Xin Nghe Lời Thần Linh

Chương 56

Tám mươi bảy người chơi ẩn trong một viện bỏ hoang ở trung tâm cổ trấn, buổi tối họ về đây còn ban ngày thì chia ra đến các chùa miếu tìm kiếm manh mối và chờ người chơi mới đến.

Ngày đầu tiên khi Du Tiểu Kiệt đến đây, 85 người chơi ban đầu trong sân chơi đã phát hiện ra hắn nhưng ngại không biết tính cách hắn thế nào nên không dám tùy tiện tiếp cận, chỉ bí mật quan sát một thời gian.

Kikuno Karin thì bị bọn họ phát hiện khi đang theo dõi hai người chơi khác trên phố, họ cũng tạm thời bí mật quan sát cô, phát hiện cô quen biết Du Tiểu Kiệt, cũng từ đó biết sự tồn tại của Cao Yến.

Ngay ngày đầu tiên Cao Yến xuất hiện trong màn thăng cấp “Du Bồ Tát”, trang phục của cậu rất giống người địa phương, vừa mới vào đúng lúc chen chúc trên đường phố đông đúc, sau đó trực tiếp đi đến dinh thự của Trần Thanh Sơn, bởi vậy cậu không bị phát hiện hành tung.

Cho đến khi cậu tụ họp với Du Tiểu Kiệt và Kikuno Karin mới bị phát hiện. 85 người chơi muốn đi tìm ba người trước, vì họ đã liên hệ hai người chơi vào cùng đợt với Cao Yến, kế tiếp chính là ba người. Nhưng Kikuno Karin lại phát hiện đại bản doanh của bọn họ trước một bước, sau đó trực tiếp xông vào viện gặp mặt, hai bên phải hiểu biết đầu đuôi trước rồi mới quyết định có cùng đồng hành hay không.

Cao Yến quyết định đi gặp họ một chút, có thể sẽ biết được nhiều manh mối hơn.

Ẩn trong đường phố sầm uất là một viện đổ nát, nằm ngay phía sau miếu nữ cô, chỉ cách một bức tường.

Du Tiểu Kiệt nhìn thấy liền nhếch miệng: “Đúng là duyên phận, không hổ là sân chơi đặc biệt nhiều thần linh địa phương. Không phô trương đáng sợ mà coi trọng duyên phận.”

Bên cạnh miếu nữ cô có một căn gác lửng, đạo cô trông coi miếu, vẩy nước quét nhà và giải xăm đều ở trong căn gác lửng này. Trùng hợp là phía sau gác lửng còn có một cánh cửa nhỏ, đối diện cánh cửa chính là cửa chính của cái viện bỏ hoang kia.

Đạo cô giải xăm trong miếu đi ra, hất nước bùa ra giữa đường lớn, ngẩng đầu thấy nhóm Du Tiểu Kiệt còn làm như không có việc gì chào hỏi: “Còn giải xăm không? Lần này coi như cho mấy người được lợi, cho không vài tin tức nhỏ luôn, thế nào?”

Du Tiểu Kiệt nhỏ giọng nói: “… Rất tham tiền, toàn bộ tiền em kiếm được đều xài rồi. Sau lại tìm cô ta dò xét tin tức, moi sạch hết của em. Nếu không phải chỉ ở đây sáu ngày thì em nhất định hủy cái bảng hiệu của cô ta. Một ả giả danh nữ đạo cô lừa bịp mà tự cho mình là *khôn đạo đoan chính?”

*坤道 khôn đạo: Đạo giáo chính thống gọi là khôn đạo, trong điển tịch Đạo giáo, nam đạo sĩ gọi là kiền đạo, nữ đạo sĩ gọi là khôn đạo.

Cao Yến liếc nhìn nữ đạo cô, không nói tiếng nào mà xoay người gõ cửa.

Kikuno Karin giơ tay áo che mặt, đứng phía sau Cao Yến, ngay cả ánh mắt cũng không thèm nhìn đạo cô. Nhưng Du Tiểu Kiệt thì cười một cái, tùy tiện nói một hai câu đuổi cô ta đi.

Nữ đạo cô đóng cửa căn gác lửng lại, mà cánh cửa trước mặt ba người cũng kẽo kẹt mở ra, một thiếu niên có gương mặt non nớt xuất hiện sau cửa. Thiếu niên nhìn Cao Yến và Du Tiểu Kiệt trước, sau đó nhận ra Kikuno Karin bèn lên tiếng: “Vào đi.”

Ba người bước vào, thiếu niên đóng cửa lại.

Con ngõ nhỏ khôi phục yên tĩnh, một giây sau, cửa căn gác hơi hé ra một khe nhỏ, nữ đạo cô vốn đã đi kỳ thật nấp sau cửa, một con mắt nhìn chằm chằm cánh cửa viện đối diện qua khe hở, trong mắt không có chút cảm xúc thuộc về con người.

Một lúc lâu sau, cánh cửa chậm rãi đóng lại, nữ đạo cô biến mất sau khe cửa.

Bên kia, thiếu niên tự giới thiệu, hắn tên là Triệu Hồi Âm, người chơi trung cấp, nửa năm trước vào màn này, là nhóm người chơi thứ 17, đã trải qua 15 lần lặp lại tuần hoàn, lần này là thứ 16.

