Holmes đã trở về London từ nhiều tháng qua. Theo lời vêu cầu của Holmes, tôi về ở chung với anh trong một căn phòng cũ. Một bác sĩ trẻ, tên là Vemer hứa sang lại căn nhà nhỏ bé của tôi với cái giá cao nhất mà tôi đánh bạo đưa ra. Sau này tôi mới biết Vemer là người bà con với Holmes và chính Holmes đã bỏ tiền ra.
Sáng nay, Holmes ngồi lọt thỏm trong cái ghế bành và hờ hững mở rộng tờ báo. Nhưng ngay sau đó một cú giật chuông hung tợn vang lên, tiếp theo là một người đập mạnh vào cánh cửa bằng nắm đấm. Cánh cửa vừa được mở ra, thì vang lên những bước chân hối hả. Holmes đặt tờ báo xuống, trong phòng khách chợt xuất hiện một thanh niên xanh mét, cặp mắt ngơ ngác, đầu tóc bù xù thở hổn hển. Anh ta lần lượt nhìn chúng tôi.
- Tôi xin quý ông thứ lỗi. Xin đừng hiểu lầm tôi: Tôi gần như bị điên. Thưa ông Holmes, chính tôi đây? Con người bất hạnh John Hector McFarlane là tôi.
- Hãy hút một điếu thuốc lá đi ông McFarlane! - Holmes nói, tay chìa ra một hộp thuốc. - Tôi tin chắc rằng trước những triệu chứng như vậy thì bác sĩ Watson đây, sẽ sẵn lòng cho ông uống một liều thuốc. Tiết trời mấy bữa nay thật là nóng nực. Giờ đây, nếu ông cảm thấy được bình tĩnh hơn, thì tôi sẽ sung sướиɠ khi thấy ông ngồi xuống và nói cho chúng tôi biết ông là ai và ông muốn gì. Ông đã báo cho tôi rõ danh tính ông tựa hồ như tôi phải biết đến nó, nhưng tôi bảo đảm với ông rằng ông còn độc thân, ông là luật gia, hội viên hội Tam điểm và mắc bệnh hen suyễn, ngoài ra tôi không biết gì hơn về ông.
- Vâng, tôi là tất cả những thứ đó, thưa ông Holmes, và hơn thế nữa, vào lúc này đây, tôi là người bất hạnh nhất ở London. Ông Holmes ơi, xin ông hãy cứu tôi. Nếu cảnh sát ập đến bắt tôi trước khi tôi kịp kể xong câu chuyện thì vui lòng xin với cảnh sát hãy để cho tôi có đủ thì giờ nói với ông tất cả sự thật. Tôi sẽ yên tâm vào tù, nếu tôi biết là ông giúp tôi ở bên ngoài.
- Chuyện cảm động đấy… và lý thú nữa! Vì sao ông să bị bắt?
- Về tội ám sát ông Jonas Oldacre ở Hạ Norwood.
Người khách vươn một bàn tay run rẩy tới tờ Daily Telegraph còn để trên đầu gối Holmes.
- Nếu ông đã đọc, thì hẳn ông đã đoán vì sao tôi đến đây. Hiện nay tôi là đầu đề để mọi người bàn tán. - Anh ta chỉ cho chúng tôi trang giữa của tờ báo. - Đây này. Được ông cho phép, tôi sẽ đọc cho ông nghe: Đây là những hàng tít: Vụ án ở Norwood. Một nhà thầu khoán nổi danh bị mất tích. Một vụ ám sát? Một vụ hỏa hoạn do ác tâm? Kẻ sát nhân đang bị truy lùng. Họ đã theo tôi! Tôi sắp bị bắt. Mẹ tôi sẽ tan nát cõi lòng. Bà sẽ chết vì buồn tủi ? - Anh ta vặn hai bàn tay trong một cơn tuyệt vọng.
Người bị kết tội vì đã sử dụng bạo lực đó, có thân hình cân đối, tinh thần đã kiệt quệ, đôi mắt đầy vẻ sợ hãi, không râu, 27 tuổi, ăn mặc đứng đắn và ăn nói như một người Anh có giáo dục.
- Anh Watson, anh vui lòng đọc bài cho tôi nghe - Holmes nói.
- “Trong đêm qua, tại vùng Hạ Norwood đã xảy ra một tội ác nghiêm trọng. Ông Jonas Oldacre, độc thân, 52 tuổi, ngụ tại Deep Den House, thường bị người chung quanh xem là một người kỳ quặc, bí ẩn và không cởi mở; đã mắc nạn. Ông là một nhà thầu khoán đã giải nghệ sau khi đã tạo được một gia sản kha khá. Ở phía sau ngôi nhà ông có một khoảng đất trong chất đầy gỗ xây dựng. Lúc 12 giờ đêm qua, người ta báo động cháy. Lính cứu hỏa kéo tới, nhưng gỗ quá khô, bốc cháy dữ dội, người ta không sao dập tắt được ngọn lửa, mãi cho tới khi cả đống gỗ biến thành tro. Người ta tìm thấy trong căn phòng cạnh đám cháy một chiếc giường không có người ngủ, cái két trong phòng đã bị mở, nhiều giấy tờ vương vãi trên sàn nhà. cảnh sát cũng phát hiện có dấu vết vật lộn và nhiều vết máu còn thấy rõ trong phòng, và một cây gậy bằng gỗ sồi cũng bị vấy máu. Nhân chứng cho biết tối hôm đó, ông Oldacre đã tiếp ông John Hector McFarlane, một cố vấn pháp luật trẻ từ London đến, người hùn vốn của văn phòng pháp luật Graham & McFarlane, ở số 426 Gresham Buildings. E.C.; ở trong phòng. Cây gậy là của người khách. Cảnh sát đã nắm được chứng cứ của tội ác. Dù sao đi nữa cần phải chờ đợi những sự triển khai tiếp”.
Tin giờ
“Vào lúc báo lên khuôn, chúng tôi được tin cảnh sát đã phát lệnh tạm giam ông John Hector McFarlane, bị tình nghi sát hại ông Jonas Oldacre. Cuộc điều tra ở Norwood đã làm sáng tỏ thêm một số điều thật đặc biệt. Không những sảnh sát đã tìm thấy dấu vết của một cuộc vật lộn đẫm máu trong căn phòng của nhà thầu khoán; mà giờ đây người ta còn biết là cánh cửa sổ của gian phòng đó đặt ở tầng một, đã bị mở ra, có nhiều dấu vết cho thấy một vật to lớn đã bị lôi kéo tới đống gỗ, và sau cùng người ta đoán chắc rằng những mẩu vụn của thân người bị đốt cháy đã được nhận ra giữa đống tro tàn. Cảnh sát tin rằng nạn nhân bị đánh chết trong phòng, những giấy tờ của ông bị đánh cắp, và thi hài ông bị lôi tới đống gỗ rồi kẻ gây án đã châm lửa đốt. Cuộc điều tra được ủy thác cho thanh tra Lestrade, thuộc Scotland Yard, một người rất có năng lực”.
