ phía, bao vây đoàn kỵ binh Thương Lang. Dáng người bị sương mù che lấp, chẳng nhìn thấy rõ, nhưng Chử Tô Lặc biết, đó đều là binh sĩ của Đại Lương.
Bùi Trường Hoài ung dung nhảy xuống đất, đeo cung trên vai, rút trường kiếm bên hông ra.
Tiếng kim loại lạnh lẽo thanh thúy, tựa như tiếng rồng gầm nơi chín tầng mây.
Triệu Quân dẫn binh mai phục phía trước, Bùi Trường Hoài dẫn binh truy đuổi phía sau, đội binh mã của Chử Tô Lặc tựa như con mồi rơi vào bẫy rập, chẳng còn đường sống.
Sắc mặt Bùi Trường Hoài vẫn bình thản, giơ tay nâng thanh kiếm lên phía trước, hỏi: “Chử Tô Lặc, ngươi còn nhớ thanh kiếm này không?”