“Bốn năm trước, lặp lại tuần hoàn bị khởi động, người chơi bị kẹt trong sân chơi, không ai thành công qua cửa. Mỗi lần có tổng cộng 7 người chơi tiến vào, tổng cộng 20 nhóm, 140 người chơi, còn lại 85 người. Mọi người là nhóm mới nhất, nếu như không ra được, may mắn sống sót thì sẽ thành 90 người chơi.”

“Hoặc thành công qua cửa rời khỏi đây, hoặc kẹt lại từ từ mất ký ức, đồng thời bị đồng hóa thành NPC sân chơi.”

Triệu Hồi Âm đi trước dẫn đường, vừa đi vừa giới thiệu tình hình sân chơi.

“Bây giờ đang là ban ngày, trong viện không có nhiều người, tất cả đi ra ngoài tìm manh mối rồi, hiện tại chỉ còn lại tôi và anh Vương. Anh Vương là người chơi nhóm đầu tiên, người chơi duy nhất còn sống sót.”

Cao Yến bỗng hỏi: “Nhóm của anh ta đã chết 5 người?”

Triệu Hồi Âm dừng bước, quay phắt đầu lại mở to mắt nhìn Cao Yến: “Anh biết có một người chơi qua cửa?”

Cao Yến đáp: “Tôi không chỉ biết có một người đã qua cửa mà còn biết chính gã đã khiến sân chơi lặp lại tuần hoàn.”

Triệu Hồi Âm biến sắc, đánh giá Cao Yến: “Xem ra anh biết rất nhiều.” Hắn gật gật đầu, không nhìn ra là vừa lòng hay là giễu cợt nói: “Có một người chơi thông minh xuất hiện là chuyện tốt, đáng tiếc không chắc có thể tìm được cách qua cửa.”

Nói xong hắn im lặng dẫn ba người tiến lên.

Kikuno Karin mấp máy môi, không phát ra tiếng: “Cao Yến, một giờ không gặp, anh chạy đến đâu moi được tin tức quan trọng như vậy?”

Cậu cũng hạ giọng thật thấp đáp: “Quan trọng là… Suy đoán của tôi chính xác.”

Kikuno Karin: “Anh nói đúng.”

Anh Vương trong lời Triệu Hồi Âm tên là Vương Hành, là người khá hào sảng, không câu nệ tiểu tiết. Gặp mặt và trò chuyện mới phát hiện Vương Hành đối nhân xử thế rất nghĩa khí, có điều nếu như không kiên cường chính trực, phỏng chừng sẽ không quản lý người chơi khác.

Triệu Hồi Âm báo cáo sự việc với Vương Hành, vẻ mặt anh không có gì thay đổi, chẳng qua khi ngẩng đầu nhìn ba người Cao Yến thì giọng điệu khá thân thiện và tôn trọng.

“Ba người biết tình hình màn trung cấp này là do người chơi gây ra?”

Cao Yến đáp: “Coi như vậy.”

Vương Hành thân thiện bắt tay, dẫn đầu bày tỏ hoan nghênh bọn họ, sau đó hiếu kỳ hỏi: “Vì lặp lại tuần hoàn, manh mối và tin tức đầu tiên đã bị xóa sạch, thậm chí rất nhiều người chơi không biết chuyện sân chơi bị tuần hoàn chứ đừng nói là biết nhóm người chơi đầu tiên đã khiến sân chơi bị thế này. Không có người biết nội tình nhắc nhở, sao ba người biết được?”

Cao Yến đáp: “Nghĩa trang bảy quan tài có một người làm lâu năm, bà ta ở sâu trong ngõ nhỏ, ký ức không có tuần hoàn lặp lại.”

Vương Hành trầm tư trong chốc lát, rốt cuộc nhớ ra người làm lâu năm ở nghĩa trang bảy quan tài, anh lập tức lộ vẻ kinh ngạc: “Bà ta còn ở đó?”

Cao Yến: “Cái gì?”

“Không phải, ý của tôi là… Hình như tôi đã hoàn toàn quên mất bà lão ấy, trí nhớ như bị xóa đi vậy. Cậu nhắc đến, tôi nghĩ một lúc mới nhớ ra. Trước đây nhóm người chơi đầu tiên là chúng tôi đã tìm đến bà ấy hỏi thăm về nghĩa trang và miếu âm công, sự hiện diện của bà ấy trong trí nhớ tôi rất quan trọng, kết quả tôi lại quên mất.”

Vương Hành cảm thấy kỳ quái, anh nhất thời không phân rõ rốt cuộc là do thời gian qua lâu khiến anh quên đi bà lão, hay là bị sân chơi ảnh hưởng nên bỏ qua.

Triệu Hồi Âm bên cạnh cũng ngạc nhiên nói: “Em nhớ khi em đến nửa năm trước, lúc điều tra nghĩa trang và miếu âm công có nghe ông từ ở Thanh Sơn cung nhắc đến bà ấy, lúc đó em còn nghĩ sẽ tìm hỏi bà ấy. Chẳng qua chưa kịp đi thì gặp anh Vương, sau đó quên mất luôn.”