Sherlock Holmes đã lắng nghe tôi đọc, hai mắt nhắm nghiền, những ngón tay chắp lại.
- Vụ án đưa ra vài chi tiết lý thú. Trước hết, thưa ông McFarlane, làm thế nào ông còn được tự do, bởi vì những dáng vẻ bên ngoài dường như cho thấy ông là người có tội.
- Tôi ở Torrington Lodge, Blackheath, cùng với cha mẹ tôi. Tối hôm qua, vì cần làm việc muộn với ông Jonas Oldacre, tôi đã nghỉ đêm tại một khách sạn ở Norwood, và từ đó tôi đã đi thẳng tới văn phòng. Tôi không hề hay biết về vụ này, lúc lên xe lửa, lấy báo ra đọc tôi hết sức kinh hoàng và chỉ còn có mỗi ý định: Đặt sinh mạng tôi vào tay ông. Một người đã theo dõi tôi từ nhà ga London Bridge và chắc chắn là… Ồ! Ai vậy kìa?
Có người giật chuông và những bước chân nặng nề ngay sau đó leo lên cầu thang. Ông bạn Lestrade hiện ra trên ngưỡng cửa. Phía trên bờ vai ông, nhô lên vài cảnh sát mặc cảnh phục.
- Phải ông John Hector McFarlane đây không? - Lestrade hỏi.
Thân chủ của chúng tôi đứng lên, tái mét.
- Tôi bắt giữ ông về tội ám sát ông Jonas Oldacre ở Norwood.
McFarlane quay về chúng tôi với một gương mặt tuyệt vọng, đoạn anh ta lại ngã ngồi xuống.
- Xin hãy chậm chậm một chút, ông Lestrade. - Holmes nói - Chúng tôi gặp nhau chưa được nửa tiếng đồng hồ và ông này sắp kể cho chúng tôi nghe câu chuyện có thể giúp chúng ta nhìn thấy rõ.
- Tất cả đều quá rõ! - Lestrade nói với giọng buồn bã.
- Tuy nhiên, nếu được ông cho phép, tôi sẽ quan tâm đến câu chuyện kể của anh ta.
- Thưa ông Holmes, tôi thật khó lòng từ chối ông điều gì. Nhưng tôi phải ở đây, bên cạnh phạm nhân. - Lestrade nhìn đồng hồ - Ông có nửa tiếng để nói.
- Trước hết, tôi xin nói ngay rằng tôi không biết gì về ông Jonas Oldacre, ngoại trừ tên ông ta, cha mẹ tôi có quen biết ông ấy, nhưng từ lâu, hai cụ không còn gặp ông ấy nữa. Vì vậy nên tôi rất ngạc nhiên khi vào khoảng ba giờ chiều ngày hôm qua, ông ấy đến văn phòng tôi trong thành phố. Ông nắm trong tay nhiều tờ giấy gỡ từ một cuốn sổ, viết nguệch ngoạc. Mấy thứ giấy đó đây, quý ông có thể xem đi.
McFarlane đặt những thứ đó lên bàn tôi, rồi nói tiếp:
- “Đây là bản... chúc thư của tôi?”, ông Jonas nói, “Thưa ông McFarlane, tôi muốn soạn thảo nó theo thể bản thảo nháp do luật định. Tôi ngồi ở đây trong lúc ông làm”.
Tôi liền bắt tay vào công việc. Nhưng tôi kinh ngạc biết bao khi thấy ông ta làm chúc thư để tặng tài sản cho tôi.
Ông Jonas Oldacre là một người nhỏ bé, có cặp lông mày bạc. Mỗi lần tôi nước mắt lên nhìn về phía ông, tôi lại bắt gặp tia mắt ông chăm chú nhìn tôi với một dáng vẻ vui thích. Tôi thật khó mà tin vào những giác quan của mình khi đọc những điều khoản của bản húc thư. Nhưng ông đã giải thích với tôi là ông không lấy vợ, rằng ông không còn ai thân thích trong gia đình, rằng ngày xưa ông đã quen biết cha mẹ tôi, rằng ông luôn luôn nghe nói về tôi như một thanh niên rất đáng khen, và rằng ít ra tiền bạc của ông sẽ vào những bàn tay thành thạo. Hiển nhiên là tôi chỉ có ấp úng những lời cảm tạ.
Bản di chúc soạn xong, được ký tên và người thư ký của tô đã đứng ra làm chứng. Sau đó ông Jonas Oldacre báo cho tôi biết là ông có nhiều hợp đồng cho thuê nhà đất, những chứng thư cấu thành tài sản, những quyển cầm đồ thế nợ, những phiếu cổ phần… và ông muốn giải thích eho tôi rõ về những giấy tờ đó. Ông bảo là ông sẽ không được an tâm trước khi ông việc được giải quyết xong và yêu cầu tôi đi về nhà ông ngay trong tối hôm đó, đem bản di chúc và sắp đặt tất cả cho có ngăn nắp.
“Nhưng hãy nhớ, con trai của ta! Không một lời nào với ba má con trước khi mọi việc đâu vào đấy! Chúng ta dành cho họ điều ngạc nhiên nhỏ bé này”, ông nhấn mạnh nhiều tới điều đó và ông đã buộc tôi phải hứa lời danh dự.
Tôi gửi một bức điện về nhà để báo tin rằng có việc quan trọng không biết chừng nào mới xong. Ông Oldacre muốn ăn tối với tôi vào lúc 9 giờ. Tôi gặp vài khó khăn mới tìm ra nhà ông và tôi tới nơi khoảng 9 giờ rưỡi. Tôi đã gặp ông…
- Xin lỗi! - Holmes ngắt lời - Ai mở cửa cho ông vào?
- Một bà trung niên, chắc là người quản gia.
- Và cũng chính bà ta đã báo tin ông đến, tôi đoán chừng như vậy
- Quả đúng thế!
- Xin ông vui lòng kể tiếp.
McFarlane lau vầng trán xâm xấp mồ hôi.