Quên rất kỳ lạ, giống như một sự tồn tại tầm thường nhất bên cạnh, khiến người ta coi thường bỏ qua, xem như vật trong suốt.

Nếu không phải Cao Yến nhắc đến thì hình ảnh bà lão trong đầu họ sẽ chỉ là một hình vẽ mơ hồ dễ bỏ qua.

Vương Hành hỏi: “Bà ấy còn nhắc đến chuyện gì khác không?”

Cao Yến đáp: “Bà ấy nói người đầu tiên tìm đến bà ấy là người xứ khác, kẻ này đã mang Bồ Tát đến, từ đó cổ trấn rơi vào tuần hoàn.”

Vương Hành hơi giật mình, lẩm bẩm nói: “Vẫn có người nhớ rõ?” Anh lập tức bổ sung: “Thảo nào người chơi sẽ bỏ qua bà ấy, vì bà ấy không nằm trong tuần hoàn nên bị đẩy ra ngoài biên.”

Cao Yến hỏi: “Cụ thể đã chuyện gì xảy ra, anh nói rõ ràng đi.”

Vương Hành thở dài rồi mời mọi người ngồi xuống, sau đó xốc lại tinh thần rồi kể lại câu chuyện xưa – câu chuyện anh đã kể đi kể lại không biết bao nhiêu lần.

“Đại khái bốn năm trước, chúng tôi là nhóm người chơi đầu tiên, màn “Du Bồ Tát” là màn trung cấp đầu tiên của chúng tôi, độ khó vốn sẽ không cao, ít nhất kém độ khó màn thăng cấp sơ cấp. Nhưng màn này đã bao vây 85 người chơi, người bị nhốt lâu nhất là bốn năm, lặp lại 120 lần sáu ngày tuần hoàn.”

Vương Hành dừng lại một chút: “Tôi chính là người bị nhốt lâu nhất, lặp lại nhiều nhất. Tuy hiện tại tôi không bị điên nhưng khoảng cách gần sụp đổ không còn xa nữa. Tôi có cảm giác, chỉ cần qua hai ba lần nữa thôi là tôi sẽ quên hết tất cả mọi chuyện, bị đồng hóa thành NPC dân trấn.”

Cao Yến hỏi: “Người chơi qua cửa duy nhất đã làm gì?”

“Gã dùng đạo cụ đảo ngược thời không, vây thời gian trong sân chơi.”

“Mục đích là gì?”

Cậu không quan tâʍ đa͙σ cụ đảo ngược thời không, dù sao sân chơi đã bị ảnh hưởng rồi, có tìm ra cũng vô dụng. Huống chi nếu có thể tìm được hoặc tiêu hủy đạo cụ này thì Vương Hành ở đây bốn năm sẽ không tìm không ra, càng không tiêu hủy được. Trừ phi đó là đường cụt, bởi vậy cậu trực tiếp pass phương án qua cửa này.

Vương Hành đáp: “Để thu giá trị tín ngưỡng.”

Cao Yến bỗng đứng bật dậy, từ trên cao nhìn xuống Vương Hành: “Giá trị tín ngưỡng? Gã người chơi kia có dấu ấn thần linh, cần thu thập giá trị tín ngưỡng? Hắn là Bồ Tát! Quan Thế Âm? Địa Tạng Vương? Phổ Hiền hay là Văn Thù?”

Không đợi Vương Hành trả lời, cậu đã cau mày nói tiếp: “Trí, bi, hành, nguyện, dấu hiệu của Tứ Đại Bồ Tát. Cổ trấn sớm kết nhân quả oan nghiệt hẳn là có liên quan đến miếu âm công và tín ngưỡng thần linh địa phương, thế nên có liên quan đến nguyện. Gã kia chính Là Địa Tạng Vương Bồ Tát!”

Tứ Đại Bồ Tát trong Phật Giáo Đại thừa, lấy Quan Âm đứng đầu, sau đó là Địa Tạng Vương, Phổ Hiền và Văn Thù Bồ Tát. Trí, bi, hành, nguyện phân biệt là đại biểu cho trí tuệ, từ bi, hành tiễn và nguyện lực. Theo thứ tự Trí Tuệ Văn Thù Bồ Tát, Đại Từ Đại Bi Quan Âm Bồ Tát, Đại Hành Phổ Hiền Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Địa Tạng Vương Bồ Tát hành tẩu ở âm dương, độ hóa tối tăm và khó khăn ở hai giới âm dương, phát xuống ý nguyện to lớn độ hết thế nhân mà thành Phật, ý nguyện to lớn vô tận, vì thế có tên là Đại Nguyện Bồ Tát.

Dân trấn từng kết nhân quả với thần linh địa phương hoặc miếu âm công, không biết nguyên nhân gì mà tử vong, oán khí không tan, do đó hình thành một tòa thành chết. Có thể vì lý do này mà bị thần linh chó má chọn làm sân chơi, vốn gặp được người chơi bình thường, khiến người chơi qua cửa là được.

Nếu may mắn, không chừng gặp được người chơi có thể hóa giải oán khí của họ.