-… Tôi được đưa vào phòng khách; nơi đó bữa ăn được dọn sẵn. Ăn xong, ông Jonas Oldacre đưa tôi sang phòng ông, trong đó có một két sắt lớn. Ông mở két, lấy ra một mớ những giấy tờ và chúng tôi cùng nhau xem xét. Khi xem xong thì đã nửa đêm, ông bảo tôi khỏi cần làm phiền người hầu và ông đã đưa tôi ra, qua đường cửa sổ luôn luôn mở rộng trong suốt thời gian đó.
- Bức mành có được hạ xuống không? - Holmes hỏi.
- Nó đã được hạ xuống lưng chừng, ông ấy đã kéo mành lên để có thể mở cửa sổ ra. Tôi không thấy cây gậy; ông bảo tôi: “Đừng quá lo ngại, con ạ; giờ đây rồi chúng ta sẽ gặp nhau luôn. Tã giữ cây gậy của con cho tới khi con tới lấy lại”. Lúc đó đã quá muộn nên tôi không trở về Blackheah được và phải trọ qua đêm ở khách sạn. Tôi không còn biết điều gì hơn nữa, ngoài cái tin đăng trong tờ báo này.
- Ông có cần đặt câu hỏi nào không, thưa ông Holmes? - Lestrade hỏi, cặp lông mày đã nhướn lên hai, ba lần.
- Không trước khi tôi tới Blackheath.
- Chắc ông muốn nói tới Norwood? - Lestrade chữa lại câu nói.
- Ồ phải! Chắc chắn đó là Norwood mà tôi muốn nói. - Holmes nói với một nụ cười bí ẩn.
Lestrade đã có hơn một lần quan sát thấy Holmes với dáng tò mò.
- Tôi rất muốn nói với ông một lời, thưa ông Holmes! Này ông McFarlane, chiếc xe ngựa đang chờ ông ở dưới đường.
Người thanh niên đứng lên và sau một tia nhìn cầu khẩn, rời khỏi phòng.
Cảnh sát dẫn anh ta xuống xe, nhưng Lestrade ở lại với chúng tôi.
Holmes đã cầm lấy xấp giấy hợp thành bản nháp của bản di chúc và anh quan sát chúng một sự quan tâm thấy rõ.
- Tài liệu kỳ lạ, phải thế không, Lestrade? - Anh ta nói, tay đặt tập giấy xuống.
Tới lượt Lestrade xem các giấy tờ, ông rất ngạc nhiên.
- Tôi chỉ có thể đọc được những dòng đầu, những dòng ở đoạn giữa và một hoặc hai dòng ở đoạn cuối: chúng thật rõ như là chữ in. Trong các chỗ khác, chữ viết thật xấu và đây là đoạn mà tôi chẳng hiểu tí gì.
- Anh nghĩ sao về điều đó? - Holmes hỏi. - Nói thật...
- Thế còn ông, ông nghĩ sao?
- Tài liệu này đã được viết ra trên chiếc xe lửa. Nét chữ dễ đọc viết tại nhà ga, chữ xấu trên các đoạn đường giữa những nhà ga, và các chữ không đọc được viết khi tàu chạy trên những chỗ bẻ ghi. Những tờ giấy này đã được viết trên một đường tàu ngoại ô, bởi vì nó có một chuỗi liên tục những chỗ bẻ ghi. Cứ giả thiết rằng suốt chuyến đi đó đã được dành cho việc soạn thảo tờ di chúc, thì đây là một chuyến tàu tốc hành và nó chỉ đừng lại có một lần giữa Norwood và London Bridge.
- Ông quá giỏi, thưa ông Holmes!
Bản chúc thư đã được viết bởi Jonas Oldacre ngày hôm qua, trong lúc đi đường. Thật là kỳ lạ! Tại sao ông ấy viết một chứng từ quan trọng một cách vội vã như vậy?
- Nhưng làm như thế, là có khác nào viết ra bản án tử hình cho chính mình? - Lestrade nói.
- Ồ, ông tin vậy sao?
- Ông không tin à?
- Tôi thấy vụ việc còn chưa được sáng tỏ.
- Nếu vụ này mà chưa sáng tỏ thì vụ nào mới sáng tỏ, đây là một thanh niên bất thình lình được biết rằng nếu ông già đó chết thì anh ta sẽ được hưởng một gia tài. Anh ta làm gì đây? Anh ta không nói với ai biết, nhưng thu xếp để có thể gặp ông già ngay buổi tối hôm đó. Anh ta chờ cho bà già kia đi ngủ, rồi ra tay gϊếŧ ông già, đem thiêu xác, sau đó đi tới một khách sạn gần đó để nghĩ trọ. Những vết máu trong phòng và trên cây gậy đều rất mờ. Rất có thể là anh ta đã không thấy những vết máu đó, và anh ta yên chí rằng mình không để lại dấu vết nào.
- Nếu ông đặt mình vào cương vị của chàng trai đó, thì liệu ông có tính ra tay ngay vào cái buổi tối đó hay không. Cái buổi tối mà bản chúc thư vừa được ký. Hơn nữa liệu ông có chọn cái ngày mà có một người hầu đã đưa ông vào nhà và báo với chủ? Sau chót liệu ông có chuẩn bị tất cả mọi sự dự phòng khả dĩ che dấu được cái tử thi đó không? ra ông có chịu để cái can của mình ở tại đó không? Coi nào, Lestrade, hãy thú nhận rằng điều đó khó xảy ra
- Về cái can, thưa ông Holmes. Ông biết rõ rằng một can phạm thường luôn luôn mắc phải những điều bất cẩn mà một người bình tâm sẽ không làm. Chắc chắn y đã sợ hãi và không dám trở lại trong phòng. Xin ông hãy đề nghị với tôi một giả thiết khác, khớp với sự việc hơn.
- Tôi có thể cung cấp cho ông hàng nửa tá, - Holmes trả lời - Chẳng hạn như đây là một: ông già đưa ra những giấy tờ có giá trị. Một kẻ đầu đường xó chợ đi ngang qua đó ngó qua cửa sổ lúc bức màn chỉ buông xuống nửa vời, thấy mớ giấy tờ. Lúc McFarlane ra về gã đầu đường xó chợ lẻn vào, chụp lấy một cái can và gϊếŧ ông già Oldacre, đem cái xác đi đốt, rồi đào tẩu.
- Tại sao gã đầu đường xó chợ đem đốt cái xác? - Lestrade hỏi.
- Để chôn vùi một chứng cớ - Holmes đáp - Rất có thể là kẻ đầu đường xó chợ muốn che giấu một vụ trả thù mà y là thủ phạm.
- Thế tại sao hắn lại không lấy cái gì?
- Bởi vì đó là những giấy tờ mà y không thể hưởng lợi được.