Đáng tiếc rất xui xẻo, bọn họ gặp phải người chơi có dấu ấn thần linh là Địa Tạng Vương Bồ Tát, mà gã này không có ý định giải phóng toàn bộ oan hồn trong trấn, ngược lại còn lợi dụng bọn họ kiếm chác giá trị tín ngưỡng.

Tiểu Quan Âm từng nói, sân chơi có không ít người chơi có dấu ấn thần linh giống nhau, mà con đường bọn họ thành thần chính là thu hoạch giá trị tín ngưỡng.

Quan Thế Âm đứng đầu Tứ Đại Bồ Tát, con đường thành thần tương đương ba Bồ Tát còn lại, đã có người đi con đường đại từ bi, đương nhiên cũng có nhiều người đi đường tắt thoải mái thu hoạch giá trị tín ngưỡng.

Hiện tại Cao Yến gặp người chơi qua cửa duy nhất trong màn này chính là người đi đường tắt, mà cách đi đường tắt chính là bao vây 140 người chơi cùng toàn bộ cổ trấn.

Vương Hành ngạc nhiên: “Cậu biết?!”

Cao Yến lạnh lùng nói: “Người thu hoạch giá trị tín ngưỡng, ngoại trừ Phật đạo thì còn có hệ thống thần linh nào yêu cầu như vậy? Phật đạo có Tứ Đại Bồ Tát nổi tiếng, tùy tiện chọn lọc một chút là đoán ra. Chẳng qua trước đây Tứ Đại Bồ Tát lấy độ hóa thế nhân làm bản nguyện, lấy cứu khổ cứu nạn làm mục đích, vậy nên có thể thành Phật. Hiện tại thì ngược lại, có người chơi vì trở thành Bồ Tát mà lợi dụng người đời, lẫn lộn đầu đuôi, nhân quả đảo ngược.”

Vương Hành nghe vậy vừa nghi ngờ vừa kinh hỉ nhìn chằm chằm Cao Yến: “Cậu… cũng là?”

“Quan Thế Âm. Nhưng tôi không có năng lực độ hóa, đừng quá mong chờ.”

Một câu đơn giản đánh tan mong đợi của Vương Hành, cũng không phải là Cao Yến không muốn giúp mà là làm không nổi.

Giải quyết nhân quả dân trấn không giống sân chơi “Hố xương vạn đứa trẻ”, bên kia có thể dùng tâm kinh siêu độ, hơn nữa quá trình không có trở ngại. Màn trung cấp “Du Bồ Tát” thì lại không thể dính vào nhân quả. Đối với nhóm người chơi là 126 lần lặp lại tuần hoàn, nhưng đối với dân trấn thì con số này tăng gấp đôi.

Trải qua mấy trăm lần tuần hoàn đều không thể giảm bớt chấp niệm trong lòng dân trấn, trái lại còn khiến họ hãm sâu hơn, nhân quả dây dưa đến mức đáng sợ, đương nhiên siêu độ không đơn giản như “Hố xương vạn đứa trẻ”. Ít nhất trước khi siêu độ cần phải giải quyết dứt điểm chấp niệm trong lòng họ, nếu đổi lại bốn năm trước thì có thể, nhưng hiện tại thì không thể nữa rồi.

Vương Hành hơi thất vọng thở dài, nhưng không đến mức tuyệt vọng, anh cũng biết màn trung cấp này có nhân quả rất sâu, riêng việc có thể qua cửa rời đi đã là may mắn lắm rồi.

Tự thân khó bảo toàn, ai còn để ý đến chấp niệm nhập ma của dân trấn?

Cao Yến lên tiếng: “Anh kể đầu đuôi hết mọi chuyện được không, từ khi vừa thành lập cổ trấn, đến nghĩa trang, miếu âm công, hội du thần, tháp cốt, cuối cùng là người chơi qua cửa duy nhất kia.”

Đầu tiên Vương Hành bảo Triệu Hồi Âm bưng điểm tâm và trà nước lên, sau đó nhiệt tình mời khách: “Chuyện dài lắm, ăn miếng bánh uống miếng nước lấp đầy bụng trước đi.”

Mọi người: “…” Phảng phất như đại hội tọa đàm kể chuyện xưa vậy.

Mọi người ngồi xuống uống trà ăn bánh.

Cao Yến phá vỡ sự im lặng trước: “Có hạt dưa không?”

Triệu Hồi Âm sửng sốt, sau đó đáp: “Không có.”

Cao Yến: “Hạt dưa là yếu tố không thể thiếu khi nghe kể chuyện.”

Du Tiểu Kiệt gật đầu liên tục biểu thị tán thành.

Triệu Hồi Âm: “?”

Vương Hành thở dài: “Không có hạt đưa, tôi đi khắp cổ trấn, ngay cả hạt dưa ướt cũng không có. Nhưng có đậu phộng, mọi người ăn không?”

Là một người phải kể đi kể lại cùng một câu chuyện đến mấy chục lần, mới đầu Vương Hành nghiêm trọng và tuyệt vọng, càng về sau anh càng thoải mái, cuối cùng có thể vừa nhấm nháp trà xanh vừa cắn đậu phộng, tâm trạng thăng hoa khá nhiều.