Lestrade lắc đầu, nhưng với một sức mãnh liệt được dằn xuống.
- Vậy thì, thưa ông Sherlock Holmes, ông hãy đi tìm gã đầu đường xó chợ của ông. Trong lúc chờ đợi, chúng tôi sẽ tạm giam người của chúng tôi. Tương lai sẽ cho biết ai là người có lý. Ông chỉ cần thận trọng điểm này, thưa ông Holmes: Không một giấy tờ nào bị mất, còn người bị cầm tù và người được sở hữu những giấy tờ đó.
Holmes ngạc nhiên, anh nói:
- Đúng như lời ông nói, tương lai sẽ trả lời dứt khoát. Xin tạm biệt, Lestrade. Trong ngày hôm nay, tôi sẽ ghé Norwood để xem ông đã tiến tới đâu.
Sau khi viên thám tử ra về, Holmes đứng lên và chuẩn bị với tâm trạng vui vẻ công việc anh sắp làm trong ngày.
- Anh Watson, tôi tới Blackheath.
- Tại sao không tới Norwood?
- Tối nay sẽ cho anh biết một điều gì đó có lợi cho chàng trai.
Lúc anh trở về thì khuya, vẻ mặt đầy âu lo và mệt mỏi. Trong một tiếng đồng hồ, anh bấm phím cây vĩ cầm để xoa dịu nỗi buồn phiền của mình. Sau chót, anh đặt cây đàn xuống và thuật cho tôi những rủi ro của anh.
- Tôi đã giữ thái độ vững vàng trước mặt Lestrade nhưng tận trong đáy lòng tôi lại tin rằng lần này anh ta theo đúng hướng còn chúng ta thì lạc hướng.
- Anh có đi Blackheath không?
- Có! Người cha đã đi tìm con. Bà mẹ ở nhà. Bà có cặp mắt xanh, run lên vì sợ hãi và phẫn nộ. Bà ta nhất quyết cho rằng con bà không phải là thủ phạm. Nhưng bà không hề xót thương lão Oldacre. Trái lại, bà nói về lão với một nỗi cay đắng khiến cho vô tình bà lại củng cố cho lập luận của cảnh sát.
“Lão ta giống một con khỉ hung ác và lắm mưu mẹo. Ngay lúc còn ấu thơ, lão đã độc ác như loài thú dữ”.
“Vậy là bà đã biết ông ấy từ thuở nhỏ”, tôi hỏi
“Phải, tôi biết rất rõ! Đó là một gã si tình, đã đeo đuổi tôi. Tôi đã đính hôn với y, nhưng khi tôi biết y đã thả một con mèo vào trong chuồng chim, thì tôi liền hủy bỏ hôn ước”.
Bà ta đi lục tìm trong một ngăn tủ và đã đưa tôi xem tấm hình chụp một người đàn bà, bị bôi lem luốc và bị khía rách bằng lưỡi dao nhíp.
“Đây là ảnh tôi. Buổi sáng ngày cử hành hôn lễ của tôi, y đã gởi tấm hình này cho tôi cùng với những lời nguyền rủa đồϊ ҍạϊ ”.
“Vậy thì ít ra ông ta cũng đã tha thứ cho bà, bởi vì ông đã để lại gia tài cho con bà?”
“Con tôi cũng như tôi, chúng tôi không thèm nhận một chút nào của Jonas Oldacre, dù còn sống hay đã chết! Chính thượng đế đã trừng phạt hắn! Con trai tôi vô tội!”.
Sau đó tôi đã thử khơi mào hai hoặc ba ý nghĩ, nhưng chẳng rút ra được điều gì nên tôi đi tới ngôi nhà xảy ra tội ác.
Deep Dene House là một biệt thự lớn, kiểu mới, xây bằng gạch đứng sừng sững trên thửa đất, phía trước nhà trải dài một bãi cỏ với những cây nguyệt quế. Về phía tay mặt và cách xa đường một quãng có một cái sân chứa gỗ xây dựng, là nơi đã phát hỏa. Tôi đã vẽ một bản sơ đồ hiện trường trong cuốn sổ tay. Cánh cửa sổ bên trái này là cửa sổ của phòng ông Oldacre. Từ ngoài đường, người ta có thế nhìn vào trong. Đó là điều an ủi duy nhất mà tôi đã đem về Lestrade không có đó, nhưng người phụ tá đã tiếp đón tôi nồng hậu. Cảnh sát vừa thực hiện một khám phá lớn.
Họ đã dành cả buổi sáng để lục lọi trong đống tro: ngoài những mẫu vụn của xác người bị cháy thành than, họ còn tìm thấy những phiến tròn nhỏ bằng kim khí phai màu. Tôi đã quan sát cẩn thận. Thấy đó là những cái cúc quần dài. Một số những cúc đó có chữ “Hyams”: đó là tên người thợ may quần áo cho Jonas Oldacre.
Tôi sải bước trên bãi cỏ để tìm các dấu vết nhưng tiết trời rất khô, đất rắn như sắt. Tất cả những gì tôi có thể thấy là một xác chết hoặc một kiện hàng cồng kềnh nào đó đã được kéo ngang qua một bờ rìa cây song song với đống gỗ. Việc đó phù hợp với cảnh sát Tôi bò trên bãi cỏ giữa cái nắng tháng tám. Một tiếng đồng hồ sau đó, tôi đứng lên, chẳng tiến thêm được chút nào.
Sau thất bại đó, tôi đi vào trong phòng và khám nghiệm các hiện trường. Những vết máu rất mờ nhạt nhưng rõ ràng đó là những vết máu tươi. Cây can đã được để sang một bên, trên đó cũng có những vết máu mỏng. Đúng là cây can của McFarlane. Trên tấm thảm, tôi lấy được dấu chân của hai người nhưng không có dấu chân của một người thứ ba nào: thêm một điểm nữa cho cảnh sát.
Tôi quan sát các món cất giữ trong két sắt, rất nhiều giấy tờ đã được lôi ra và để ở trên bàn, trong những bao thư có gắn xi niêm phong mà một hoặc hai bao đã được cảnh sát khui ra, tôi thấy chúng không đưa ra một giá trị lớn lao nào, và tài sản trong ngân hàng của ông Jonas cho thấy ông không khá lắm. Nhưng tôi có cảm tưởng l không phải tất cả mọi giấy tờ đều nằm ở đó. Các giấy tờ nhận quyền sở hữu là những cái đáng chú ý hơn cả, nhưng tôi không tìm ra nó. Nếu chúng ta thấy chúng, thì chúng ta sẽ đánh đổ lý luận của Lestrade, bởi vì có ai đi đánh cắp một giấy xác nhận chủ quyền mà y sẽ được thừa kế trong nay mai.
Không còn cách nào khác, tôi thử cầu may với mụ đầy tớ. Bà ta tên là Lexington. Đó là một người nhỏ bé, tóc hung, cặp mắt ngờ vực và không thực thà. Nhưng mụ ngậm miệng như hến. Đúng, chính mụ đã đưa anh chàng McFarlane vào nhà, lúc 9 giờ rưỡi. Mụ đi ngủ vào lúc 10 giờ rưỡi. Phòng mụ ở đầu nhà phía bên kia và mụ đã chẳng nghe thấy gì. Ông McFarlane đã để lại trong gian tiền sảnh cái mũ và cây can của ông. Chính tiếng báo động hỏa hoạn đã đánh thức mụ dậy. Ông chủ già nua của mụ chắc chắn là đã bị ám sát. Ông chủ có kẻ thù nào không? Ai mà chẳng có kẻ thù, phải không? Nhưng ông Oldacre rất kín đáo và những mối quan hệ của ông chỉ là những vụ giao tiếp về công việc làm ăn. Bà ta đã thấy những cái cúc của áo, quần mà ông chủ đã mặc tối hôm trước.
Gỗ rất khô, cháy như bùi nhùi gặp gió. Cũng như những người lính cứu hỏa, mụ đã ngửi thấy mùi thịt nướng. Mụ không biết gì hết về các giấy tờ, cũng như những công việc nặng của ông chủ mụ. Trái lại, đó là một bản tường trình hoàn toàn tiêu cực. Ấy thế mà... ấy thế mà...
Anh siết bàn tay này vào bàn tay kia để tạo thêm sức mạnh cho sự vững tin mà anh sắp bày tỏ.
- Ấy thế mà tôi biết rằng tất cả điều đó là giả dối. Tôi cảm nhận thấy nó trong tận tủy xương tôi. Có một cái gì đó còn chưa chịu ló ra và mụ gia nhân biết một cái gì đó. Trong mắt mụ, tôi đọc thấy một thứ giống như chỉ dấu của một lương tâm tội lỗi. Tốt hơn là chẳng nên nói đến chuyện đó nữa, Watson. Nếu một sự may mắn mà không tới giúp chúng ta thì vụ ở Norwood sẽ không có mặt trên bản tưởng thưởng những thành công của bọn mình.
- Cái dáng vẻ bề ngoài lương thiện của “can phạm” há chẳng gây ấn tượng tốt với đoàn bồi thẩm hay sao?
- Watson, anh có nhớ cái tên sát nhân Bert Stevens, kẻ đã muốn chúng ta cứu thoát hắn vào năm 1887, không. Anh có thấy người nào có những cử chỉ dịu hiền, kẻ nào giống như những đứa con gương mẫu trong một gia đình lương thiện hơn hắn chăng?
- Đúng thế!
- Nếu chúng ta không đưa ra được một giả thiết nào khác thì chàng trai đó bị tiêu. Chỉ có một chi tiết nhỏ liên quan đến giấy tờ. Khi nhìn vào tập ngân phiếu tôi nhận thấy là trong năm vừa qua, nạn nhân có chi trả cho một ông Cornelius nào đó một số tiền rất lớn. Thú thật là tôi mong muốn được biết ông Cornelius là ai, mà một nhà thầu khoán đã ngừng hành nghề lại có những dịch vụ quan trọng đến thế. Liệu ông ta có giữ một vai trò nào trong vụ này chăng? Cornelius có thể là một nhà môi giới chứng khoán, nhưng chúng ta lại không tìm thấy một phiếu cổ phần nào tương ứng với những khoản chi đó. Tôi thiếu những chỉ-dấu khác, giờ đây tôi phải tìm kiếm bên phía ngân hàng về việc gã Cornelius đã lãnh các chi phiếu đó. Nhưng tôi e sợ rằng, vụ này sẽ kết thúc bằng sợi dây thòng lọng mà Lestrade sẽ choàng quanh cổ của chủ chúng ta.
Tôi không biết trong đêm đó Holmes có ngủ được hay không, nhưng khi tôi gặp lại anh trong bữa điểm tâm, thì tôi thấy anh xanh xao, mệt nhoài, những quầng trĩu nặng quanh mắt, làm cho cặp mắt lộ ra trong sáng hơn. Chung quanh ghế bành anh ngồi tấm thảm vương đầy những mẫu tàn thuốc và những ấn bản đầu tiên của nhật báo mới phát hành buổi sáng sớm. Một bức điện tín nằm trên mặt bàn.
- Anh nghĩ sao về bức điện này? - Holmes hỏi - Bức điện được gởi từ Norwood:
“Chứng cớ quan trọng vừa được tìm thấy. Tội lỗi của McFarlane đã được xác minh. Khuyên ông nên bỏ việc điều tra. Lestrade”
- Thế là chuyện trở thành nghiêm trọng rồi đây - Tôi nói.
- Đó là tiếng gáy ò o nhỏ bé của Lestrade - Holmes trả lời với một nụ cười cay đắng - Tuy nhiên, hãy còn quá sớm để mà bỏ cuộc. Anh hãy dùng điểm tâm đi, rồi chúng ta sẽ lên đường.
Chúng tôi đi Norwood. Một đám đông những kẻ hiếu kỳ vây quanh ngôi nhà Deep Den House. Lestrade đón chúng tôi với một vẻ mặt rạng rỡ và một thái độ thắng cuộc.
- Thế nào, ông Holmes, ông có đem theo bằng chứng rằng chúng tôi đã lầm lẫn không? Ông có tìm ra tên đầu đường xó chợ chưa? - ông ta kêu lên.
- Tôi chưa rút ra được một kết luận nào - Holmes đáp.
- Nhưng ngay ngày hôm qua, chúng tôi đã có một kết luận rồi! Chúng tôi! Scotland Yard đây này! Và giờ đây câu kết luận đã kiểm chứng. Ông phải nhìn nhận rằng lần này chúng tôi đã hơi nhanh hơn ông một chút, thưa ông Holmes?
- Ông quả thật có dáng vẻ của một người vừa nhận một ân sủng của Thượng đế! - Holmes nói.
Lestrade buông ra một tràng cười ầm ĩ.
- Ông mong chúng tôi bị thua. Nhưng không ai có thể chiến thắng trong tất cả mọi trường hợp, phải thế không, bác sĩ? Hai ông hãy lại đây, lại đây để thấy rõ tác giả của tội ác chính là John McFarlane.