Khuyết điểm duy nhất là không có hạt dưa.

Hạt dưa chính là linh hồn khi tám chuyện!

Cao Yến tán thành: “Mấy tình huống này mà thiếu hạt dưa, luôn cảm thấy thiếu hứng thú.”

Vương Hành thầm nghĩ anh gặp được tri kỷ rồi, sau khi trò chuyện một chút về các màn chơi trước và cuộc sống hiện thực, Triệu Hồi Âm khiêng một túi đậu phộng ra, đổ một đống lớn ra bàn, lúc này Vương Hành bắt đầu kể lại chuyện xưa.

“Trấn này vốn tên là trấn Thanh Sơn, lấy tên từ Thanh Sơn Vương – thần linh tín ngưỡng của người dân nơi đây. Sớm nhất là vào thời Minh Thanh, xung quanh đây vốn có rất nhiều thôn xóm hình thành một địa phương, tín ngưỡng là Thanh Sơn Vương, Nữ cô, Trân Châu nương nương. Sau đó có một trận ôn dịch, mấy thôn xóm gần đây đều bị nạn, hơn nữa nơi này quá xa, quan phủ không chú ý đến, mười nơi thì chín nơi không còn, duy chỉ có một thôn không bị dịch bệnh lây nhiễm, nguyên nhân được đồn đãi là do có Thanh Sơn Vương phù hộ: “

“Cư dân gần đó nghe được lời đồn đều dọn đến trong thôn làng có Thanh Sơn Vương phù hộ, dân số tăng lên, từ từ hình thành trấn, vì vậy đổi tên là trấn Thanh Sơn. Trấn Thanh Sơn thờ phụng Thanh Sơn Vương, đồng thời tín ngưỡng thần linh địa phương khác, vốn là sống chung tốt đẹp, cho đến thời Dân Quốc…”

Du Tiểu Kiệt châm trà cho Vương Hành: “Thế nào?”

Vương Hành uống một hớp thấm giọng, vô cùng hưởng thụ ánh mắt mong chờ của người nghe.

“Thời Dân Quốc, quy mô trấn Thanh Sơn mở rộng, nhưng vẫn cực kỳ tín ngưỡng thần linh, lúc đó tư tưởng mới quét đến, cư dân có vẻ không hợp với bên ngoài. Dần dần trấn Thanh Sơn trở nên khép kín, người xứ khác rất ít khi đến đây. Mà trấn Thanh Sơn dựa núi, sông nước chảy quanh, bình thường tự cung tự cấp, dần dần thoát ly ngoại giới.”

Vương Hành dừng một chút rồi nói tiếp: “Kỳ thật trấn Thanh Sơn có địa thế đặc thù, ba mặt toàn núi, một mặt là nước, hình thành bố cục khép kín. Trước kia cũng vì thôn xóm khép kín nên không bị ôn dịch tràn vào, nhưng thôn dân mê tín, cho rằng không bị nhiễm bệnh dịch là nhờ có Thanh Sơn Vương phù hộ.”

Cao Yến lên tiếng: “Tôi có nghe qua truyền thuyết dân gian vùng Phúc Kiến, Thanh Sơn Linh Cảnh Tôn Vương từng bảo hộ toàn dân một thôn không bị bệnh dịch lây nhiễm, hoàn toàn xứng đáng là Thành Hoàng.”

Có rất nhiều truyền thuyết giống thế này, thỉnh thoảng trùng hợp và bất ngờ, nhưng đều thống nhất là thay thần linh đắp lên khăn che mặt thần bí.

Vương Hành gật đầu: “Thói quen tự cung tự cấp, trấn Thanh Sơn trải qua cuộc sống yên ả không sóng gió. Bỗng có một ngày, cư dân vớt được một xác chết trôi trên sông lớn vờn quanh trấn. Xác chết trôi bị ngâm nước trương phình, không nhìn ra dáng vẻ, không tìm được chứng minh thân phận, trở thành xác chết vô danh, dù chôn cất cũng không có cách lập bia. Trấn Thanh Sơn tin quỷ thần, càng tin luân hồi, thế là ông từ ở Thanh Sơn cung và khôn đạo ở miếu nữ cô thương lượng với nhau xây dựng miếu âm công thờ cúng xác chết trôi vô danh.”

“Miếu xây xong, ngay từ đầu, người đương thời vì hiếu kỳ và đùa vui đến cầu nguyện, thật không ngờ nguyện vọng trở thành sự thật, mà cái giá tạ lễ thần lại không lớn. Lòng người tham lam, có thể không làm mà hưởng, cầu gì được nấy khiến ham muốn càng lúc càng lớn. Mà cái giá tạ lễ thần cũng ngày càng cao, cao đến nỗi cuối cùng phải dùng mạng người để trả.” Cao Yến suy đoán tiếp, sau đó nghiêng đầu nhẹ giọng hỏi: “Đúng không?”

Vương Hành im lặng thật lâu không nói gì, cuối cùng đáp: “Đúng vậy.”