Ông ta dẫn chúng tôi tới một gian tiền sảnh sẩm tối.
- Đây là nơi mà chàng trai đã đi qua để lấy cái mũ, sau khi gây ra tội ác, xin quý ông hãy nhìn cái này.
Ông bật một que diêm và chỉ vào một vết máu trên tường, ông đưa que diêm sát lại gần hơn: lúc đó tôi thấy còn hơn là một vết: đó là một dấu ngón tay cái in thật rõ.
- Ông hãy dùng kính lúp mà quan sát nó thưa ông Holmes.
- Phải, đó là việc mà tôi đang làm đây.
- Ông dư biết là không có hai dấu tay giống nhau?
- Đúng vậy.
- Thế thì ông hãy so sánh cái dấu này với bản sao lại ngón tay cái trên bàn tay phải của McFarlane được lấy từ dấu vết máu trên tay để lại. Tôi chẳng cần tới một kính lúp cũng nhận ra rằng hai dấu đó y hệt nhau. Thế là quyết định! - Lestrade reo lên.
- Phải, thế là quyết định! - Tôi lặp lại
- Quyết định! - Holmes nói.
Một ngữ điệu nào đó trong giọng nói của Holmes khiến tôi giỏng tai lên. Tôi quay lại để nhìn Holmes. Mặt anh không còn như trước nữa, nó để lộ một niềm vui lớn trong lòng anh. Cặp mắt anh sáng như hai ngọn đèn pha. Tôi có cảm tưởng là Holmes phải phấn đấu dữ dội để cố nén một tiếng cười ngạo nghễ. Sau chót, anh thì thào:
- Ai mà tin được nhỉ. Một chàng trai dáng dấp dễ thương đến thế! đây là một bài học để chúng ta đừng tin vào những cảm tưởng ban đầu, phải thế không, Lestrade?
- Phải, tôi biết có những kẻ thường quá tự tin, thưa ông Holmes – Lestrade nói, sự hỗn xược của ông ta tăng lên.
- Chàng trai đó đã phải ấn ngón tay cái của bàn tay phải vào tường, trước khi gỡ lấy cái mũ móc trên cái máng áo choàng à? Một hành động rất tự nhiên… - Bề ngoài Holmes thật là bình tĩnh, nhưng tất cả thân hình anh lại vặn vẹo dưới ảnh hưởng của một cơn kí©ɧ ŧɧí©ɧ bị kiềm chế. Anh nói thêm:
- Ông Lestrade, ai phát hiện điều này?
- Bà Lexington, người đã báo động cho nhân viên trực gác tối qua.
- Nhân viên trực gác của ông ở đâu?
- Trong căn phòng đã xảy ra tội ác: chúng tôi canh gác để không cho ai đυ.ng tới cái gì cả.
- Nhưng tại sao ngày hôm qua, cảnh sát không thấy vết máu này?
- Có thể nói ngay rằng, chúng tôi không tiến hành một cuộc xét nghiệm tỉ mỉ gian tiền sảnh. Vả chăng, nơi đó lại không được sáng sủa, phải thế không?
- Không hẳn thế. Tôi nghĩ rằng không có gì để nghi ngờ, và rằng dấu vết chưa chắc đã có từ hôm qua.
Lestrade chăm chú nhìn Holmes, tưởng chừng như ông nghĩ rằng Holmes đã mất trí. Thú thật là hính tôi cũng ngạc nhiên bởi cái khía cạnh hơi phi lý trong sự nhận xét của Holmes.
- Ông có nghĩ là đêm qua McFarlane đã ra khỏi xà lim để làm tăng thêm những lời buộc tội vốn đã đè nặng lên anh ta không? - Lestrade nói. - Tôi mời các anh chuyên gia giám định xem đây có phải là dấu ngón tay của anh ta không?
- Đây đúng là dấu ngón tay của anh ta.
- Thế thì đủ rồi! - Lestrade ngắt lời. - Khi tôi có đủ chứng cứ, tôi đi tới kết luận. Nếu ông có điều gì muốn nói, ông sẽ gặp tôi trong phòng khách, là nơi tôi sắp viết bản báo cáo.
- Anh Watson, công việc đường như rất tệ hại, ấy thế mà tôi lại phát hiện ra một cái gì đó thật là kỳ cục. Nó không cho mình được thất vọng.
Tôi thật vui khi nghe anh nói thế. - Tôi trả lời. - Tôi rất sợ là vụ án đã được giải quyết xong.
- Không, nó chưa được giải quyết đâu. Có một nhược điểm nằm ở trong cái bằng chứng mà ông Lestrade đã đưa ra.
- Nhược điểm ở chỗ nào?
- Ở chỗ này đây: vào ngày hôm qua, khi quan sát tiền sảnh, tôi không hề thấy cái dấu tay này. Anh Watson, một cuộc dạo chơi nho nhỏ dưới ánh nắng sẽ không gây thiệt hại cho chúng ta.
Tinh thần bị lộn xộn, nhưng tâm thần lại được sưởi ấm bởi một nguồn hy vọng mới, tôi theo Holmes đi vòng quanh khu vườn. Holmes quan sát ngôi nhà dưới tất cả mọi góc cạnh trước khi trở vào và đi thăm bên trong từ dưới tầng hầm lên tới cái vựa sát mái nhà. Phần lớn những căn phòng không có bày đồ đạc, nhưng Holmes quan sát chúng một cách cực kỳ tỉ mỉ. Sau chót, khi đứng tại bực thềm mà phía trên nó là nơi dẫn đến ba căn phòng không có người ở, anh suýt la lên vì vui mừng.
- Đây là lúc nên cho Lestrade biết bí mật. Anh chàng đã thích thú khi cười ngạo chúng ta.
Viên thanh tra sở Scotland Yard đang cặm cụi viết.
- Tôi tin là ông đang soạn thảo bản báo cáo về vụ án? - Holmes hỏi.
- Đúng vậy.
- Ông không nghĩ là còn quá sớm chăng? Tôi không thể bắt tôi đừng nghi ngờ, bạn Lestrade?
Thanh tra Lestrade đã biết Holmes quá rõ, nên không dám coi thường với câu nói đó. Ông đặt cây viết xuống và nhìn Holmes với vẻ tò mò.
- Ông nói sao?
- Có một nhân chứng quan trọng mà ông đã không thấy.
- Ông có thể giới thiệu người đó với tôi không?
- Dễ thôi!
- Xin hãy làm đi!
- Ông có bao nhiêu nhân viên ở đây?
- Ba người.
- Tuyệt vời! Mấy người đó đều là những tay cao lớn, khỏe mạnh và có giọng nói thật lớn chứ?