Cao Yến nói tiếp: “Nếu phải dùng mạng để trả thì họ phải giảm bớt ham muốn mới đúng. Nhưng rõ ràng hài cốt vô danh trong miếu âm công không chỉ có một, bên trong có đến hàng chục hàng trăm… Đều là hài cốt vô danh?”

Vương Hành: “Ừ.”

Cao Yến lại hỏi: “Đều là xác chết trôi bị chết đuối?”

Vương Hành đáp: “Đúng vậy.”

“Do tai nạn ngoài ý muốn hay do… con người gây ra?”

Vương Hành thở dài: “Cậu rất thông minh…” Anh tiếp tục đề tài câu chuyện: “Đúng là do con người gây ra. Vì dân trấn quá tham lam, miếu âm công chỉ thờ cúng một xác chết trôi thì không đủ dùng. Hơn nữa xác chết trôi càng nhiều thì dân trấn càng có nhiều lựa chọn, thế nên hài cốt vô danh được thờ cúng càng nhiều, cái giá tạ lễ thần càng nhỏ. Dân trấn thấy vậy càng thờ cúng miếu âm công. Đến cuối cùng, người đứng trên bờ thấy người xứ khác đang đuối nước mà thờ ơ lạnh nhạt, còn cười nói bàn tán xem phải chia thành miếu cô nương và miếu ứng công.”

Du Tiểu Kiệt mắng “Má nó!”

Còn Kikuno Karin thì giơ tay áo che mặt, nhỏ giọng nói: “Tự làm bậy.”

Dân trấn cho rằng bàng quan không cứu người té xuống nước thì bản thân họ không có nhân quả, sao có thể chứ? Lạnh lùng thấy chết không cứu còn tàn khốc đáng sợ hơn cả trực tiếp hại người, thêm nữa sau đó họ còn mang xác chết trôi vào miếu âm công thờ cúng và cầu nguyện.

Cứ như vậy, năm dài tháng rộng trôi qua, oán khí ở miếu âm công tích tụ từng chút một, cuối cùng thành khí đen dày đặc, vô số oan hồn ngưng tụ trên xà ngang trong miếu, mắt lạnh nhìn vẻ mặt tham lam của dân trấn đi qua đi lại.

Chúng như là những thợ săn ưu tú cực kỳ kiên nhẫn, chậm rãi bồi bổ dã tâm và lòng tham của dân trấn, khiến nhân quả hai bên ảnh hưởng nhau đến tình cảnh vặn vẹo méo mó. Mặc dù cư dân đã thờ phụng Thanh Sơn Vương, miếu nữ cô, Hắc Bạch Vô Thường mấy trăm năm, nhưng tất cả cũng không thể nhúng tay xen vào công cuộc báo thù của oan hồn trong miếu âm công.

Ngay từ đầu, bảy quan tài đặt trong nghĩa trang là một nhà bảy người, họ cầu miếu âm công phương pháp bí mật chế tạo giấy, dùng phương pháp này làm ra giấy không sợ lửa và nước. Giấy này cung cấp cho Trần Thanh Sơn trấn trên chế tạo tháp cốt, tháp cốt chế ra có thể nhảy qua đống lửa mà không bị đốt cháy, rất được hoan nghênh. Đồng dạng, loại giấy này cũng vận chuyển ra ngoài, lượng tiêu thụ rất tốt.

Chưa đến hai ba năm, cả nhà kia phất lên, mua các căn nhà gần điền trang, ý đồ quay vòng miếu âm công ở phía sau.

Kết quả vào năm thứ ba, ngay ngày mười lăm tháng giêng hội du thần, một nhà bảy người ở điền trang đi theo dân trấn cùng nhau bái âm hồn đã trở thành ác sát trong miếu âm công, sau đó lại đi đến Thanh Sơn Cung, miếu nữ cô, miếu nương nương v.v… bái lạy. Buổi tối về nhà bị ác sát nấp dưới giường gϊếŧ sạch.

Dân trấn tưởng bảy người nhà kia quá tham lam, không chú ý cẩn thận, lúc bái Thanh Sơn Vương không thành tâm mới khiến cho “thứ” trong miếu âm công lấy tạ lễ thành công. Bọn họ xem thường, kết quả làm thế nào cũng không thể di chuyển xác bảy người bị đột tử.

Cuối cùng ngoại trừ bà lão, không ai để ý đến bảy người đã chết này nữa.

Hội du thần vẫn tiếp tục, mà lúc đó mọi người đã dời đến sống trong trung tâm cổ trấn, rời xa miếu âm công. Hội du thần kéo dài đến hai mươi tháng giêng, Thanh Sơn Vương ngầm tuần tra, ngày cuối cùng, tháp cốt cùng tượng thần nhảy qua đống lửa.

Đúng lúc này, cuộc trả thù của các âm hồn chính thức bắt đầu.

Đầu tiên là người trong bảy tháp cốt tượng thần đều đột tử bất ngờ, có người nhảy qua đống lửa trực tiếp táng thân trong lửa, bị thiêu sống chết tươi trước mặt toàn bộ dân trấn, dù có giội mấy thùng nước thì ngọn lửa đáng sợ kia vẫn không tắt.

Lửa cháy hừng hực trước mặt tất cả mọi người, người mặc tháp cốt đó bị thiêu đốt thành than đá, sau đó vỡ tan từng mảnh.

Mấy âm hồn tập trung trong đống lửa, nương theo tiếng kêu rên mà vặn vẹo cuồng hoan.

Một màn này, tất cả cư dân đều nhìn thấy tận mắt.

Sau đó, người mặc tháp cốt vai Ải Tử Gia, Ông Tử Thần nhảy về phía trước bỗng té gãy cổ tử vong.

Hội du thần liên tục xảy ra tai nạn ngoài ý muốn, án mạng liên tục kéo đến, có lẽ từ giây phút một nhà bảy người ở điền trang bị ác sát gϊếŧ chết trở đi, báo ứng bắt đầu kéo đến.

Có người muốn chạy trốn, rời khỏi trấn Thanh Sơn nhưng cuối cùng đều quay lại.

Bọn họ trốn không thoát, chạy không được.

Họ chưa từng vươn tay cứu giúp người xứ khác rơi xuống nước, nay bị kẹt trong trấn Thanh Sơn, hướng người xứ khác đi ngang qua cầu cứu, nhưng tiếng kêu cứu cùng gương mặt sợ hãi của họ mãi mãi không được người xứ khác phát hiện.

Người xứ khác như cọng rơm cứu mạng từ từ rời đi ngay trước mặt họ, không dừng lại cập bến.

“Hai mươi tháng giêng, lúc nhảy qua đống lửa trong hội du thần, tất cả dây thừng cột tượng thần đồng loạt đứt hết, tượng thần rơi vào đống lửa.”

“Thần linh, từ bỏ dân trấn.”

Thật ra chân tướng không phải là vứt bỏ, mà là thần linh bất lực, không thể nhúng tay vào nhân quả giữa dân trấn và miếu âm công.

Vì có nhân thì có quả, có vay có trả, đúng vậy, thần linh chân chính phải công chính vô tư.

“Hai mươi mốt tháng giêng, một trận bệnh dịch cực lớn cuốn đến thôn trấn, không ai sống sót.” Vương Hành thở dài một hơi, nói một tràng dài làm anh hơi khát nước, anh rót một ấm trà lớn rồi nói tiếp: “Đó là quá khứ của trấn Thanh Sơn, cũng là những gì nhóm người chơi đầu tiên chúng tôi tra được. Ngay từ đầu, chỉ cần hoàn thành việc chế tạo tháp cốt, sau đó mặc vào, thuận lợi nhảy qua đống lửa, tiến vào Thanh Sơn Cung, được Thanh Sơn Vương phù hộ là có thể thuận lợi qua cửa.”

Kikuno Karin chống tay gác cằm lên mu bàn tay, giọng nói nhỏ nhẹ: “Vậy là nếu không có người chơi qua cửa duy nhất kia phá rối, tất cả chúng ta chỉ cần tìm được giấy hoặc khung trúc không cháy, giao cho Trần Thanh Sơn hoàn thành tháp cốt. Sau đó chúng ta mặc tháp cốt vào, tiến vào Thanh Sơn Cung, bái lạy Thanh Sơn Vương là có thể thuận lợi qua cửa.”

Cách qua cửa giống như đúc những gì họ đoán ban đầu, có điều người chơi bái kiến Thanh Sơn Vương, lý do là gì?

Du Tiểu Kiệt lên tiếng: “Lẽ nào họ còn vọng tưởng Thanh Sơn Vương cứu họ như đã cứu tổ tiên bọn họ, phù hộ họ không chết vì bệnh dịch?”

Vương Hành im lặng không nói gì, anh và những người chơi khác đều cho rằng dân trấn muốn cầu Thanh Sơn Vương giúp đỡ, mong người chơi chuyển nguyện vọng của họ đến trước mặt Thanh Sơn Vương, cầu ngài phù hộ.

“Bọn họ khát vọng được sống nên vẫn duy trì ký ức và cuộc sống 6 ngày trước khi chết, vốn là ngày thứ sáu, chúng ta phải đi vào Thanh Sơn Cung sau đó qua cửa rời khỏi đây, thế nhưng…” Vương Hành thấp giọng, giống như đang kiềm chế tâm trạng gì đó: “Nhóm chúng tôi vốn có 6 người sống sót, nhưng đến ngày thứ sáu, ngay ở cửa Thanh Sơn Cung, gã kia đột nhiên làm loạn, lấy đạo cụ kỳ quái lặp lại thời gian, lừa dân trấn tin vào Bồ Tát.”

“Tin Bồ Tát, Bồ Tát sẽ độ hóa thế nhân, dù là âm hồn địa giới cũng có thể được độ hóa hướng thiện. Gã còn nói, nếu như không muốn lặp lại tử vong từng trải qua, vậy hãy để cho thời gian vĩnh viễn dừng lại ở sáu ngày hội du thần.”

Sáu ngày đó là sáu ngày dân trấn trải qua khủng hoảng và đe dọa, nhưng không có bệnh dịch đáng sợ, chưa có người chết ồ ạt, bọn họ điên cuồng tín ngưỡng người chơi kia, tín ngưỡng Bồ Tát.

Bọn họ hô to: “Bồ Tát! Bồ Tát!”