- To con và khỏe mạnh thì có. Nhưng vì sao lại cần có giọng nói thật lớn chứ?
- Rồi ông sẽ hiểu thôi và còn nhiều điều nhỏ bé khác nữa. Mong ông vui lòng gọi người của ông lại. Tôi sẽ ráng sức.
Năm phút sau, ba người cảnh sát đã tập hợp trong gian phòng trước. Holmes nói với họ.
- Dưới dãy nhà phụ, có rất nhiều rơm. Mong các ông vui lòng mang tới đây hai bó. Anh Watson, tôi tin là anh có mang diêm quẹt theo. Thưa ông Lestrade, ông có sẵn lòng đi cùng với tôi lên bực thềm trên cao kia chăng?
Trên bực thềm được nói đến, mở ra một dãy hành lang rộng chạy dài theo ba gian phòng ngủ bỏ trống. Tới một đầu, Sherlock Holmes bố trí chúng tôi đứng theo hàng dọc. Các nhân viên thật hớn hở và Lestrade nhìn kỹ bạn tôi với tình cảm xen kẽ sự thích thú, sự lo âu và sự mỉa mai. Holmes tới đứng trước mặt chúng tôi với dáng vẻ một nhà ảo thuật đang chuẩn bị làm trò.
- Ông có sẵn lòng phái một trong những nhân viên của ông đi lấy một xô nước không? Hãy đặt rơm ở đây, trong hành lang này, nhưng đừng đặt sát vào tường. Bây giờ tôi tin là chúng ta đã sẵn sàng.
Lestrade đỏ mặt lên vì giận dữ:
- Tôi tự hỏi không biết ông có chế giễu chúng tôi không, thưa ông Sherlock Holmes. Trong trường hợp ông biết một điều gì đó ông có thể nói toạc ra mà chẳng cần đến cái trò dàn cảnh kỳ cục này.
- Tôi có những lý do đúng đắn để hành động như vậy. Có thể ông còn nhớ là hồi nãy ông đã hơi chế giễu tôi, khi mặt trời ra vẻ chiếu sáng phe ông. Giờ đây xin cho phép tôi được chủ tọa một nghi lễ nho nhỏ. Anh Watson, anh có sẵn lòng mở một cửa sổ ra và ném một cây diêm đang cháy vào cái đống rơm không?
Tôi làm theo điều anh yêu cầu. Bị cuốn hút bởi luồng gió lùa, một dải khói xám tỏa ra trong dãy hành lang, trong lúc rơm khô nổ lách tách dưới ngọn lửa.
- Giờ đây chúng tôi sắp giới thiệu người làm chứng đó với ông, ông Lestrade. Tôi có thể yêu cầu tất cả quý ông cùng kêu lên hai tiếng: Cháy nhà!. Nào Một, hai, ba...
- Cháy nhà! - Cả sáu người cùng hét toáng lên.
- Cảm ơn. Mong quý ông lặp lại.
- Cháy nhà!
- Thêm một lần nữa, và cùng một lúc.
- Cháy nhà!
Tiếng kêu của chúng tôi lớn đến đỗi ở đầu đằng kia hạt Norwood cũng phải nghe thấy.
Bất thình lình từ trong một bức tường phẳng ở cuối dãy hành lang, một cánh cửa mở tung ra, và một người nhỏ bé nhảy ra như một con thỏ vọt ra khỏi hang.
- Tuyệt! - Holmes nói với một giọng thật bình tĩnh - Watson, mong anh hãy trút xô nước lên đống rơm. Cám ơn. Thế là đủ. Lestrade, xin cho phép tôi được giới thiệu với ông: đây là ông Jonas Oldacre.
Viên thám tử sững sờ, nhìn chằm chằm vào người mới tới đang hấp háy mắt và đang lần lượt ngó nhìn toán chúng tôi và vào ngọn lửa đang dần dần lịm tắt. Ông ta có một cái đầu ghê tởm: mưu mô, thói hư, tật xấu, và lòng độc ác.
- Thế là thế nào? - Lestrade hỏi, sau khi đã tìm lại được việc sử dụng cái lưỡi - Ông làm gì trong khoảng thời gian đó?
Oldacre thất ra một tiếng cười ngượng nghịu, nhưng ông lùi lại trước bộ mặt đe dọa của Lestrade.
- Tôi không làm gì tai hại cả.
- Không tai hại à? Ông đã làm tất cả những gì cần làm để cho một người vô tội phải bị treo cổ. Nếu không có Sherlock Holmes thì ông đã thành công trong cái mưu mô ác độc đó rồi.
Kẻ gian ác bắt đầu khóc rấm rứt:
- Thưa ông tôi xin đoán chắc với ông rằng đây chỉ là một trò đùa, không hơn không kém.
- Một trò đùa hả? Nhưng tôi, tôi không sẵn lòng cười đâu? Hãy đưa ông này vào trong phòng khách cho tới khi tôi xuống... Thưa ông Holmes. - Nhà thám tử nói tiếp, sau khi Jonas đã được đưa đi cùng với ba cảnh sát. - Tôi không thể nói ra trước mặt các thuộc viên, nhưng trước mặt bác sĩ Watson, tôi xin thành thật nhìn nhận rằng ông đã thành công. Đây là một trong những cú đẹp nhất trong sự nghiệp của ông... ông đã cứu dược mạng sống cho người vô tội và đã ngừa trước một vụ tai tiếng lớn lao có thể làm tiêu tan danh tiếng Lestrade này trong sở Scotland Yard.
Holmes mỉm cười, vỗ lên vai Lestrade
- Thay vì danh tiếng bị tiêu tan, tên tuổi ông bạn tốt của tôi sẽ được lẫy lừng thêm nữa. Ông bạn chỉ cần sửa lại vài chi tiết trong bản báo cáo mà ông đang viết đó, và tất cả mọi người sẽ hiểu là chẳng có ai có thể đem phấn mà ném vào mắt thanh tra Lestrade.
- Bộ ông không muốn tôi nêu tên ông ra?
- Phải! Và bây giờ chúng ta hãy đến xem cái hang của con chuột đi.
Một bức vách ngăn bằng lát nan và trát thạch cao đã được sắp xếp trên 6 bộ chiều dài ở cuối hành lang, với một cánh cửa được che giấu một cách khéo léo, ánh sáng đến từ các khe hở của những tấm nan lát. Có vài ba món đồ, thức ăn và nước uống ở bên trong, cũng như có nhiều cuốn sổ và tài liệu. Holmes nói:
- Nhà thầu khoán này đã tự làm lấy cái chỗ ẩn náu nhỏ bé này mà chẳng cần đến một kẻ đồng lõa ngoại trừ cái mụ đầy tớ quý hóa mà tôi sẽ mau chóng nhét vào trong cái đáy hai túi của tôi, nếu tôi ở địa vị ông, ông Lestrade.