Giống hệt tín đồ trung thành và cuồng nhiệt, nghiễm nhiên xem Bồ Tát là cứu rỗi duy nhất.

Theo như lời bà lão nói, bọn họ tín ngưỡng vào Thanh Sơn Vương, thờ phụng Thanh Sơn Vương, nhưng cũng là tín đồ của Bồ Tát.

Du Tiểu Kiệt lên tiếng: “Lòng tốt từ thần linh: Bồ Tát! Bồ Tát! Thì ra chính là ý này… Không đúng, Bồ Tát này là người chơi đầu tiên mang đến, vậy là bắt đầu từ màn sau, “Lòng tốt từ thần linh” mới bị thay đổi? Điều này chứng tỏ trò chơi chó má biết tất cả?”

Cao Yến nhìn Vương Hành, Du Tiểu Kiệt đã nói ra tất cả nghi ngờ của cậu.

Gương mặt Vương Hành đầy vẻ chua xót, gật đầu nói: “Đáng sợ ở chỗ, gã sử dụng đạo cụ trong trò chơi, được thần linh tán thành.”

Cao Yến: “Vậy coi như là quy tắc trò chơi không công bằng?”

“Không, chỉ là quy tắc có lỗ hổng, không tính là vi phạm quy tắc. Trừ phi cậu có thể sửa đổi quy tắc trước mắt, hoàn toàn phủ định đạo cụ gã để lại, như vậy, trò chơi chó má mới có thể làm sai quy tắc.”

Cao Yến như có điều suy nghĩ: “Là vậy à…”

Du Tiểu Kiệt nghe thế cả người run lên, vẻ mặt trở nên hưng phấn, hắn luôn cảm thấy Cao Yến vừa nói câu này, trò chơi chó má sẽ gặp xui xẻo.

Nhưng Cao Yến không tiếp tục đề tài này mà lại hỏi: “Gã kia tên gì?”

“Địa Tạng.”

“Lấy Bồ Tát làm tên?”

“Đúng vậy.”

“Gan lớn.”

“Gã là đệ tử Mật tông, lấy Địa Tạng vi tôn, được coi là Địa Tạng Vương Bồ Tát chuyển sinh. Nghe nói lúc sinh ra có thần thông, chủ động tiến vào trò chơi là vì muốn trở thành Địa Tạng Vương chân chính.”

Cao Yến cười nhạo: “Gã làm được đại bản nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát là độ hóa bầy quỷ và thế nhân ở hai giới âm dương rồi hãy nói.”

Vương Hành vỗ tay: “Nói không sai! Loại rác rưởi lợi dụng tính mạng người chơi, tâm nguyện và sự không cam lòng của âm hồn trải đường thay gã, gã không sợ phản phệ.”

Cao Yến hỏi: “Gã dùng cách này để lừa gạt giá trị tín ngưỡng?”

“Hẳn là vậy.”

Cậu cau mày suy nghĩ sâu xa, gã người chơi Mật Tông kia vào đây đã bốn năm. Thời gian bốn năm, dùng mọi thủ đoạn thu hoạch giá trị tín ngưỡng, phỏng chừng gã đã sớm lên màn cao cấp.

Gã tiếp tục đi trên con đường này, không biết đã gieo họa cho bao nhiêu sân chơi và người chơi.

Cao Yến lắc đầu, trong lòng hơi khinh thường cách làm của gã người chơi Mật Tông, vô cùng thâm độc. Hơn nữa phỏng chừng kết nhân quả cũng rất lớn, càng về sau, đối với tu hành càng không có lợi.

Cậu lại nói: “Bà lão trong điền trang vẫn còn ký ức, Bồ Tát vốn không tồn tại lại xuất hiện ở trấn Thanh Sơn trong sáu ngày này. Hình như lặp lại tuần hoàn không phải là không có kẽ hở.”

Hết chương 56

*Mật Tông (zh. 密宗 mì-zōng) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật Tông lại chia thành hai phái: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna). Sự phát triển của Mật Tông gắn với các luận sư nổi tiếng như Subha Karasimha (Thiên Vô Úy, 637-735), Vajra Bodhi (Kim Cương Trí, 671-741), Amoghavajra (Bất Không Kim Cương, 705-774), Padmasambhava (Liên Hoa Sinh, cuối thế kỷ thứ VIII), Dipankarasrijanàna (Atisa, cuối thế kỷ thứ XI). Padmasambhava và Dipankarasrijanàna là những người có công đưa Mật Tông vào Tây Tạng và trở thành tôn giáo chính ở đây. https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADt_t%C3%B4ng

*Địa Tạng Vương Bồ Tát là một vị Bồ-tát được tôn thờ trong Phật giáo Đông Á, thường được mô tả như một tỉ-khâu phương Đông. Địa Tạng Bồ-tát được biết đến bởi lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi vào thời kỳ sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn cho đến khi Bồ-tát Di Lặc hạ sanh, và nguyện không chứng Phật quả nếu địa ngục chưa trống rỗng. Do đó, Địa Tạng thường được xem như là vị Bồ-tát của chúng sanh dưới địa ngục hay là giáo chủ của cõi U Minh.