- Tôi sẽ theo lời khuyên của ông. Nhưng làm thế nào mà ông lại biết được chỗ này, thưa ông Holmes?
- Tôi có ý nghĩ là lão già quỷ quyệt này trốn ngay trong nhà mình. Khi sải bước trong hành lang, tôi khám phá ra rằng nó ngắn hơn dãy hành lang tương tự ở phía dưới mất 6 bộ. Ngay tức khắc, tôi đoán ra được nơi lão trốn. Tôi tự nhủ là hắn không đủ vững tinh thần để không nhúc nhích trong lúc có báo động cháy nhà. Tất nhiên là chúng ta có thể xông vào bắt hắn nhưng tôi lại thích hắn phải tự mình chường ra. Vả chăng tôi cũng muốn chọc quê ông một chút chơi, vì hồi nãy ông đã chế nhạo tôi.
- Vậy thì, ông đã ăn miếng trả miếng rồi đấy nhé. Một hòa nhé. Nhưng làm thế nào mà ông biết được con quỷ đó ở trong nhà?
- Dấu lăn tay! Ông đã bảo với tôi rằng đó là một bằng chứng quyết định. Đúng, ông có lý, nhưng nó quyết định cho sự ngược lại. Tôi đã biết ngày hôm qua trên tường không có dấu vết đó. Vậy thì nó đã được thêm vào trong đêm khuy
- Bằng cách nào?
- Khi những xấp giấy đã được niêm phong, Jonas Oldacre yêu cầu McFarlane kiểm tra một trong những con dấu bằng cách ấn ngón tay cái lên trên sáp mềm. Điều đó đã xảy ra thật nhanh và thật tự nhiên đến nỗi chàng trai không còn nhớ gì nữa. Ngay chính cả lão quỷ này cũng không chắc đã nghĩ đến là về sau sẽ còn sử dụng cái dấu vết tay đó. Nhưng khi trốn trong hang, hắn đã nghiền ngẫm lại nội vụ và bất chợt thấy được tầm quan trọng của sự buộc tội McFarlane, nếu hắn sử dụng cái dấu tay đó. In lại một dấu tay trên xi, bôi máu vào nó, rồi đem in lại nó trên tường, hoặc do chính tay hắn hoặc qua trung gian của mụ quản gia, chỉ là trò trẻ con đối với cái tên vô lại đó. Nếu như ông chịu bỏ công ra mà xem xét các tài liệu mà y đã đem cất trong cái hang của y, tôi dám cá với ông là ông sẽ tìm thấy con dấu niêm với vết lăn tay ở bên.
- Tuyệt vời! - Lestrade reo lên - Thật rất rõ ràng. Nhưng tại sao lại có một sự đánh lừa ác hiểm đến như thế, thưa ông.
Tôi không thể ghìm được một nụ cười: tất cả sự tự mãn đến xấc xược của viên thanh tra đã rớt xuống, người ta dám nói đây là một cậu học trò đang hỏi ý kiến ông thầy.
- Hắn là một nhân vật rất thâm, rất ác, rất ham trả thù. Thuở xưa, hắn đã bị bà mẹ của McFarlane hủy bỏ lời hứa hôn, hắn coi đó là một điều bị lăng nhục, và để lòng hận thù, hắn muốn được trả món thù xưa, nhưng chưa có cơ hội. Trong hai năm gần đây, những vụ kinh doanh của hắn đã gặp những tình huống xấu, hắn khó mà trả được nợ. Hắn quyết định quịt nợ, và vì mục đích ấy, hắn đã viết những chi phiếu lớn cho một ông tên là Cornelius. Tôi chưa theo dõi những chi phiếu đó, nhưng tôi dám đánh cuộc là chúng đã được phát hành cho người nhận đó trong một tỉnh lẻ là nơi mà thỉnh thoảng hắn đến đó sống một cuộc sống khác. Hắn đã có ý định thay tên đổi họ, rút lấy tiền và rồi bỏ đi nơi khác sinh sống. Cornelius chính là tên giả của hắn.
- Rất có lý.
- Hắn cho rằng nếu hắn bị mất tích trong một trận hỏa hoạn thì hắn sẽ thoát được tất cả mọi sự truy tố, cùng lúc hắn sẽ thực hiện được một cuộc trả thù khủng khϊếp đối với người phụ nữ năm xưa, bằng cách làm cho đứa con trai duy nhất của bà vào tù. Và hắn đã thực hiện điều này như một bậc thầy: Ngón khéo của bản chúc thư, động cơ gây tội ác, cuộc viếng thăm bí mật mà cha mẹ chàng trai không biết, sự đánh xoáy cây can, vết máu, những mẫu vụn bị cháy thành than của thịt động vật, những cái nút áo, nút quần... Tất cả đều đáng khâm phục. Hắn đã giăng lưới khéo đến nỗi cho tới sáng này tôi còn chưa biết thoát ra bằng cách nào.
Nhưng hắn đã không biết dừng lại. Hắn lại còn muốn siết chặt thêm nữa sợi dây thòng lọng vốn đã quấn lấy cổ chàng trai, cho nên hắn đã bị mất hết. Chúng ta xuống thôi, Lestrade.
Tên vô lại ngồi trong phòng khách của chính y, bị kèm sát bởi hai viên cảnh sát. Hắn rêи ɾỉ:
- Đó chỉ là một trò đùa thôi mà, thưa ngài “Đại Lượng”. Tôi ẩn trốn là để muốn biết người ta nghĩ gì về tôi, sau khi “chết”.
- Đoàn bồi thẩm sẽ quyết định việc đó - Lestrade trả lời .
- Và chắc chắn là ông sẽ được biết rằng các chủ nợ của ông Cornelius... - Holmes nói thêm.
Lão già giật nẩy mình và hướng đôi mắt dữ tợn của y về phía bạn tôi:
- Một ngày nào đó, tôi sẽ trả món nợ này.
Holmes nở một nụ cười khoan dung.
- Trong vài năm tới, ông sẽ rất bận rộn. Nhân đây xin cho hỏi một câu: Ông đã ném cái gì vào trong đống gỗ cùng với cái quần cũ của ông? Một con chó chết? Những con thỏ? Hay là cái gì? Ông không muốn nói ra ư? Ồ! Ông thật khó thương biết bao!
Hết